Đứa Con Của Ban Mai

Chương 6: Chương 6




Grace đột nhập vào một ngôi nhà. Nàng đã chọn được chỗ trốn trước bình minh rất lâu, trong một khu vực dưới trung bình chắc chắn không có hệ thống an ninh mà chỉ có những người hàng xóm tò mò. Nàng đã quan sát các ngôi nhà, chọn ra một cái không có đồ chơi, xe đạp, hay xích đu ở sân sau. Nàng muốn một ngôi nhà không có trẻ nhỏ, một ngôi nhà cả hai vợ chồng đều đi làm và không ai ở nhà suốt ngày hết. Trẻ con sẽ làm vấn đề phức tạp hơn; chúng bị ốm bất kể lúc nào và sẽ làm gián đoạn mọi kế hoạch.

Bóng tối chỉ vừa mới bắt đầu giảm bớt khi ngôi nhà bừng lên sức sống, cửa sổ sáng ánh đèn, âm thanh bị giảm bớt của đài ra-đi-ô và ti vi thẩm thấu qua các bức tường. Mùi thơm của cà phê và thịt xông khói trêu ngươi nàng. Nàng không biết hôm nay là ngày gì, ngày trong tuần hay cuối tuần, liệu bọn trẻ có đi tới trường không hay sẽ chơi ở trong sân và trên phố suốt cả một ngày. Nàng cầu cho hôm nay là ngày trong tuần.

Mọi người bắt đầu ra đi, hàng hàng những chiếc xe ô tô và xe bán tải để lại vệt khói phía sau trong cái giá lạnh ban sáng.

Grace cẩn thận ghi lại có bao nhiêu người rời khỏi mỗi ngôi nhà.

Cuối cùng nàng chọn mục tiêu của mình. Người chồng đi trước, và khoảng hai mươi phút sau người vợ lái xe đi với một tiếng lách cách của bậc thang báo hiệu việc đó.

Tuy nhiên Grace vẫn đợi, và những lời cầu nguyện của nàng đã được trả lời. Trẻ con bắt đầu xuất hiện, mang theo sách vở và ba lô, giọng nói to rõ với những tiếng cười khúc khích vui thích do kì nghỉ hè đang tới kích động. Những ngày lạnh lẽo vừa qua không làm giảm sự háo hức của chúng. Trường học sẽ nhanh chóng đóng cửa, thời tiết sẽ ấm hơn, và một kì nghỉ hè dài đang trải trước mắt chúng. Grace ghen tị với niềm vui giản đơn của chúng.

Xe buýt tới, con phố vắng tanh. Sự im lặng ngự trị trên khu phố một lần nữa, trừ thoảng hoặc có vài người khởi hành, ngày làm việc của những người này ít nhất cũng phải tám giờ mới bắt đầu.

Giờ chính là lúc, khi con phố gần như vắng lặng nhưng vẫn có những âm thanh thông thường ở xung quanh khiến mọi người ít chú ý tới một tiếng động kì lạ do kính vỡ gây ra.

Grace vòng ra sau ngôi nhà mục tiêu của nàng, được bao bọc bởi một hàng rào tỉa tót cẩn thận ngăn cách ngôi nhà với những căn nhà hàng xóm.

Đúng như nàng hi vọng, phần trên của cửa sau làm bằng kính. Ai đó vẫn còn ở trong ngôi nhà bên trái, nhưng rèm được kéo xuống nên người đó chắc chắn không nhìn thấy nàng. Ngôi nhà ở bên phải là một cái trại kiểu những năm năm mươi, với chiều dài dài hơn nhưng độ sâu lại nông hơn ngôi nhà này; bất kì ai nhìn ra cửa sổ cũng không thấy được phần phía sau của ngôi nhà.

Hi vọng tìm được một cách dễ dàng, nàng nhìn quanh tìm một địa điểm thuận lợi để giấu chìa khoá. Chẳng có chậu hoa nào, tấm thảm trước cửa cũng chẳng giấu cái gì. Đập bể kính khó hơn nàng tưởng. Ti vi và các bộ phim đã làm cho nó trông có vẻ rất dễ dàng, những miếng kính bể tan từ một cú đập báng súng hay thúc cùi chỏ. Ngoài đời thực chuyện ấy không diễn ra. Sau khi đã làm sưng cùi chỏ của mình, nàng nhìn quanh tìm một vũ khí cứng hơn, nhưng cái sân được giữ gìn ngăn nắp và chẳng có hòn đá bằng nắm tay nào nằm ở quanh đó cả. Tuy nhiên, có mấy viên gạch, được đặt cẩn thận để thành viền cho một khóm hoa.

Với chiếc áo len đỏ giăng ra trên mặt kính để chặn tiếng vỡ, Grace đập cục gạch vào mặt kính cho đến khi nó vỡ tan. Sau khi để lại viên gạch, nàng hít một hơi dài, rồi với tay vào trong và mở cửa. Việc đó đòi hỏi mọi sự can đảm của nàng. Bước vào căn nhà lạ, im ắng đó làm nàng run rẩy. Khi nàng đã bước chân qua sợi chỉ ấy, nàng sẽ chính thức phạm tội đột nhập và xâm phạm, nàng người luôn luôn cẩn thận tới mức thực sự chấp hành quy định giới hạn tốc độ.

Nàng không ở đây để ăn trộm cái gì cả, trừ nước nóng và một ít điện. Lần bị bắt hụt ở cửa hàng thực phẩm khiến việc nàng bắt đầu hoà mình vào đám đông và dựng nên một vài nét nguỵ trang nào đó là cực kì cần thiết. Nàng không thể tiếp tục trông như kẻ vô gia cư; nàng phải trông …như mọi người. Hoà nhập hay là chết.

