Ngũ đại công tử Phong thành không ngờ đến Lâm Nam lại
gặp ngay chàng công tử lọt lướt kia. Cố Thiên Tường có vẻ ngoài lạnh lùng cố
hữu, trong lúc nói chuyện vui vẻ vẫn không ngừng thăm dò về mình, rất cảnh
giác, nói chuyện cởi mở, nhưng không phải là người dễ nịnh. Lưu Giác được phong
Bình Nam tướng quân cũng đóng ở Lâm Nam, hai người, một thống lĩnh thủy quân,
một thống lĩnh lục quân, bao giờ mình gặp Lưu Giác? Ba năm nay chàng thay đổi
có nhiều không? Từ lúc chia tay Cố Thiên Tường ra về, A La luôn trầm tư.
Ra khỏi Phong thành chưa
lâu, trên đường đi được nghe rất nhiều lời đồn về Lưu Giác. Dân chúng bên đường
nhắc đến chàng với vẻ vừa kính nể vừa sợ hãi, họ đồn chàng diệt sơn tặc trừ họa
cho dân, đồn là chàng mặt sắt không nương tay, giết người không chớp mắt. Nhưng
lời khen vẫn nhiều hơn, chàng chấn chỉnh Nam quân đâu vào đấy, hết sức nghiêm
minh. A La nghe dân chúng bàn tán, nghĩ đến quân đội hiện đại, nàng không hiểu
lắm về quân đội, chỉ có ấn tượng đó là đội quân rất tốt với nhân dân. Nhưng
nghĩ đến Lưu Giác, nàng lại thở dài, lờ mờ cảm thấy từ sâu trong lòng nỗi mong
ngóng muốn gặp lại chàng, nhưng lại không dám đối diện. Nàng không dám đối diện
với hiện thực rủi ro nhỡ chàng vẫn chưa hết giận áp tải nàng trở về tướng phủ.
Thất phu nhân và Tiểu
Ngọc từng lo lắng hỏi nàng, nếu gặp Lưu Giác liệu có bị bắt đưa về không? A La
cười hì hì: “Tướng phủ lẽ nào không có ai đi tìm? Tử Ly chắc cũng thế. Lưu Giác
tính khí kiêu ngạo, chàng ta muốn đưa chúng ta về, nếu ta ngoan ngoãn nghe
theo, đảm bảo chàng ta sẽ cảm thấy vô vị, mà với tính cách chàng ta, nếu không
thích sẽ tuyệt đối không làm. Chúng ta cứ thong thả du sơn ngoạn thủy rong ruổi
đến thành Lâm Nam, bị chàng ta tóm trước khi đến đó, là do số chúng ta đen đủi,
muộn một chút thì chúng ta cũng đã rong chơi đủ rồi. Chuyện này khoan nghĩ vội,
gặp người rồi hẵng hay, chẳng lẽ chúng ta trốn chạy cả đời? Đến nước khác nếu
xảy ra chuyện lại trốn hay sao? Đành phải đối diện thôi”.
Thất phu nhân than thở:
“Tam Nhi, con đã cứng rắn trưởng thành hơn nhiều, chỉ có điều có những lúc dù
có mạnh đến mấy cũng không làm gì được”.
“Sẽ có cách, chúng ta sẽ
vẫn đi về phía nam, đợi kiếm đủ bạc sẽ đến Trần quốc xem sao, không biết nơi
miền quê yên bình liệu có chỗ nào để chúng ta dung thân. Mẹ nói cũng phải, mạnh
cũng chẳng ích gì, chúng ta có gì nào? Tiền bạc không, quyền lực không, con
đánh cược, mấu chốt vẫn là ở thái độ của Lưu Giác. Chỉ cần qua cửa ải chàng ta,
phía tướng phủ cũng dễ đối phó. Huống hồ, chuyện qua đã lâu, làm gì có ai cố
chấp như thế, chỉ có người không bình thường”. Nói xong câu đó, A La nghẹn
giọng, nghĩ đến vẻ thành tâm của Lưu Giác một lòng một dạ muốn bảo vệ nàng suốt
đời suốt kiếp. Lại thở dài, gạt những ý nghĩ đó sang một bên, miệng cười thật
tươi: “Đằng nào bây giờ chúng ta cũng chưa có bạc, cứ thong thả hẵng hay, mọi
người đừng lo. Mẹ à, dù thế nào A La cũng hiếu thuận với mẹ, Tiểu Ngọc à, tướng
công sẽ nuôi nàng”.
Với tâm thái như vậy họ
sống qua hai năm trên đường đến Lâm Nam. Trong những năm này, Lưu Giác không
tìm được nàng, Tử Ly và người của tướng phủ cũng không tìm được nàng, không
biết là số may mắn hay là còn ẩn tình gì khác, nhưng họ đã sống những ngày thực
sự vui vẻ.
A La cau mày thở dài. Suy
nghĩ theo hướng tích cực là một chuyện, nếu thực sự gặp lại, e sẽ là chuyện
khác. Nếu Lưu Giác nổi giận lôi đình thì sao? Nếu chàng vẫn ôm hận thì sao? Nếu
chàng nhất định đưa thất phu nhân và nàng trở về tướng phủ thì sao?
Mặc dù từ ngày quen nhau
đến giờ, luôn là nàng khiến chàng bực mình, nhưng cũng không thấy chàng tỏ ra
thực sự muốn báo thù. Có điều, nàng thoái hôn khiến Lưu Giác mất mặt, chàng ta
sẽ phản ứng ra sao, A La không dám khẳng định. Nàng hơi hối hận, hay là mình quá
tự tin?
