Ông Ngô Trường Thiên từ Cát Hải lên Bắc Kinh trưa hôm qua. Ông đem theo
toàn bộ tư liệu phân tích về quyền sở hữu tài sản của tập đoàn Trường
Thiên và phương án phân định cụ thể về quan hệ quyền sở hữu khối tài sản này. Phương án đã được thảo luận, điều chỉnh nhiều lần trong mấy tháng
qua, cuối cùng có thể trình cơ quan chủ quản để thẩm tra, xem xét. Trước khi trình thẩm tra, ông Thiên nghĩ, nên đưa lên Bắc Kinh để ông Mai
Khởi Lương đang học ở Trường Đảng xem.
Xuống máy bay, ông bảo
người cùng đi đưa phương án này từ sân bay thẳng đến Trường Đảng, một
mình ông về Công ty. Suốt cả buổi chiều ông ở trong văn phòng tập đoàn
Trường Thiên tại Bắc Kinh để xử lý hồ sơ, văn kiện, nghe mấy vị chủ chốt của Công ty tại Bắc Kinh báo cáo. Nghe báo cáo xong, người thư ký vào
hỏi ông có nhận một cú điện thoại không rõ người gọi không. Theo thông
lệ, ông Thiên không nhận những cú điện thoại không rõ tên người gọi. Ông vẫn không ngước lên, nói: “Bảo với họ, tôi không có nhà.” Người thư ký
ra, hai phút sau lại vào, báo cáo lại có điện thoại, nghe giọng nói hình như vẫn là người gọi vừa rồi, bảo có việc khẩn cấp, nhất định phải nói
chuyện với ông.
Ông Thiên cau mày, nói: “Anh ghi lại tên người
ấy, bảo tôi lúc này không có nhà.” Người thư ký nói: “Người ấy vừa xưng
tên, tên là Hân.”
Ông kêu lên một tiếng, tưởng như vừa gặp ma, chợt ngồi ngây ra.
Hân? Trước mặt ông hiện lên khuôn mặt tái nhợt, đôi mắt khép hờ, ướt lướt
thướt. Đầu óc ông rất nhanh chóng quyết định có nhận cú điện thoại này
không. Tất nhiên đấy là cú điện phải nhận, nhưng cái tên Hân đã in vào
đầu óc người thư ký mà không sao gỡ ra nổi. Nếu như ông nhận, một khi
chuyện kia bị bại lộ, người thư ký sẽ trở thành nhân chứng bất lợi. Ông
chỉ nghĩ trong giây lát, rồi tỏ thái độ không quen biết người kia và giữ nguyên mệnh lệnh.
“Bảo tôi không có nhà. Sau này, tất cả những cú điện tôi không nhận, các anh phải ghi lại số điện của họ.”
Ông cố tình không nhắc người thư ký ghi lại số điện của người có tên Hân,
đề phòng tạo ấn tượng cho người thư ký. Thư ký vừa ra, ông bấm điện
thoại gọi ông Tường ông Công đến ngay văn phòng. Trước khi họ đến, người thư ký đưa vào mấy số điện thoại anh ta vừa ghi lại, để lên bàn làm
việc của ông. Người thư ký vừa quay ra ông cầm lên xem, trên đó có tên
Hân, để lại số máy nhắn tin. Vừa trông thấy chữ “Hân”, ông đã rùng mình, mồ hôi đẫm trán.
Ông Tường và ông Công đến, họ vừa bước vào cái
văn phòng rộng lớn đã trông thấy ngay bộ mặt tái nhợt của ông Thiên. Ông Công hỏi: “Thưa anh, anh khó ở ạ?” Ông Thiên không trả lời, ra hiệu cho họ đóng cửa, sau đấy nói thẳng:
“Vừa rồi có người gọi điện cho tôi, tự xưng là Hân.”
Câu nói làm cho ông Tường và ông Công cùng sững sờ, định ngồi nhưng rồi vẫn đứng trơ ra. Ông Tường sợ tai vách mạch rừng, liền hạ thấp giọng:
“Người ấy muốn gì ạ?”
Ông Thiên nói: “Tôi không nhận điện. Anh ta để số máy nhắn tin lại.”
Ông Thiên đưa số máy cho hai người. Ông Tường và ông Công nhìn nhau, không
ai biết đã có chuyện gì, đồng thời ai cũng biết sẽ có chuyện gì.
Ông Tường nói: “Có cần gọi cho anh ta để biết đấy là ai không?”
Ông Thiên gật đầu. Ông Công rất sốt ruột cầm ngay cái máy điện thoại ở bàn lên, ông Tường giữ lại: “Anh đừng gọi máy này.”