Trái tim nàng đập mạnh khi cởi bỏ bộ quần áo bẩn thỉu và đặt chúng vào trong chiếc máy giặt của một người phụ nữ không quen biết. Lỡ nàng đã tính toán sai thì sao, lỡ người vợ hoặc người chồng không đi cả ngày, không đi làm, mà thay vào đó một trong hai người chỉ đi làm việc vặt và sẽ trở lại bất kì lúc nào? Ít nhất thì họ sẽ gọi cảnh sát, nếu một người phụ nữ lạ bị bắt gặp trần truồng, đang tắm trong nhà của họ.

Nhưng nàng không dám thử thuê một phòng trọ, với cái bề ngoài và mùi mẽ của nàng sẽ không ai cho nàng thuê một phòng cả, thậm chí nếu nàng có trả tiền mặt đi nữa. Và có lẽ người của Parrish sẽ kiểm tra các nhà trọ; một nhân viên chắc chắn sẽ nhớ ra nàng. Chỉ lần này thôi nàng cần phải tắm và giặt quần áo nơi nàng không thể bị nhìn thấy, nơi không ai chú ý tới nàng, và sau lần này nàng sẽ trông đáng trọng hơn. Nàng sẽ có thể vào một trạm giặt ủi tự động và giặt quần áo của nàng, vào trong các cửa hàng và mua những thứ nàng cần để giả trang, để ẩn mình trong thế giới mênh mông của những con người đáng trọng.

Đáng lẽ nàng nên tắm thật nhanh. Nàng biết là thế, nhưng nàng không làm vậy. Nàng đứng dưới vòi nước, cảm thấy tia nước tẩy sạch da thịt mình, cảm thấy mái tóc bết dính của mình thẫm nước. Nàng gội đầu hai lần, và chà mình tới khi da nàng đỏ ửng hết cả lên, vậy mà nàng vẫn không muốn ra khỏi vòi hoa sen. Nàng đứng đó thậm chí cả khi nước bắt đầu nguội đi và tia nước ngày càng lạnh buốt. Nàng không tắt nước cho tới khi quá lạnh đến mức nàng phải rùng mình, và nàng làm như vậy chỉ vì nàng đã bị lạnh suốt ba ngày và nàng mệt mỏi với nó lắm rồi.

Nàng thấy nhẹ nhõm khi lại sạch sẽ một lần nữa đến nỗi suýt khóc. Suýt, bởi vì vì lý do gì đó nước mắt không thực sự chảy ra. Nàng có khóc cho Ford và Bryant không? Nàng không thể nhớ được. Nàng có những kí ức trong rõ như pha lê về rất nhiều thứ xảy ra trong cái đêm kinh hoàng đó, nhưng nàng không thể nhớ được nước mắt. Chắc chắn nàng đã khóc chứ. Nhưng nếu nàng chưa khóc … nếu nàng chưa khóc vì họ, thì nàng sẽ không khóc vì một thứ vô cùng ngớ ngẩn là được sạch sẽ. Khóc vì những thứ nhỏ nhặt hơn sẽ hạ thấp họ, và nàng không thể chịu được điều đó.

Nàng thô bạo chà khăn tắm khắp làn da trần của mình, rồi quấn tấm vải ẩm quanh đầu. Nàng không muốn lợi dụng lòng hiếu khách không tự nguyện của chủ nhà hơn mức cần thiết, và sử dụng hai chiếc khăn tắm thay vì một chắc chắn là một việc xa xỉ.

Rồi, gần như run rẩy vì háo hức, nàng kéo khoá chiếc túi và lấy ra bộ quần áo mới. Chiếc quần bò và áo len rất nhăn nhúm, áo khoác bớt nhăn hơn. Grace kéo vỏ nhựa cứng ra khỏi con dao làm bếp của nàng và thử độ sắc của nó bằng cách cắt mác quần áo. Con dao dễ dàng khứa qua sợi dây nhựa và nàng đăm chiêu nhìn lưỡi dao sáng bóng. Không tệ.

Nàng vứt đống quần áo vào trong máy sấy để làm phẳng các nếp nhăn, và đánh răng trong khi máy sấy làm việc. Nàng nhìn hình phản chiếu của mình trong gương, hơi ngạc nhiên. Trông nàng rất khác sao đó, và đó không chỉ là vì vẻ kiệt sức lồ lộ trên mặt nàng. Sự nhợt nhạt không có gì ngạc nhiên, cũng như hai quầng thâm dưới mắt. Không, đó là cái gì khác, cái gì đó rất khó hiểu.

Nhún vai gạt đi sự thắc mắc của mình, nàng quay lại chú ý tới các vấn đề trước mắt. Mái tóc dài của nàng mất cả đống thời gian mới tự khô được, nên nàng dùng chiếc máy sấy đặt cạnh bồn rửa mặt.

Bím tóc dày của nàng quá dễ nhận. Nàng nên cắt tóc. Nàng nghĩ về việc tìm một chiếc kéo, nhưng ý nghĩ đó không thể chuyển thành hành động được. Ford yêu mái tóc dài của nàng, anh thường chơi đùa với nó.

Nỗi đau như một cú đá mạnh vào ngực, huỷ diệt nàng. Nàng dựa vào bức tường, răng nghiến chặt để ngăn một tiếng kêu gào khi cả cơ thể nàng gập lại trước tác động của cú đánh. Ôi, Chúa ơi, ôi Chúa ơi.

Nàng có thể thấy mình tan ra từ bên trong, sự mất mát kinh khủng đó choáng ngợp đến nỗi chắc chắn nàng không thể tiếp tục sống được, chắc chắn trái tim nàng sẽ ngừng đập vì nỗi đau. Trừ một nhu cầu hoang dại để trả thù Parrish, nàng không còn lý do nào để sống. Nhưng trái tim nàng, cái cơ bắp cứng chắc, vô cảm đó không cảm thấy sự than khóc của nàng và vẫn tiếp tục không một nhịp dừng cái nhiệm vụ bơm máu được định sẵn cho nó.