Lúc này vú Trương báo, đã
tìm được một chỗ ở khác, theo yêu cầu của A La, đó là một nơi gần dãy núi phía
tây thành. Thất phu nhân hiếu kỳ hỏi: “Tại sao phải ở gần núi?”.
A La không muốn để thất
phu nhân lo lắng. Khó khăn lắm mới ra khỏi tướng phủ, mấy năm nay thất phu nhân
lòng đã nhẹ nhõm, vui lên rất nhiều. Nếu gặp chuyện căng thẳng, nỗi lo lắng ám
ảnh, bà sẽ không chịu nổi. Vậy là nàng cười, nói: “Ở đó vắng vẻ yên tĩnh”. A La
quyết định tạm thời không nghĩ đến chuyện có gặp phải Lưu Giác hay không. Đã
đến đây, bây giờ chưa gặp, cứ làm theo kế hoạch đã, sau này nếu gặp hẵng hay.
Nàng dự định ngày hôm sau sẽ chuyển khỏi quán rượu của vú Trương.
Sáng sớm hôm sau, tiếng
cười trong vắt của Tiểu Ngọc vang khắp sân: “Tiểu thư, tuyết rơi rồi”.
A La khoác áo dài, tóc
vẫn để xõa bước ra ngoài. Thật vậy, những bông tuyết bay trắng trời, phủ một
lớp mỏng trắng xóa lên những mái nhà xa gần trên sườn núi. Những ngọn cây xanh
thẫm và những mái cong đen sì thấp thoáng lộ ra trong biển tuyết. Cảnh sắc này
trông giống gì nhỉ? Tranh thủy mặc! A La mỉm cười thốt lên, thành Lâm Nam đẹp
thật. “Tiểu thư, không sợ nhiễm lạnh sao!”. Tiểu Ngọc phủi tuyết trên vai nàng,
khoác cho nàng chiếc áo gió, ân cần khẽ trách. A La nhìn Tiểu Ngọc, cười nói:
“Đi lên núi dạo chơi không?”.
“Ồ, tiểu thư, tiểu thư
vẫn chưa rửa mặt chải đầu”.
“Không hề gì, Tiểu Ngọc
rửa mặt, chải đầu là được rồi, đi thôi!”. A La cười vung chân vung tay sải
những bước dài, cải tạo Tiểu Ngọc chỉ thành công một nửa, người ở đây tư tưởng
thâm căn cố đế, khó mà thay đổi.
Sáng sớm, trên con đường
mòn giữa chừng núi, thỉnh thoảng họ gặp một lão tiều phu khoác bó củi hoặc sọt
than hoa to đi vào thành, từ khu nhà dân thoảng hoặc vọng ra tiếng chó sủa. Qua
một con đường nhỏ, đã nghe thấy tiếng thác chảy. A La dắt tay Tiểu Ngọc thận
trọng vòng qua mặt thác. Đứng ở đây, có thể nhìn thấy quán rượu của vú Trương
bên dưới, có thể nhìn rõ vú Trương cùng thất phu nhân đang đứng trên sân ngắm
tuyết. Ở khu nhà giữa những làn khói mỏng cuộn lên, bức tranh thủy mặc vậy là
có sinh khí, sinh động hẳn lên.
A La cúi người, cầm lên
một phiến băng mỏng, bóp nát, giơ lên cho từng giọt nước nhỏ xuống mặt, lạnh
run người, nhưng lại rất dễ chịu, cả người như được kích hoạt tỉnh táo, sảng
khoái vô cùng. Nàng từ từ đứng dậy, hít căng một hơi không khí trong lành, vươn
người. Tiểu Ngọc nheo mắt xuýt xoa: “Tiểu thư, tiểu thư chưa rửa mặt mà sao vẫn
đẹp như thế!”.
A La lòng tràn trề vui
sướng, hân hoan, cất tiếng cười giòn tan.
Trong khu rừng ở một mé
sườn núi, Lưu Giác mình khoác áo choàng đen, im lặng ngồi trên lưng ngựa, mấy
binh sĩ Ô y kỵ cũng im lặng như chàng. Lưu Anh nhìn về phía trước, tam tiểu thư
thay đổi thật rồi, trước đây nhỏ nhắn xinh xẻo, bây giờ đã là một đại mỹ nhân
đẹp rực rỡ khiến người ta hồn siêu phách lạc, y thầm thở dài, người như vậy,
chẳng trách chúa thượng quyến luyến không thể nào quên.
Lén nhìn Lưu Giác, thấy
chàng mím môi, không biểu cảm, toàn thân tựa hồ biến thành tảng đá im lìm. Lưu
Anh lại thở dài, sáng sớm tinh mơ cưỡi ngựa lên núi, đứng đến hơn nửa canh giờ,
không nói không rằng, cứ nhìn như vậy, là có ý gì, rõ ràng lòng rất muốn, lại
không chịu đi gặp nàng ta.
Lưu Giác trầm mặc như một
cái đầm sâu hút, ánh mắt phân vân. Sau khi A La ra đi, không chỉ một lần chàng
tự hỏi, rút cục mình đang tức giận điều gì? Nghĩ đến A La không cần mình, lòng
chàng hận đến muốn bóp chết nàng; nghĩ đến những lúc ở bên A La, dẫu nàng làm
cho mình tức giận, lòng chàng lại tràn ngập âu yếm, vấn vương, lại buồn man
mác.