Ba người cùng ra khỏi tòa nhà của Công ty, ông Công lái xe đến biệt thự
Kinh Tây. Điện thoại ở dọc đường, nhưng họ gọi bằng máy di động của ông
Công. Chỉ một lúc sau, đối phương gọi lại. Quả nhiên, một người đàn ông, nói tiếng Bắc Kinh, giọng hơi nặng, hỏi ai gọi. Nghe giọng nói có thể
đoán là một người đã đứng tuổi. Ông Tường nhận điện, hỏi:
“Xin hỏi, ông muốn gặp ông Thiên à?”
Người kia: “Vâng, ông Thiên đấy à?”
Ông Tường không trả lời, hỏi lại: “Xin hỏi, ông là ai?”
Đối phương không trả lời, tỏ ra không tin, hỏi lại: “Ông là ông Ngô Trường Thiên đấy à?”
Giọng ông Tường khẳng định: “Tôi đây! Xin hỏi ông là ai?”
Đối phương im lặng giây lát, hỏi: “Ông có biết cô Hân không?”
Ông Tường cố tình chưa nhận ra: “Ai? Cô Hân?” Ông Thiên đã biết ý đồ của
đối phương. Ông lắc đầu ra hiệu cho ông Tường, ông Tường trả lời: “Tôi
không biết.”
Người kia cười trong máy điện thoại, nhưng vẫn chưa
vạch trần sự dối trá của ông ta, ngược lại nói thẳng: “Cô Hân không được khỏe. Cô ấy nhờ tôi vay ông ít tiền, ông có cho vay không?”
Tất
nhiên ông Thiên đã hiểu chuyện gì. Đúng như câu nói: không có tường nào
gió không lọt qua. Rõ ràng họ đang phải đối mặt với một vụ tống tiền.
Thái độ của ông Tường rất cứng rắn, nhưng khẩu khí hòa nhã: “Xin lỗi, ông
nói gì mà tôi không hiểu. Xin hỏi, phải chăng ông đã nhầm người?”
Ngay cả ông Thiên cũng nhận ra giọng điệu thiếu hẳn sự mềm dẻo tự tin. Đối
phương vẫn cười hì hì: “Tôi vay ba triệu, với ông chỉ là con số không
đáng kể. Mấy tháng trước ông làm một cú áp-phe cổ phiếu kiếm được mấy
trăm triệu.” Ông Tường đổi giọng, giọng nói nghiêm khắc, vẫn là giả vờ:
“Xin hỏi ông là ai?”
Thái độ của đối phương vẫn rất ôn hòa, trong đó có chút hài hước, có chút thách thức: “Tôi là thảo dân, là kẻ trọc
đầu, không sợ làm to chuyện. Các ông chuẩn bị ba triệu, ngày mai tôi sẽ
gọi điện lại. Các ông phải mở máy, đừng làm phiền tôi.”
Nói xong, người ấy tắt máy. Ông Tường nhìn ông Thiên, mặt rầu rĩ như cha chết.
Ông Công nhìn hai vị Chủ tịch và Phó chủ tịch cùng im lặng, liền đánh xe vào con đường vắng người, dừng lại, quay về hàng ghế sau, hỏi: “Chúng
ta phải làm thế nào?”
Làm thế nào?
Không ai nghĩ được phải làm thế nào. Ông Tường nghĩ không ra: “Làm sao có thể lộ chuyện, chỉ có mấy người chúng ta biết? Giọng người này nghe quen quen.”
Ôn Thiên hỏi: “Hắn đòi tiền à? Đòi bao nhiêu?”
Ông Tường nói: “Cái miệng sư tử, đòi những ba triệu.”
Ông Công kinh ngạc kêu lên: “Ba triệu!”
Ông Tường nói: “Không cho! Cho, có nghĩa là chúng ta thừa nhận sự việc. Nếu hắn lấy ba triệu mà câm miệng, còn có thể. Nhưng rồi hắn đòi lần này
đến lần khác coi như chúng ta vào bẫy của hắn.”
Ông Công như thảo luận công việc: “Nếu để mặc hắn, ngộ nhỡ hắn tố giác, chúng ta càng khó lòng đối phó, cho tiền còn có hy vọng, không cho coi như nước cờ đi đến thế bí.”
Nỗi lo của ông Công, ông Tường cũng không sao giải đáp
nổi. Hai người cùng nhìn ông Thiên. Mỗi lần cấp dưới đưa ánh mắt dựa dẫm nhìn ông, chắc chắn ông tỏ ra quyết đoán, đưa ra quyết định của mình.
Ông nêu lên hai điểm:
“Thứ nhất, cho hắn tiền, đến nước này rồi
không thể chờ may mắn. Tiền lấy trong khoản tiết kiệm của tôi. Thứ hai,
thông qua việc cho tiền, nhất định phải làm rõ hắn ta là ai. Không thấy
người, không đưa tiền.” Còn một chuyện khác ông Thiên vẫn để bụng, không nói ra. Xem ra chuyện đã đến lúc phải tính đến trường hợp xấu nhất, cho nên ông chợt nghĩ đến một người, đó là Lâm Tinh, cô bạn gái của con
trai.