Không. Không. Nàng không thể làm thế này. Than khóc là một sự xa xỉ mà nàng không trả nổi; nàng đã biết từ đầu rằng nó sẽ xé toạc con người nàng. Nàng phải đặt nó ở thật xa tới sau khi nàng giải quyết Parrish, khi nàng có thể tiếp cận những kí ức về Ford, về Bryant, và nói, “Em đã không để hắn thoát.”

Hít vào những hơi thở sâu, rùng mình, nàng ưỡn thẳng cơ thể đau đớn của mình. Nỗi đau rất thực, rất mạnh mẽ đến nỗi nó thực sự ngấm vào các cơ bắp của nàng. Với hai bàn tay run rẩy nàng sấy khô tóc, mặc dù nàng không biết phải làm gì với mái tóc dày trừ việc tết lại. Vào lúc này nàng chỉ để mặc nó xoã ra ngang lưng nàng và nhặt quần áo ra khỏi máy sấy.

Bộ quần áo rất nóng, gần như là quá nóng, nhưng nàng thích thú với hơi ấm. Nàng nhanh chóng mặc quần lót sạch và đi tất vào, rồi mặc hết quần áo trước khi hơi nóng bay mất. Chiếc áo len có cảm giác như thiên đường; nàng thở dài khi hơi ấm bao bọc quanh mình. Áo lót của nàng vẫn ở trong máy giặt, nhưng nàng không thực sự thấy cần. Nàng chưa bao giờ nở nang, và chiếc áo len thì rất dày.

Chiếc quần jean rất rộng, gần như quá rộng không giữ nguyên chỗ được. Nàng đã chọn cỡ bình thường của mình, nhưng có lẽ mác đã bị gắn sai. Nhíu mày, nàng kéo khoá quần ra để kiểm tra mác phía trong. Không, vẫn đúng cỡ. Có thể đường cắt rộng hơn bình thường, trừ khi bằng cách nào đó nàng đã sút khoảng mười pound (5kg). Nàng chợt nhận ra. Sau bốn ngày không ăn, gần như không ngủ, đi bộ suốt đêm, liên tục bị stress, tất nhiên nàng phải sút cân.

Được nhắc nhở tới nhu cầu ăn, nàng lấy ổ bánh mình giờ vẹo vọ đáng thương và thanh bơ lạc ra. Sau khi đặt lại chế độ cho chiếc máy giặt để bộ quần áo bẩn của nàng qua một lần giặt nữa, nàng ngồi xuống chiếc bàn bếp cũ kĩ và trét bơ lạc lên một lát bánh mỳ. Cả một chiếc bánh sandwich có lẽ là hơi phí phạm, bởi vì cổ họng nàng đã nghẹn đắng trước viễn cảnh ăn một nửa cái.

Với sự giúp đỡ của một ly nước, nàng bắt đầu ăn một cách kiên cường. Nuốt là một nỗ lực, và dạ dày của nàng, vốn đã quen với sự trống rỗng, cuộn lên một cơn buồn nôn đột ngột. Grace ngồi rất im và tập trung vào việc không nôn. Nàng phải ăn nếu không nàng sẽ không thể hoạt động được nữa.

Sau một hai phút nàng uống một ngụm nước, và cắn một miếng nhỏ khác.

Tới lúc máy giặt đã hoàn thành một chu trình khác của nó, nàng cũng ăn hết được nửa chiếc bánh sandwich.

Nàng rửa cốc và đặt lại vào trong tủ bếp, lau sạch bàn, rửa dao, và bỏ lại bánh mỳ và bơ vào trong túi. Con dao… nàng cố giắt nó vào trong đỉa quần, nhưng cán dao không đủ to để ngăn nó khỏi trượt qua. Nàng không muốn giắt một con dao lưỡi trần vào túi quần, nhưng nàng cũng không muốn bọc an toàn tới mức sẽ mất thời gian quý báu để lột nó ra nếu nàng cần con dao trong trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như chiến đấu bảo vệ sinh mạng.

Nàng cần một trong những con dao có bao, kiểu giắt được vào đỉa quần. Nghĩ tới đó, nàng cần một sợi dây lưng dù có hay không có bao đựng dao, bởi vì chiếc quần thực sự rất rộng.

Thứ nàng thực sự cần là một con dao bấm, để nàng không cần phải lo về dây lưng hay là bao dao.

Nàng đột nhiên nhận ra nàng đã đi một đoạn đường dài trong bốn ngày vừa qua, và không chỉ là khoảng cách giữa Minneapolis và Eau Claire. Bốn ngày trước thậm chí nàng sẽ không bao giờ nghĩ đến việc dùng dao trên một người nào đó, thậm chí là để bảo vệ bản thân. Ngày hôm nay nàng sẽ không do dự.

Trở vào trong bếp, nàng tháo một ít giấy cuộn rồi gập chúng hai lần trước khi quấn quanh lưỡi dao và trượt nó vào trong túi quần trước bên phải, để cho cán dao thò ra và được áo len che khuất. Nếu nàng cần con dao, nó sẽ trượt ngay ra. Nàng phải cẩn thận và không tự đâm mình trước khi nàng có thể tìm được cái gì đó an toàn hơn, nhưng bây giờ nàng đã cảm thấy khá hơn.