Ba ngày sau khi được
phong Bình Nam tướng quân, chàng liền rời kinh, đi về phương nam. Chàng phóng
ngựa đến biệt uyển của Hộ Quốc công chúa, thơ thẩn trong rừng đào cả một ngày.
Sơn cốc tiết cuối hạ, cỏ vẫn xanh như thế, nhưng đào đã không còn nở hoa. Ngọn
lửa âm ỉ trong lòng bùng cháy, người nóng bừng, chàng nhảy xuống suối. Làn nước
lạnh ngắt ôm ấp chàng, hỏa khí tiêu tan, chàng bất giác cười đau khổ, dạo đó
nếu chàng không lang thang tới đây, nếu cứ để A La ngã xuống suối, thì đã không
có mọi vấn vương về sau, tất cả đều là ý trời.
Chàng đến tướng phủ, Lý
tướng đưa chàng đi thăm Đường viên. Khóm hải đường cành đã xum xuê, xòe ra che
nửa sân, Lý tướng ngậm ngùi nói, Đường viên tất cả vẫn y nguyên, chỉ đợi chàng
đưa thất phu nhân và A La trở về. Nghĩ đến lần A La ăn cơm trên thuyền hoa bữa
đó, nàng hầu như chỉ ăn thịt không ăn rau, lại nhìn Đường viên lạnh lẽo tiêu sơ
và khuôn mặt đẫm nước mắt của Lý tướng, người chàng bỗng run lên. Nếu Lý gia
không đối xử nghiệt ngã với A La, tuổi còn nhỏ như vậy làm sao nàng dám hành
động to gan đến thế! Cho dù không muốn lấy chàng, cũng không đến mức đưa mẹ và
tỳ nữ bỏ trốn! Nghe nhắc đến câu thơ A La đọc lúc sáu tuổi, lòng chàng càng đau
thắt, điều gì khiến một đứa trẻ sáu tuổi làm ra những vần thơ bi ai như vậy!
Năm đó, do cáo thị khắp
nước thông báo A La bị bắt cóc, bản thân chàng gần như cũng tưởng thật, đem tất
cả nỗi tức giận, đau đớn trong lòng trút lên đầu bọn sơn tặc, nhưng lại bất ngờ
giành được sự kính trọng của tướng sĩ Nam quân. Về sau, để thu phục cánh quân
này, chàng ngày đêm trăn trở, suy nghĩ, muốn loại bỏ thế lực của họ Vương không
phải chuyện dễ. Chàng buộc phải học cách tự kìm chế, thận trọng, suy tính trước
sau. Bây giờ, A La đã đến Lâm Nam, chàng thầm nghĩ, nếu là trước đây, chàng đã
chặn A La ngay từ khi nàng xuất hiện ở cổng thành. Còn bây giờ, điều chàng mong
muốn là, nếu hỏi lại câu đó, có muốn cùng chàng đồng cam cộng khổ, nàng sẽ
không do dự cho chàng một câu trả lời khiến chàng hài lòng.
Lưu Giác từ xa lặng lẽ
đứng nhìn, A La đang đứng trên triền núi, chiếc áo choàng rộng bao bọc thân
hình mảnh dẻ, mái tóc dài xõa đến eo, giữa thảm tuyết trắng xóa bên dòng thác
bạc dáng phiêu diêu tự tại, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Ba năm nay nàng
thay đổi không ít, khuôn mặt đã nở nang đầy đặn, không còn nét vụng về trẻ con
ngày trước, chiếc cằm nhọn xinh, làn da như bạch ngọc phớt hồng, càng khỏe
mạnh, tràn trề sức sống. Đôi mắt đó không thay đổi, vẫn trong veo như nước
nguồn, lóng lánh tinh nghịch, hễ cười là sóng sánh mê ly. Mới sáng sớm chưa
chải đầu A La lại vẫn đẹp đến thế!
Chàng nên xả hận, nên
trừng phạt người đó mới phải, nhưng lòng chàng bây giờ tràn ngập hình ảnh người
đó, chỉ muốn ngắm nhìn mãi, ngắm vẻ linh lợi như con chim yến đó. Một nỗi êm
dịu từ từ dâng lên trong đáy mắt chàng, triền miên vấn vít, như những con sóng
ngầm lặng lẽ từ cơ thể tỏa ra, Ô y kỵ đứng phía xa trong rừng cũng cảm nhận
được, bất giác thở phào.
Tiếng cười trong vắt của
A La vọng lại, như tiếng chim lảnh lót văng vẳng giữa rừng, như tiếng thác bạc
đổ ào trên đá, vỡ vụn tung lên, lan tỏa trong tầng không buổi sớm tinh sương,
vấn vương trên triền núi. Nàng không hề áy náy gì ư ? Không hề day dứt tí nào
sao? Mất tích mấy năm liền mà vẫn ung dung sung sướng như vậy, trong khi khiến
bao người khổ công tìm kiếm, người ngựa rối ren. Nỗi giận lại trào lên, Lưu
Giác “hừ” một tiếng, ngồi thẳng trên mình ngựa, sát khí lại trùm lên cả khu
rừng, hàn khí lại ngưng tụ trong đáy mắt. Con tuấn mã bên dưới có vẻ bồn chồn,
không ngừng giậm vó một cách bất an, chàng cơ hồ lập tức thúc ngựa lao lên, bàn
tay xiết chặt dây cương nổi hằn những đường gân xanh.
Đột nhiên, phía nam thành
phụt lên một đám khói đen. Lưu Giác cau mày, thủy quân Trần quốc động binh ư?
Chàng liếc nhanh A La lúc đó cũng đang ngẩng nhìn đám khói trên trời, lặng lẽ
quay đầu ngựa phi xuống núi, Ô y kỵ lẳng lặng đi theo.
Đám khói ngưng đọng trên
không mãi chưa tan, lại có tiếng chuông dồn dập nối nhau. Tiểu Ngọc kêu lên “Có
chuyện rồi?”. Cùng với tiếng chuông, dân chúng đổ ra đường, ai nấy mặt mày hốt
hoảng.
A La nói: “Về nhà xem
sao”.
Hai người trở về tửu
quán, vú Trương hốt hoảng chạy ra: “Tiểu thư, hai người đã về, không được ra
khỏi nhà, hai nước khai chiến rồi”.
A La, thất phu nhân và
Tiểu Ngọc nhìn nhau. Thất phu nhân luống cuống: “Chẳng phải đã mấy chục năm
không đánh nhau cơ mà? Sao bây giờ nói đánh là đánh ngay?”.
A La thấy vú Trương cũng
không biết gì hơn, bèn nói: “Con vào thành nghe ngóng tình hình. Tiểu Ngọc, ở
nhà với mẹ và vú Trương, đóng cửa lại, không được đi đâu”.
Thất phu nhân không chịu:
“Con đưa Tiểu Ngọc đi cùng. Chúng ta ở đây, không đi đâu hết, con đi một mình,
sao mẹ yên lòng?”.
Tiểu Ngọc cũng đồng tình.
A La bất lực, vội vào thay áo cùng Tiểu Ngọc đi ra.
Các cửa hiệu trong thành
vẫn mở cửa. Trên phố có rất nhiều người tụ tập sốt ruột ngóng tin. Cổng thành
đã đóng, A La kéo một người hỏi: “Bên ngoài có chuyện gì vậy?”.
“Nghe nói thủy quân Trần
quốc đánh lén, Cố tướng quân đã tập hợp đội thuyền chuẩn bị nghênh chiến!”.
“Ở đâu có thể nhìn thấy
tình hình trên sông?”.
“Sườn dãy Tây Sơn. Bao
nhiều người đang đi đến đó”.
A La và Tiểu Ngọc hỏi
đường đến dãy Tây Sơn. Lưu Giác lên thẳng thành môn lầu, tri phủ Lâm Nam vội đi
đến chắp tay bẩm báo:
“Bẩm tướng quân! Cổng tây
đã đóng, thủy quân nước Trần đã có chuẩn bị, sáng sớm nay đột nhiên tấn công,
binh sĩ đi tuần trên bờ bên này bị trúng tên thiệt mạng, thi thể vừa mới phát
hiện, khi lính gác dùng ống nhòm quan sát, quân Trần đã đến giữa sông”.
“Chém!”. Lưu Giác lạnh
lùng ra lệnh.
Tri phủ sững người. Một
quân sĩ được cử thi hành mệnh lệnh , nửa khắc sau đã đưa đầu tên lính gác về.
Tri phủ toát mồ hôi lạnh,
Bình Nam tướng quân này sao nói chém là chém, còn không thèm liếc nhìn một lần.
Ánh mắt Lưu Giác lướt qua
mặt các binh sĩ trên thành môn lầu, nói dõng dạc: “Hai nước Ninh, Trần đã ngừng
chiến mười năm, biên cương yên bình, thông thương phồn thịnh. Nay Trần quốc đột
nhiên xâm phạm Lâm Nam, có ý đồ xâm chiếm giang sơn chúng ta, bọn lang sói dã
tâm, tất bị trời phạt! Nuôi binh ngàn ngày, chính là đợi lúc này, xả thân báo
quốc, bảo vệ giang sơn, là chí hướng của nam nhi chúng ta!”
Quân sĩ rầm rầm hưởng
ứng: “Nguyện cùng tướng quân bảo vệ Lâm Nam, đánh bại quân Trần!”.
Lưu Giác quyết đoán hạ
lệnh cho tri phủ và quan thủ thành Lâm Nam, thực hiện triệt để quản chế quân
sự, đồng thời trấn an thương khách và dân chúng. Một loạt mệnh lệnh như pháo
nổ, liên tiếp từ miệng chàng ban ra, thấy chúa thượng điềm tĩnh xử trí, thái độ
bình thản, quân sĩ hết lòng tin tưởng, từng người nhận lệnh răm rắp thi hành.
Lưu Giác đứng trên tường
thành, nhìn về mặt sông, khi thủy binh của quân Trần cách thành Lâm Nam không
quá năm chục trượng liền bị đội chiến thuyền của Ninh quốc chặn đánh, tên bắn
như mưa, đã có thuyền áp sát thuyền địch, binh sĩ nhảy lên thuyền đánh giáp lá
cà, tiếng hô “giết” động trời, Lưu Giác quan sát tình hình, biết thủy binh của
Nam quân đã đến muộn, mặc dù vẫn còn chiến thuyền tiếp tục từ thủy trại đi đến,
nhưng cục diện diễn ra vẫn không có trật tự bằng quân Trần.