Làm xong việc đó, nàng đặt quần áo của mình vào trong máy sấy cùng với chiếc khăn nàng đã dùng, ném vào một ít chất làm mềm vải, rồi trở lại phòng tắm để làm cái gì đó với tóc nàng. Khi nàng đi ngang qua chiếc túi để mở nàng tự động liếc về phía đó để đảm bảo với mình rằng chiếc máy tính vẫn an toàn, và hình ảnh cái túi phồng to làm nàng dừng phắt. Một cơn đói dâng lên trong nàng, một nhu cầu không liên quan gì đến thức ăn hay hơi ấm. Nó còn không liên quan gì đến thể xác, vậy mà vẫn gặm nhấm nàng y hệt thế. Nàng muốn làm việc. Nàng muốn ngồi hàng giờ miệt mài với chữ nghĩa, ghi chú, tham khảo chương trình ngôn ngữ của nàng, đưa vào các thông tin. Nàng muốn tìm ra chuyện gì đã xảy ra cho Niall của Scotland, hàng bao nhiêu thế kỉ trước ấy.

Pin đã yếu, gần như hết. Đáng lẽ nàng có thể sạc lại trong lúc tắm, nhưng nàng đã bỏ phí mất một giờ. Tuy nhiên nàng vẫn có thể bật máy lên và chạy bằng điện trong nhà này, chỉ đến khi quần áo của nàng khô.

Nàng chống lại niềm thôi thúc. Nàng phải rời đi thật nhanh, và nàng không muốn làm mọi chuyện khó khăn hơn bằng cách vương vãi đồ đạc của nàng khắp nơi. Nếu nàng bắt đầu làm việc nàng sẽ quên mất thời gian, việc đó đã xảy ra hơn một lần, và nàng có nhiều việc phải làm hôm nay. Nàng đã di chuyển vào ban đêm và trốn vào ban ngày, nhưng việc đó phải thay đổi. Chúng đang săn đuổi nàng vào ban đêm, chúng biết đó là khi nàng di chuyển, vì thế nàng phải thay đổi thói quen cũng như diện mạo của nàng.

Sử dụng vài chiếc kẹp tăm tìm được trong phòng tắm, nàng quấn tóc lên và kẹp nó trên đỉnh đầu. Nhờ kinh nghiệm nàng biết rằng những lọn tóc trơn tuột sẽ nhanh chóng bị trượt ra khỏi kẹp, nàng đội cái mũ lưỡi trai lên đầu để giữ nó ở nguyên chỗ.

Chẳng giả dạng được nhiều lắm, nhưng thêm vào sự thay đổi trang phục thì nó sẽ hiệu quả. Nàng cần kính mát và một mái tóc giả, hai thứ nàng định kiếm ngay khi có thể, và nàng sẽ có thể thay đổi bề ngoài của mình. Nàng ghi nhớ trong đầu là phải tìm một cái bao đựng dao nữa.

Những gã đã theo nàng sẽ tiếp tục di chuyển, hành động theo khuôn mẫu trước. Nàng không định làm thế. Sau khi củng cố sự giả dạng của mình bằng một bộ tóc giả, nàng sẽ thuê một phòng trọ rẻ tiền ở Eau Claire và ở đó vài ba ngày. Nàng cần nghỉ ngơi, nàng cần ổn định, và nàng cần làm việc. Hơn hết thẩy, nàng cần đắm mình trong công việc.

Kế hoạch hiệu quả. Sau khi dọn dẹp ngôi nhà, rũ bỏ mọi dấu hiệu đột nhập của mình, nàng đi ra và khoá cửa lại, rồi ném một hòn đá qua cửa sổ để cung cấp một sự giải thích cho cái cửa kính bị vỡ. Nàng mất một lúc mới tìm được một cửa hàng bán tóc giả rẻ tiền, và cũng mất từng ấy thời gian để thử chúng trước khi xoáy được một bộ tóc giả vàng xoăn xuống dưới áo len. Nàng mua một bộ, kiểu tóc ngắn màu đỏ thẫm, và trong khi người bán hàng nhập số tiền nàng trượt số tiền trả cho bộ tóc vàng xuống dưới máy nhận tiền. Nếu những gã theo đuôi nàng thực sự giỏi, chúng có thể liên hệ nàng với bộ tóc giả màu đỏ, nhưng không ai biết về bộ màu vàng cả.

Nàng mang tóc giả màu vàng khi thuê phòng. Nhà nghỉ chỉ hơn mức nhớp nhúa một chút, thực sự phải được xếp vào dạng đang xuống cấp, nhưng hệ thống nước có hoạt động và chiếc giường thì vẫn là giường, dù chiếc đệm lổn nhổn và ga giường thì bẩn thỉu. Trừ giấc ngủ ngắn dưới gầm xe nàng không hề được ngủ chút nào, nhưng nàng từ chối thôi thúc nằm xuống. Thay vào đó nàng bỏ bộ tóc giả ngứa ngáy ra và đặt laptop lên chiếc bàn ọp ẹp và buộc mình phải thức bằng cách lao mình vào cách thức sử dụng ngôn ngữ phức tạp từ thời đại trước cả khi Christopher Columbus được sinh ra.

Grace yêu công việc của mình. Nàng yêu việc đánh mất bản thân trong thách thức làm sao ghép đúng những phần bị rách hay dấu vết tả tơi còn lại của những nỗ lực khó nhọc của loài người nhằm trao đổi những ý nghĩ, tập quán, những giấc mơ vươn tới tương lai bằng búa và đục, hay bằng lông vũ thấm trong mực. Nàng cũng yêu việc chìm vào hoạt động sáng tạo vượt trên cả sự vĩnh cửu của hiện tại, ghi lại quá khứ vì lợi ích của tương lai, hợp nhất cả ba chiều thời gian. Viết lách đã bắt đầu từ khi loài người bắt đầu suy nghĩ một cách trừu tượng, thay vì chỉ nghĩ tới sự tồn tại của thực thể. Bất kể khi nào nàng nghiên cứu một mảnh đá mòn vẹt, rạn vỡ, bối rối trước những hình thù được khắc thô thiển trên bề mặt và gần bị mòn đi vì thời gian và môi trường tự nhiên, nàng luôn tự hỏi về tác giả: họ đã là ai, họ đã nghĩ điều gì là quan trọng đến nỗi họ phải mất hàng giờ liền gò lưng trên một tảng đá, hai chân bị kìm kẹp, lưng và cánh tay nhức mỏi, khi họ khắc những hình vẽ vào viên đá chỉ bằng một mảnh đá sắc hơn một chút?