Lúc đó đột nhiên trên mặt
sông, một tiếng động vang như sấm, định thần nhìn ra, thấy Cố Thiên Tường mình
vận áo bào trắng, chiến giáp, đứng trên lầu chiến thuyền lao vào thủy binh quân
Trần, chiến thuyền phía trước và hai bên bố trí theo hình mũi tên, xông thẳng
vào chiến thuyền địch. Tiếng trống đồn dập, không kịch liệt, nhưng sục sôi
khiến người ta hồn bay phách lạc, sát khí hừng hực.
Cố Thiên Tường vô cùng
phẫn nộ. Năm ngoái đã biết quân Trần muốn gây chiến, có dấu hiệu điều binh,
chàng đã ngày đêm theo dõi, nhưng vẫn bị tập kích bất ngờ, để địch tiến gần Lâm
Nam như vậy thủy quân mới triển khai thế trận nghênh chiến. Chàng phẫn nộ đích
thân thúc trống cổ vũ tinh thần quân sĩ. Thấy thuyền đã vào khoảng cách có thể
bắn tên, chàng giơ tay, cờ hiệu, biểu ngữ lập tức phất cao, trận mưa tên dày
đặc bắn ra, hai bên bắt đầu giao chiến ở cự ly gần.
Thủy binh được cổ vũ bởi
tiếng trống trận, chiến đấu rất anh dũng. Lưu Giác đứng trên tường thành nhìn
rõ, lần tập kích bất ngờ này quân Trần đã có chuẩn bị, với thực lực của nước
Trần, có thể huấn luyện được đội thủy quân binh lực ngang ngửa thủy quân của
Ninh quốc, quân Trần tất đã âm thầm chuẩn bị từ lâu. Quân Trần tiến đánh bất
ngờ, thủy quân của ta rõ ràng ở vào thế bất lợi. Chàng nhìn Cố Thiên Tường lúc
này không đánh trống nữa, trực tiếp chỉ huy trận đánh, ngoài đội thuyền của
chàng ta vẫn chưa rối loạn, các đội khác bắt đầu bị chọc thủng, đội hình sắp
rối loạn.
Lưu Giác thét to: “Thiên
Tường rút lui!”. Giọng chàng dùng hết nội lực, Cố Thiên Tường ở cách hơn trăm
mét sững người, mắt sáng lên, một tay giật cờ hiệu trong tay binh sĩ, bắt đầu
truyền lệnh.
Lưu Giác đứng trên tường
thành, giang thẳng hai tay, tiếp ngay đó là tiếng trống “thùng thùng” dồn dập,
quyết liệt hào sảng, nối nhau, dân chúng đứng trên triền núi phía xa, cảm động
rơi nước mắt. A La đứng từ xa nhìn về phía thành môn lầu, thấp thoáng thấy một
bóng người vận áo choàng đen, tay vung dùi trống mạnh mẽ và quyết liệt, khí thế
tựa con rồng đen vùng vẫy, nàng bỗng giật mình, là Lưu Giác sao? Dáng chàng
dũng mãnh kiêu hùng, mỗi động tác hừng hực toát ra khí phách nam nhi. Nghe
tiếng trống hùng tráng, A La nghĩ đến lúc chàng ra tay cứu mình trong bữa tiệc
ở Đông cung, nước mắt trào ra tự lúc nào.
Lúc này, dưới cờ hiệu của
Cố Thiên Tường, chiến thuyền Nam quân rào rào di chuyển vào bờ, quân Trần lại
tiến thêm hơn hai chục trượng về phía bờ. Trong khúc nhạc trống với sứ mệnh
vĩnh hằng, hừng hực sinh khí không bao giờ cạn kiệt. Nam quân bình tĩnh nhanh
chóng chấn chỉnh đội hình, tiếng hô “giết” chìm nghỉm trong tiếng trống.
Quân Trần thấy Nam quân
nhanh chóng thay đổi thế trận, thấy sắp tiến đến gần thành môn lầu, vội vẫy cờ
ra hiệu tiến nhanh hơn. Toán quân sĩ đứng trên thành môn lầu đang chán nản,
bỗng nghe thấy một tiếng thét vang trời: “Đừng hòng chạy thoát!”.
Lưu Giác quẳng dùi trống,
vung tay ra hiệu, trận mưa tên từ các cửa khẩu dưới chân tường thành bắn ra như
mưa, như một con rồng đen điên cuồng vun vút xông vào đội thuyền của quân Trần.
Chiến thuyền của Nam quân từ hai phía ven sông như đôi cánh khổng lồ giương lên
bắt đầu phản kích. Đội tiên phong của quân Trần lại biến thành hậu ứng, lập tức
rút về bờ bên kia, một số thuyền bị kẹt trong vòng vây không kịp trở tay, nhằm
hướng bờ xông tới. Khi cách tường thành chỉ mười trượng, bị những tảng đá lớn
trên thành lao xuống đập nát, từ phía chiến thuyền Nam quân dậy lên những tiếng
hoan hô vang trời.
Trong trận này hai bên
đều có tổn thất, thương vong tương đối, được cổ vũ bởi lần đầu xuất chiến thắng
lợi, sĩ khí Nam quân dâng cao vạn trượng!
Lưu Giác nhìn chiến
trường bên dưới, lộ vẻ mệt mỏi, nhưng lại lập tức che giấu. Chàng lấy lại tinh
thần, nói to: “Tối nay tướng phủ mở tiệc khao quân!”.
Tướng sĩ phấn khởi, từ
trên thành đi xuống, dân chúng tưng bừng nổi trống hoan hô, có thương hội cử
người gõ trống khua chiêng mang rượu thịt đến mừng ba quân.
Vẫn còn sớm chưa đến giờ
mở tiệc, Cố Thiên Tường bố trí xong thủy quân, không kịp cởi chiến giáp đi ngay
đến phủ tướng quân. Lưu Giác thay chiếc áo chùng rộng màu xanh sẫm nằm trên
sập, có hai lính hầu xoa bóp chân tay. Cố Thiên Tường hăm hở ngồi xuống ghế,
lính hầu lập tức đưa khăn ấm, chàng đón lấy lau mặt. Lính hầu dè dặt hỏi:
“Tướng quân có cần cởi giáp nghỉ ngơi một chút?”.
Cố Thiên Tường liếc nhìn chàng,
sát khí trên người vẫn chưa tan, lính hầu lập tức ngậm miệng lui ra.
Lưu Giác hé mắt, lính hầu
dâng trà, chàng đón lấy uống hai ngụm, chậm rãi nói: “Khó chịu hay sao?”.
Cố Thiên Tường trầm giọng
hỏi: “Huynh nhận định thế nào?”.
“Nếu là huynh, huynh sẽ
không ngốc đến mức chỉ dùng thủy quân tấn công chính diện, nếu như thế này đã
có thể thành công, nước Trần đã khai chiến từ mấy năm trước. Để lâu như vậy,
đột nhiên tập kích, họ không ngốc đến mức lại đến lần nữa, chúng ta có thể chờ
thời cơ tốt hơn”.
Mắt Cố Thiên Tường dịu
lại: “Huynh còn nhớ trò chơi thuở nhỏ của chúng ta không?”
Lưu Giác tròn mắt nhìn
chàng ta: “Lại đây bóp vai cho huynh, mỏi chết được!”.
Cố Thiên Tường không nói
gì, đứng dậy, Lưu Giác phát hoảng: “Thôi được rồi, đệ mà bóp không khéo nát vai
huynh mất”. Thiên Tường tiến đến bên Lưu Giác, chàng lại phát hoảng, nhưng thấy
chàng ta đã nằm trên sập nói với lính hầu: “Thay trà, bóp chân! Đệ ngủ một lát,
huynh tự thu xếp”. Đoạn nhắm mắt như ngủ.
Lưu Giác dở khóc dở cười,
lát sau mỉm cười thật sự, tinh thần phấn chấn đi ra khỏi phòng.
Cố Thiên Tường nhắm mắt,
ý nghĩ quay trở về nhiều năm trước, khi Lưu Giác và chàng chơi trò đánh trận.
Lúc đó chàng đã dùng chiêu này để ăn quá nửa binh kỳ của Lưu Giác. Chàng hét:
“Thiên Tường rút đây, mặc cho huynh liều mạng tấn công!”. Lưu Giác suy nghĩ hai
ngày, khi gặp lại, chàng ta đã phá được chiêu này của chàng, chia hai cánh quân
bao vây, chặn đường rút, đắc ý nói: “Huynh chặn chân đệ, để cho đệ phải lăn lộn
trên đất!”. Nghĩ đến đây, nét mặt chàng đã dịu lại, nhắm mắt ngủ thiếp. Mọi
người trong Thường Lạc tửu quán cũng rất vui, thất phu nhân nói: “Nếu thành Lâm
Nam dễ bị phá như thế, thì đã đánh nhau từ mười mấy năm trước rồi”. Hổ Tử líu
lo: “Hổ Tử cũng muốn làm tướng quân”.
Mọi người vui vẻ cười ồ.
“Phu nhân à, già thấy mọi
người không nên chuyển đi. Có chuyện gì cả nhà cùng ở một chỗ mới có thể giúp
nhau”. Vú Trương nói.
A La thở dài. Hôm đi chơi
quan sát bên sông, phát hiện dãy Tây Sơn địa thế hiểm trở, mà lại không ở vị
trí tiền tiêu, có đường rút lui, vốn định chuyển đến đó, nhỡ xảy ra chuyện biết
đâu có thể lén chạy trốn. Bây giờ chiến sự xảy ra, mặc dù đã đánh lui thủy quân
của nước Trần, không biết liệu có trận thứ hai, trận thứ ba, lúc đầu ở phân tán
là sợ liên lụy đến gia đình vú Trương, bây giờ ở chung mới dễ giúp nhau. Nàng
mỉm cười tán thành: “Đương nhiên, chúng ta ở chung”.
Trở về phòng, lại không
ngủ được, cũng không đốt đèn sợ ảnh hưởng đến thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng
khoác áo ngồi dậy thẫn thờ. Trước mắt lại vụt hiện bóng dáng kiêu hùng của Lưu
Giác lúc đánh trống trận. Bắt đầu từ phút đó cho đến lúc rời đi, mắt nàng không
hề rời khỏi Lưu Giác trên thành môn lầu. A La cảm thấy, lúc đó nàng thực sự có
cảm giác sùng bái người anh hùng ấy, chợt mỉm cười, trước đây nàng còn không
quan tâm Lưu Giác là người thế nào.
Ngũ đại công tử Phong
thành đều ngoại hình tuấn tú, dáng vẻ quý phái: Tử Ly tuấn tú an nhiên, nụ cười
bất biến trên môi, trông thân thiện dễ gần nhất, nhưng luôn phảng phất buồn;
Thành Tư Duyệt trẻ tuổi đã sớm thành danh, phong lưu mã thượng; Cố Thiên Tường
có vẻ đẹp lạnh lùng, thâm trầm như tảng băng, thỉnh thoảng mới thấy cười, dù có
nói nhiều cũng không thay đổi được ấn tượng này.