Những tài liệu về ngài Niall bí ẩn của Scotland này còn phức tạp hơn thế nhiều. Chúng được viết bằng mực trên giấy da, giấy da tồn tại qua hàng thế kỉ mà không bị hỏng, không có nghĩa là không bị sói mòn. Nàng sẽ rất thích được đặt tay lên những tài liệu gốc, nàng nghĩ. Không phải vì chúng sẽ rõ ràng hơn; không, làm việc với các bản phục chế luôn là cách tốt nhất, để tránh làm hại thêm tới tập giấy da cổ. Chỉ là vì có một điều gì đó rất khác thường nơi những tài liệu này, mặc dù theo tiêu chuẩn của khảo cổ học thì chúng còn quá mới không đáng được quan tâm. Bảy trăm năm chẳng là gì đối với một ngành khoa học chuyên giải mã cuộc sống từ hàng triệu năm về trước.

Có cả một tập hợp các loại ngôn ngữ ở đây! Tiếng Latin, tiếng Hi Lạp, Cổ ngữ Pháp, Cổ ngữ Anh, Tiếng Hê-brơ, thậm chí cả tiếng Xen-tơ, vậy nhưng dường như tất cả các tài liệu đều liên kết với nhau theo một cách nào đó. Nàng không giỏi tiếng Xen-tơ lắm, và giải mã những tài liệu viết bằng ngôn ngữ đó sẽ khiến nàng phải tốn khá thời gian tìm tòi nghiên cứu. Nàng giỏi tiếng Hê-brơ hơn, tiếng Hi Lạp còn giỏi hơn nữa, và hoàn toàn thoải mái với ba loại ngôn ngữ khác.

Lúc trước nàng đang làm việc với phần viết bằng Cổ ngữ Pháp; lần này, sau khi cho đĩa CD vào, nàng kéo phần tiếng Latinh ra. Latinh là một ngôn ngữ mạch lạch, chặt chẽ, cực kì hiệu quả; dễ đọc với nàng.

Năm phút sau nàng đã đang nhanh chóng ghi chú, lông mày nhíu lại tập trung. Nàng đã đánh giá nhầm tuổi của tập tài liệu sớm hơn khoảng hai thế kỉ. Những văn tự cổ nhất bằng tiếng Latinh dường như được viết ra từ thế kỉ mười hai, khiến cho chúng gần tới chín trăm tuổi. Nàng thì thầm đọc một cụm từ, kiểm nghiệm nó trên lưỡi nàng: “Pauperes Commilitones Christi Templique Salomonis.” Những âm tiết cuộn lại trong một nhịp đều đặn, và một cơn ớn lạnh dâng lên trên sống lưng nàng. Những đạo hữu tội nghiệp – những chiến binh của Chúa Jesus và Đền thờ của Solomon. Những Hiệp sĩ của Dòng Đền Thánh. Những Hiệp sĩ thánh chiến.

Những điều nàng đọc trong các tài liệu của thư viện trở lại với nàng. Các Hiệp sĩ thánh chiến đã là tổ chức giàu mạnh nhất trong xã hội thời trung cổ. Sự giàu có của họ vượt xa cả của các vua chúa và giáo hoàng; thực tế, họ đã tạo ra hệ thống ngân hàng sơ khai đầu tiên ở Châu u, xử lý các vụ thuyên chuyển tiền bạc và nới rộng các khoản nợ cho vua chúa. Lý do tồn tại ban đầu của họ là để bảo vệ những người Cơ đốc hành hương trên đường tới Đất thánh, và các thầy tu chiến binh này là lực lượng chiến đấu được huấn luyện tốt nhất, được trang bị tốt nhất trong thời đại của họ. Trên khắp các chiến trường họ đã được sợ hãi và kính trọng tới mức họ không bao giờ bị người Hồi giáo bắt làm tù binh đòi tiền chuộc, mà ngay lập tức bị xử tử.

Một lần, họ đã bị dồn vào Đền thờ vua Solomon ở Jerusalem. Trong thời gian đó, rõ ràng họ đã thực hiện một cuộc khai quật quy mô tại chỗ, và từ lúc đó cho đến khi Hội bị huỷ diệt, họ đã trở thành lực lượng hùng mạnh và giàu có bậc nhất ở Châu u. Người ta đồn rằng kho báu của họ, được cho là đã lấy ra từ phế tích của ngôi Đền vĩ đại, vô cùng to lớn.

Kho báu của họ chính là nguyên nhân sụp đổ của họ. Vua Philip của Pháp, vì nợ nần các Hiệp sĩ thánh chiến, đã nghĩ ra một cách độc nhất vô nhị để trả nợ: ông ta cùng với Giáo hoàng Clement V cùng hiệp lực để bắt và kết án toàn bộ Hiệp sĩ thánh chiến tội dị giáo, một tội danh cho phép sung công tài sản của bị cáo. Trong một động thái bất ngờ chống lại các Hiệp sĩ vào ngày thứ Sáu ngày mười ba tháng Mười năm 1307, hàng ngàn Hiệp sĩ và những người kề cận họ đã bị bắt, nhưng không một kho báo nào được tìm thấy – hay từng được tìm thấy. Hơn nữa, chẳng bao lâu trước lúc ấy, Đại Thủ Lĩnh của các Hiệp sĩ đã ra lệnh tiêu huỷ rất nhiều ghi chép của họ.