Còn Lưu Giác, vừa gặp đã
biết là người tự mãn, cao ngạo, ham hố báo thù, là kiểu công tử được nuông chiều
chơi bời bạt mạng. Chính chàng ta lệnh cho người khiêng kiệu giở trò khiến nàng
nôn thốc tháo, lại còn ép nàng học đàn, bắt nàng đánh khúc “Bội lan”, vậy mà
trong bữa tiệc ở Đông cung, lại có gan đứng ra cứu nàng, dù không trực tiếp đối
đầu với thái tử, nhưng ngữ khí cứng rắn hàm ý bất luận thế nào cũng sẽ bảo vệ
nàng đến cùng. Đêm hôm đó, A La dường như nhìn nhận lại con người chàng, để cho
chàng cưỡi ngựa hộ tống về phủ. Lại còn sau lần gặp sát thủ giữa đường, chàng
một lòng chân tình hứa suốt đời suốt kiếp che chở bảo vệ nàng, lúc đó A La đã
muốn buông mình trong vòng tay chàng. Ba năm trước, khi đốt cầu phao, từ xa
nàng nhìn thấy Lưu Giác ở bờ bên kia, khoảng cách lớn như vậy, nhưng nàng vẫn
cảm nhận được nỗi đau đớn phẫn nộ của chàng, khiến nàng không dám nhìn sang. Về
sau lại nghe nói chàng dẹp sơn tặc, chỉnh đốn Nam quân cứng rắn, quyết đoán.
Lưu Giác tựa hồ thiên biến vạn hóa, khiến nàng nhìn không thấu, đoán không ra.
A La mơ màng nghĩ, ba năm
nay hình như mình chưa hề quên chàng, rồi khép áo từ từ đi vào giấc ngủ . Ban
đêm vào dịp tuyết đầu mùa và bắt đầu có sương mù, trăng thanh sao thưa thớt. Từ
vách đá dãy Tây Sơn trên sông Hán Thủy gần thành Lâm Nam đột nhiên ló ra mấy
bóng đen, nhìn hành động rõ ràng là cao thủ, họ lặng lẽ lần xuống chân núi, đầu
nhấp nhô, sau vài động tác đã bò lên tới mặt tường thành.
Tên cầm đầu vừa vung tay,
một lưỡi đoản kiếm lóe ra, cơ thể nhẹ nhàng như một con mèo bước êm ru đến sau
lưng một lính gác, vừa vung tay đã kết thúc tính mệnh người lính như cắt một
miếng đậu phụ. Lưỡi kiếm đen bóng, đường kiếm sắc lẹm như rạch trên giấy, binh
sĩ kia đáng thương kinh hoàng chưa kịp kêu, yết hầu đã bị cắt đứt, máu chưa kịp
phun, người đã đổ ập xuống.
Một tên khác nhanh chóng
lột y phục trên người binh sĩ, một tên khác kéo thi thể giấu sang một bên, giây
lát sau, trên tường thành đã xuất hiện một lính gác mới. Mấy bóng đen chờ thêm
hai khắc, không thấy động tĩnh gì, mới thả những cái móc câu có dây đu đầu kia
của tường, lính gác nhìn về bên này, hành động của những bóng đen đã bị vách đá
che khuất, họ chỉ nhìn thấy tên lính giả đứng thẳng như thanh kiếm dưới trăng.
Không lâu sau, có mười
tên từ vách núi Tây Sơn lọt vào thành. Tên cầm đầu làm mấy động tác tay ra
hiệu, mười tên lẹ làng từ đỉnh núi bắt đầu thâm nhập xuống dưới. Gặp người,
không biết chúng dùng pháp thuật gì, ngay cả chó cũng không kêu một tiếng,
chúng lặng lẽ đột nhập vào khu dân cư, người dân đang ngủ bị điểm huyệt, rơi
vào giấc ngủ li bì, dù tỉnh lại không có bất kỳ nghi ngờ gì.
Trên núi đã có hơn hai
chục thi thể. Bọn chúng hành động mau lẹ thận trọng, lần theo đường mòn xuống
núi, gặp dân thường đều nhất loạt xử lý như vậy. Không lâu sau chúng đã mò được
vào trong quán rượu của vú Trương, tên cầm đầu phục ở sườn núi quan sát bên
dưới, nhìn khuôn viên gồm ba dãy nhà của vú Trương, xung quanh không có nhà
liền kề, sau lưng là rừng núi, rất tiện để ẩn giấu binh mã, mắt sáng lên, lẳng
lặng dùng tay ra hiệu cho đồng bọn, những bóng đen bay qua tường vọt vào bên
trong nhẹ nhàng như những con dơi.
Cùng lúc, trong khu rừng gần
đó, ba binh sĩ Minh tổ thuộc Ô y kỵ phụng mệnh Lưu Giác bảo vệ A La. Do trời
lạnh họ lần lượt nhảy lên cây, sau khi cử một người canh gác, mỗi người chọn
một ví trí thích hợp tranh thủ chợp mắt. Người lính gác bỗng dỏng tai, căng mắt
nhìn, kinh ngạc nhận ra những bóng đen nhảy vào trong quán, nhìn thân thủ biết
không phải thuộc hạ của mình. Y nhanh chóng nhận định tình hình, đối phương có
khoảng hơn mười tên, bên này chỉ có ba, nên không dám manh động, chỉ khẽ đánh
thức hai người kia. Ba người cùng quan sát, hợp tác lâu ngày họ lập tức có
phương án, để một người quay về tướng phủ báo tin, hai người lặng lẽ áp sát
quán rượu.