Có đúng thế không? Có vẻ như ngay lúc này nàng đang nhìn vào chính một trong số chúng. Cái tên lại nảy lên trước mặt nàng lần nữa. Niall của Scotland. Bút của nàng cắm sâu vào mặt giấy khi nàng viết ra câu dịch. “Niall của Scotland, thuộc dòng máu hoàng tộc, đã được tuyên phong là Người bảo vệ.”

Thuộc dòng máu hoàng tộc ư? Nàng đã không thể tìm được một Niall của Scotland trong lịch sử, vậy thì làm sao ông ta có thể thuộc dòng máu hoàng tộc được? Và ông ta đã thành người bảo vệ của cái gì? Đó là một vị trí chính trị hay là quân sự?

Nàng cần một cái thư viện. Nàng sẽ thích Thư viện của Quốc hội Hoa Kỳ hơn. Nàng có thể vào đó với chiếc modem và máy tính của nàng nếu phòng trọ có một cái điện thoại, nhưng nó không có. Ngày mai nàng sẽ tìm một thư viện ở Eau Claire và làm bất kể nghiên cứu nào có thể, ghi chú về những cuốn sách nàng có thể cần. Nàng mong tìm được một cuốn từ điển Xentơ-Anh ngữ, bởi vì những tài liệu viết bằng tiếng Xen-tơ có vẻ như là phần nhiều thông tin nhất về Niall của Scotland, nhưng thư viện công cộng ở Eau Claire có lẽ sẽ không có một thứ khác lạ như thế trong kho của nó.

Mặc dù vậy hệ thống thư viện ở Chicago có thể có, vì một phần lớn của cư dân thành phố là hậu duệ của những người Ai-len. New York, Boston… đó là những nơi khác có thể truy nhập bằng máy tính.

Nàng lấy đĩa CD ra và cẩn thận cất nó đi, rồi thoát khỏi chương trình. Chiếc máy tính rất tuyệt, nhưng nàng muốn cảm nhận tờ giấy trong tay nàng, để cho nàng ảo ảnh là đang làm việc với bản gốc. Nàng kéo tập bản sao dày ra, di ngón tay trên bề mặt trơn nhẵn của những tờ giấy thời hiện đại. Cả những giấy tờ này cũng sẽ mờ đi sau hàng thế kỉ nữa; một lúc nào đó trong tương lai những con người khác sẽ bối rối trên những mảnh nhỏ còn lại này, cố lắp ghét lại với nhau xem cuộc sống ở thế kỉ hai mươi đã như thế nào. Họ sẽ cố khôi phục lại nhưng cuộn băng video và tìm lại những hình ảnh từ đó, họ sẽ có các đĩa CD, sách vở, đĩa mềm, nhưng chỉ một phần rất nhỏ trong cả hằng sa số còn sót lại sau nhiều thế kỉ. Ngôn ngữ có thể thay đổi, và công nghệ sẽ cực kì khác trước. Ai mà biết được thời hiện tại sẽ trông như thế nào trong khoảng cách bảy trăm năm tới?

Nàng dừng lại trước một tờ giấy viết bằng Cổ ngữ Pháp. Lấy chiếc kính lúp của nàng ra để giúp nàng nhìn những dấu vết mờ mịt rõ ràng hơn, nàng bắt đầu đọc. Trang này ghi lại một cuộc chiến; chữ viết gầy, khẳng khiu, những câu chữ ngoắc vào nhau như thể người viết muốn tận dụng từng phân của tờ giấy.

“Mặc dù quân thù có năm còn người anh em Niall chỉ có một, nhưng anh vẫn tiêu diệt tất cả chúng. Tài dùng gươm của anh không có đối thủ trong số các anh em đạo hữu. Anh dẹp lối tới bên người anh em Ambrose, đã gục vì bị thương, và cõng Hiệp sĩ đồng đạo đã ngã xuống của mình trên vai. Bị người anh em Ambrose cản trở, anh vẫn giết thêm ba kẻ thù nữa trước khi trốn thoát, và mang Hiệp sĩ bị thương tới nơi an toàn.”

Grace ngồi thẳng dậy, không ngừng lùa ngón tay trong mái tóc xoã. Trái tim nàng đang đập mạnh. Làm thế nào một người đàn ông bình thường có thể làm được như thế? Bị áp đảo năm đánh một, vậy mà Niall vẫn giết tất cả năm đối thủ và cứu được người đồng đội của mình. Rồi, vác một người đàn ông trưởng thành đang mặc áo lưới sắt, áo giáp và tất cả, có lẽ nặng đến hơn hai trăm năm mươi pound (125kg), anh ta vẫn có thể giết được thêm ba đối thủ nữa và trốn thoát cùng với gánh nặng trên vai.

Anh ta đã là loại người gì? Một người rất mạnh, vừa trong chiến trận vừa trong quyền lực, nhưng anh ta là người xấu tính hay rộng lượng, vui vẻ hay nghiêm khắc, lặng lẽ hay ồn ào? Anh ta đã chết thế nào, và, quan trọng hơn, đã sống thế nào? Điều gì đã khiến anh ta trở thành một thầy tu chiến binh, và anh ta có sống sót sau sự huỷ diệt của Hội không?

Nàng muốn tiếp tục đọc nhưng một cú ngáp làm nàng ngạc nhiên, và sự kiệt sức bao phủ lấy nàng. Nàng kiểm tra đồng hồ, trông đợi thấy khoảng một giờ đã trôi qua, nhưng thay vào đó là hơn ba giờ đồng hồ đã qua. Giờ đã là chiều muộn, và nàng không biết nàng còn có thể thức được bao lâu nữa.

Sao nàng phải thức nhỉ? Đây là nơi an toàn nhất nàng đã ở trong suốt bốn ngày qua, được che giấu đằng sau sự nguỵ trang của bộ tóc giả màu vàng và một cái tên giả. Nàng sạch sẽ và ấm áp; có nước để uống, có thức ăn để ăn, và có một cái nhà vệ sinh tử tế. Có một cánh cửa khoá ngăn giữa nàng với phần còn lại của thế giới. Bản thân việc đó cũng xa hoa đến nỗi khiến nàng gần như lả đi vì vui mừng.

Sức cám dỗ quá lớn nàng không thể chống cự lại. Sau khi cẩn thận thu dọn laptop và giấy tờ, đảm bảo tiền bạc của nàng đã an toàn, nàng tắt đèn và trượt ra khỏi giầy. Nàng không thể kéo giãn sự cảnh giác của nàng nhiều hơn thế, không phải sau bốn ngày chỉ được gà gật từng chặp, nhưng thế cũng đã đủ.

Một tiếng thở dài thoát ra khỏi môi nàng khi nàng duỗi người trên giường. Mọi cơ bắp của nàng đều đau đớn vì được thả lỏng khỏi căng thẳng, vì cơ hội được thư giãn và nghỉ ngơi. Quay người sang bên, nàng cuộn lại thành một quả bóng và ôm cái gối vào mình, rồi nàng ngủ.

Nàng đã mơ về Niall. Giấc mơ rất hỗn loạn, xáo động, đầy những gươm đao và chiến trường. Nàng mơ về một toà lâu đài, một toà lâu đài lớn màu đen, và hình ảnh của nó khiến những đợt rùng mình sợ hãi trào qua nàng. Người ta thì thào về toà lâu đài, và về vị lãnh chúa sống trong đó. Chàng là một chiến binh tàn bạo, thô thiển, người giết chết tất cả những kẻ dám làm vướng chân chàng. Những bậc phụ huynh mực thước giữ con gái của họ tránh xa khỏi lâu đài, vì nếu không các cô gái sẽ đánh mất sự trong trắng của họ cho chàng, và chàng sẽ chẳng cưới một ai trong số họ.

Nàng mơ thấy chàng đang nằm ườn ra trước ngọn lửa lớn trong đại sảnh, đôi mắt đen hẹp lại và khôn dò khi chàng quan sát những người lính của mình ăn và uống. Mái tóc dài và dày, thắt bím ở hai bên thái dương.

Một cô nàng ngỗ ngược nhảy vào lòng chàng, và trong giấc mơ của mình Grace nín thở, sợ điều Niall có thể làm trong giấc mơ này. Chàng chỉ cười với cô hầu gái, một cú cong nhẹ nơi khoé miệng khiến cho hơi thở của Grace bị nén lại lần nữa. Rồi, theo cách của những giấc mơ, hình ảnh trượt đi và tiếp tục, và nàng ngủ an lành hơn.

*

Chàng lại cảm thấy thế lần nữa, cảm giác đang bị theo dõi. Niall nhấc cô hầu ra khỏi lòng chàng với một lời hứa sẽ chú ý nhiều hơn khi họ đi ngủ đêm nay, nhưng ánh mắt cảnh giác của chàng đang di chuyển khắp sảnh. Ai đang theo dõi chàng, và tại sao? Chàng là lãnh chúa của lâu đài này và do đó đã quen với việc mọi người nhìn chàng tìm câu trả lời, tìm sự chấp thuận, hay chỉ là để đo lường tâm trạng của chàng. Rất nhiều người nhìn vào chàng, và tìm kiếm chàng, nhưng việc này rất khác.

Việc này là… dõi theo. Dường như không có gì bất thường trong sảnh cả. Bầu không khí ám khói, những người đàn ông ồn ã. Tiếng cười lớn phát ra từ một chiếc ghế dài và những người khác quay đầu để nghe lời bông đùa. Những cô hầu đi đi lại lại, rót rượu, chống chọi những câu tán tỉnh, ban tặng nụ cười hay những cái nhíu mày tuỳ thuộc mỗi câu tán tỉnh được chào đón đến đâu. Tất cả đều bình thường.

Vậy mà chàng vẫn cảm nhận được sự hiện hữu đó, cùng một người đã kéo chàng ra khỏi giường của chàng mấy đêm trước. Có một sự mềm mại khiến chàng nghĩ người đang theo dõi chàng là phụ nữ. Có lẽ cô ta thấy thích chàng, nhưng cô ta xấu hổ. Cô ta không thể mạnh bạo đến với chàng như phần lớn những cô hầu gái khác khi họ muốn một đêm mây mưa thô bạo. Cô ta chỉ đơn giản là dõi theo, và khao khát.

Nhưng, nhìn quanh, chàng không thể tìm thấy một cô nàng nào phù hợp với cái mô tả đó, và chàng cau mày khó hiểu. Nếu thực sự một người phụ nữ đang theo dõi chàng, chàng sẽ biết nhân dạng của cô ta. Có lẽ cô ta không có lý do nào khác ngoài những cảm xúc uỷ mị của nữ giới, nhưng Niall không bao giờ quên Kho báu mà chàng đã thề phải bảo vệ. Bất kì một hoạt động không bình thường nào cũng làm tăng sự cảnh giác của chàng, và bàn tay chàng vô thức tìm kiếm lưỡi gươm ở thắt lưng. Đôi mắt đen nheo lại khi chúng quét qua sảnh đường ám khói, đẩy lùi những bóng tối, đọc biểu hiện của những người đàn ông trong một giây, rồi lại tiếp tục nếu không có gì bất thường. Cả phụ nữ cũng được đánh giá tỉ mỉ.

Một lần nữa, chàng không thấy gì là bất thường cả. Nhưng giờ đã là lần thứ hai chàng cảm thấy mình bị theo dõi, cảm thấy sự hiện diện của một người khác. Chàng không nghĩ đó chỉ là do trí tưởng tượng. Niall đã tham gia quá nhiều cuộc chiến chống lại cả kẻ thù giấu mặt và công khai, và chàng tin vào các bản năng chiến binh của mình, những bản năng mỗi năm lại càng được mài dũa chính xác hơn.