Khi những bóng đen bay
vào sân, A La vừa khép áo, nằm xuống, đang mơ màng chưa ngủ, đột nhiên nghe
tiếng then cửa “cạch” một tiếng. A La mở mắt mơ màng liếc về phía đó, trên rèm
giấy cửa sổ in hình một bóng đen, then cửa nhẹ nhàng di chuyển. Nàng hoảng sợ
toát mồ hôi, theo phản xạ định nhảy xuống giường, nhưng lại nghĩ như thế không
được, then cửa bị mở, chứng tỏ bên trong có người, chăn chiếu vẫn còn hơi ấm,
bọn đột nhập nhất định phát hiện ra nàng. Trong lúc cấp bách, nàng vội vàng
trèo qua đầu giường, nấp vào cạnh tủ, thuận tay vớ được cái kéo tỉa cành cây.
Thấy cửa bị đẩy nhè nhẹ,
một bóng đeo lao đến giường, A La không kịp nghĩ, tay cầm kéo xông ra đâm.
Không đợi tên này kịp kêu, nàng dùng tay xỉa mạnh một nhát, đánh ngất tên đó.
Tim đập thình thịch, tay nhanh nhẹn lột mạng che mặt, không phải Lưu Giác. Là
một người đàn ông lạ. A La thở hổn hển, không biết người này có phải do Lưu Giác
sai đến bắt mình hay không. Lại nhìn ra ngoài cửa sổ lờ mờ thấy mấy bóng đen di
chuyển.
A La giật thót người,
nàng ít nhiều cũng biết vài miếng võ, tuy không sánh được với cao thủ võ lâm ở
đây, nhưng vẫn có thể xuất vài chiêu. Nhưng thất phu nhân, Tiểu Ngọc và vú
Trương không biết gì, tay trói gà không chặt. Lòng nóng như lửa đốt, nàng lột
quần áo của tên này mặc vào người, nhắm mắt, lại xỉa thêm nhát nữa. Nàng không
biết rằng, tên bịt mặt dễ dàng từ trên núi lọt vào đây, cho rằng khu này chỉ
toàn dân thường, nên không cảnh giác, lại thêm A La ra tay rất nhanh, vì vậy
vừa rồi nàng mới dễ dàng đánh gục.
A La bịt mặt ra khỏi
phòng, mấy bóng đen bên ngoài không nói gì, chỉ nhìn nàng, A La vội gật đầu,
nhìn về phía phòng của thất phu nhân và Tiểu Ngọc, thấy hai bóng đen vác họ ra.
Lòng đau đớn, không kìm nổi, muốn ra tay, nhưng đối phương có bốn người, nàng
tuyệt đối không phải là đối thủ của chúng. Chỉ thấy tim đập dữ dội, mồ hôi túa
đầy tay. Lặng lẽ theo chúng đi ra giữa sân, A La giật mình, có tới mười bóng
đen bịt mặt trong sân. Chúng vứt thất phu nhân, Tiểu Ngọc và bốn nhân khẩu nhà
vú Trương trên nền, lại quay vào nhà, để lại hai tên đứng trông, không đốt đèn.
Trong ánh trăng mờ, một tên nói: “Còn mười canh giờ nữa mới đến giờ hành động,
xử trí thế nào?”.
Tên cầm đầu nghĩ một lát,
nói: “Đôi vợ chồng có lẽ là chủ quán, để lại, còn lại, giết!”.
A La hốt hoảng, lại nghe
một tên nói: “Có hai đứa rất đẹp”.
Tên cầm đầu sẵng giọng:
“Đừng quên thân phận và nhiệm vụ của ngươi ở đây!”.
Tên bịt mặt quỳ sụp, A La
chân mềm nhũn, cũng quỳ theo. Ngay sau đó hai tên đi đến cạnh thất phu nhân và
mấy người nằm ngổn ngang, vung đoản kiếm định đâm, A La không kịp nghĩ, tung
chân đá chặn, miệng hô: “Cứu với!”.
Giọng nàng lanh lảnh, hai
binh sĩ Ô y kỵ bên ngoài nhìn nhau, vọt tường nhảy vào. Mấy tên bịt mặt trong
sân kinh ngạc tột cùng, xông vào A La, nàng vừa đánh vừa né, thầm nghĩ như thế
này ít nhất bọn chúng cũng không kịp giết thất phu nhân và mọi người. Nàng chỉ
đá mấy nhát, xỉa mấy nhát rồi chạy vụt ra ngoài.
Lúc đó hai binh sĩ của
Minh tổ đã bắn pháo hiệu, bọn áo đen túm tụm lại một chỗ. A La nghe thấy tiếng
gió đằng sau lưng, né người tránh, một binh sĩ lao đến đứng chắn bảo vệ nàng.
Bọn áo đen kinh ngạc
không biết cao thủ ở đâu xuất hiện, nhìn thấy khói hoa màu xanh tím nổi bật
trên bầu trời đêm, tên cầm đầu vẫy tay ra hiệu, bọn người áo đen ra tay càng
mạnh.