Màn quan sát khám phá sảnh đường của chàng đã được chú ý, và âm thanh của rất nhiều giọng nói lịm đi, những cái liếc khó chịu trượt về hướng chàng. Niall nhận thức được những câu chuyện thì thầm đã được lan truyền trong mấy năm qua. Chàng là Niall Đen, một chiến binh đáng sợ đến nỗi chàng không bao giờ bị đánh bại trong một trận chiến công khai, cẩn trọng đến nỗi chàng không bao giờ bị bất ngờ. Những người lính của chàng luyện tập cùng chàng, biết rằng chàng bị thâm tím khi bị đánh, chảy máu khi bị cắt, biết chàng cũng đổ mồ hôi và rên rỉ và chửi thề như tất cả bọn họ, tuy nhiên… tại sao chàng vẫn còn tráng kiện đến thế ở vào độ tuổi mà hầu hết đàn ông đều đã rụng răng và tóc muổi tiêu? Cứ như thể là thời gian không đụng chạm gì tới chàng. Tóc chàng vẫn còn đen, cơ thể vẫn khoẻ mạnh, và bệnh tật không hề chạm được vào chàng.

Đôi khi chàng tự hỏi, một cách không dễ chịu, liệu có phải Valcour đã nguyền rủa chàng bất tử bằng cách chỉ định chàng làm Người bảo vệ của Kho báu mà vì nó biết bao nhiêu người anh em đồng chí của chàng đã chết.

Chàng không thích nghĩ vậy. Chàng sẽ thực thi nhiệm vụ của mình, giữ lời thề của mình, nhưng chàng làm cùng với sự cay đắng. Chàng canh gác các báu vật của Chúa, nhưng Chúa không hề canh gác cho những người bảo vệ chúng. Naill đã không cầu nguyện, không dự lễ hay thú tội, trong hơn mười ba năm qua. Đức tin của chàng đã chết vào cái đêm đen tối của tháng Mười ấy, cùng với rất nhiều bạn bè, đạo hữu của chàng. Chính là vì họ chàng vẫn còn canh giữ, vì nếu không thì họ sẽ chết vô ích.

Nhưng chàng không muốn trải qua thiên thu canh giữ những bí mật của một vị Chúa chàng không còn tôn thờ nữa. Thật là một sự đùa bỡn cay đắng làm sao.

Miệng càng cong lên vì sự hài hước lạnh lẽo, và chàng nhấp nhổm đứng dậy khỏi ghế. Ánh mắt chàng tìm kiếm và tìm thấy cô hầu gái đã thì thầm nghịch ngợm vào tai chàng, và với một cử động của đầu chàng chỉ cô ta về hướng cầu thang, và hướng phòng chàng. Như mọi khi, mỗi lúc linh hồn quỷ dữ bủa vây chàng, thì sự nhẹ nhõm chàng tìm được là ở trong thân thể một người đàn bà.

Ngay khi chàng đứng dậy, một người phụ nữ di chuyển tới trước để dọn cốc cho chàng, và giờ chàng nghe thấy một âm thanh suỵt suỵt từ phía chị ta.

“Cái gì làm chị khó chịu thế, Alice?” chàng hỏi mà không cần nhìn lại. “Hãy cẩn trọng với cô gái đó,” Alice làu bàu, dành được cái nhìn hài hước từ chàng.

“Tại sao nào?” Chàng thích Alice. Chị ta đã làm việc trong lâu đài kể từ khi chàng trở lại, một goá phụ tuyệt vọng cần chỗ trú thân cho chính mình và cho các con mình, dù nơi đó có độc địa đến đâu. Chị ta chỉ tầm tuổi chàng, nhưng giờ đã có cháu gọi bằng bà. Được trời phú cho sự khôn khéo hơi mang tính nghiêm khắc, nhiều năm qua chị đã dần dần lãnh lấy trách nhiệm giải quyết các vấn đề trong nhà, và chàng rất hài lòng với sự sắp đặt ấy.

Chị ta chỉnh lại chiếc mũ cho ngay ngắn hơn trên mái tóc xám khoẻ mạnh của mình. “Nó nói ngài sẽ cưới nó, nếu nó có được giọt máu của ngài trong bụng.” Đôi mắt Niall trở nên lạnh lẽo. Hôn nhân và con cái không dành cho chàng, không phải với cuộc đời đã được dâng tặng để bảo vệ Kho báu. Những phụ nữ chia sẻ chiếc giường với chàng đều biết rõ từ đầu rằng chàng sẽ không cưới họ, rằng chàng chỉ quan tâm tới tiết mục giường chiếu, và chàng sẽ luôn luôn đảm bảo tìm những người đủ kinh nghiệm để tránh thụ thai. Chàng thấy bực mình vì một người đàn bà, dù kháu khỉnh hay xinh đẹp đến đâu, lại cố bẫy chàng theo cách thức như vậy. Tuy nhiên, với lời cảnh báo của Alice, chàng sẽ không để chuyện đó xảy ra.

Chàng gật đầu ngắn gọn, rồi lên gác để đuổi đứa con gái không đáng tin cậy ra khỏi phòng ngủ của chàng. Tuy nhiên, trước khi chàng rời khỏi sảnh đường, chàng nhìn quanh một lần cuối, hi vọng nhận ra được người phụ nữ vẫn đang theo dõi chàng, mà sự tập trung nữ tính của người đó chàng có thể cảm nhận được. Chẳng có gì, nhưng chàng biết cô ta đã ở đó. Chàng đã cảm nhận được cô ta. Chàng sẽ tìm ra cô ta.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.