Ông chợt nhớ cái buổi tối xảy ra sự việc, Lâm Tinh đến, ông gặp mặt cô. Ông nhớ, lúc ấy ông bảo với cô ông vừa đi ngủ, cô ngồi ở
phòng khách chừng bốn, năm phút mới đi. Lúc ấy, hình như ông vẫn rất
bình tĩnh, không để lộ dấu vết. Lúc cô ta đi, ông còn cảm ơn cô đã chọn
quà sinh nhật cho ông. Tất nhiên ông không nghĩ, cô gái không hẹn mà đến rất có thể trở thành nhân chứng sau này.
Đến tối, ông suy nghĩ,
cho rằng rất cần thiết gặp Lâm Tinh. Ông định thông qua Ngô Hiểu để hẹn
gặp, nhưng lại sợ Ngô Hiểu cùng đến, nói chuyện rất không tiện. Vì bất
cứ thế nào ông cũng không để Ngô Hiểu biết chuyện, làm không khéo sẽ
dính đến tội danh tạo chứng cứ giả, ông sẽ biết nói với vợ dưới chín
suối thế nào?
Vậy là ông gọi điện đến tòa soạn tạp chí nơi Lâm
Tinh làm việc, sáng sớm hôm sau, ông tự lái xe đến cửa tòa soạn để đón
cô. Đấy là cách thô thiển nhất, ngộ nhỡ cô không đi làm, chẳng hóa ra
công toi? Nhưng không dùng cách ấy cũng không còn cách nào khác, cho nên ông phải đến. Không ngờ, vừa chờ nửa tiếng đồng hồ thì cô gái kia đã
xuất hiện nơi đầu phố. Điều này chứng tỏ số ông còn may mắn. Ông xuống
xe, định chào cô. Ông chưa kịp nói thì cô gái đã trông thấy ông, tỏ ra
ngạc nhiên và đứng lại.
Ông cũng nở nụ cười ngạc nhiên chào lại, thoát khỏi sự lúng túng: “Ôi, chúng ta lại gặp nhau, cháu vẫn đi làm ở đây à?”
Nắng rực rỡ trên đường phố, nắng khiến vẻ mặt cô gái rạng rỡ, tuy trông cô
vẫn có nét mệt nhọc, nhưng tinh thần khá hơn hai lần ông gặp ở chùa Đàm
Chá và biệt thự Kinh Tây, trông cô tươi tỉnh, mạnh khỏe hơn nhiều. Cô
nghi ngờ nhìn ông, không biết mình nên nghiêm túc hay nên thân tình. Cô
hỏi: “Tại sao bác lại ở đây ạ? Bác có việc tìm cháu?”
Ông Thiên
gật đầu: “Đúng.” Ông ngừng lại, không biết nên nói thế nào về việc mình
đến đây: “Ờ..., bác nói chuyện với cháu mươi phút được chứ? Lúc này có
gì trở ngại cho cháu không?”
Cô gái gật đầu dưới nắng, động tác
ấy khiến ông Thiên phải mềm lòng. Ấn tượng trong ông về cô phóng viên
nghênh ngang đắc ý, kiêu ngạo, bỗng trở thành thiện cảm với cô gái nhu
mì, ngoan ngoãn. Vẻ nhu mì ngoan ngoãn khiến đường nét khuôn mặt cô càng thanh tú, nước da non tơ trong suốt. Ông nhìn quanh, nói:
“Chúng ta ngồi đâu để nói chuyện nhỉ?”
Cô gái chỉ tay về phía trước: “Ở kia có một vườn hoa, có được không ạ?”
Ông quay lại nhìn, được lắm. Một vườn hoa nhỏ yên tĩnh, có hàng rào, một
ngôi đình hóng mát màu xanh, hành lang thấp, có hàng cây cao thấp xen
kẽ. Hai người cùng vào vườn hoa, trong con mắt người đi đường giống như
hai bố con đi dạo sau bữa ăn.
Vào trong vườn hoa, rất tự nhiên,
hai người ngồi ở đình hóng mát hình tròn ở giữa. Tất nhiên ông Thiên
không vào đề ngay. Ông tuần tự bài bản, đầu tiên hỏi về con trai của
mình.
“Dạo này Hiểu bận gì hả cháu?”
Nhắc đến Ngô Hiểu, cô gái định nói gì nhưng rồi thôi. Điều ông Thiên không ngờ là, vẻ mặt cô
vẫn còn đôi chút bẽn lẽn, xấu hổ, không có cái vẻ kích động và cứng rắn
như hôm ở chùa Đàm Chá. Cô trả lời: “Thưa bác, anh Hiểu rất muốn về thăm bác, nhưng mấy hôm nay bác không ở Bắc Kinh. Có phải bác tìm cháu để
hỏi tình hình anh Hiểu không ạ. Có thể lúc này anh ấy mới ngủ dậy, bác
có cần để cháu bảo anh ấy về thăm bác không?”
Ông Thiên vội xua tay: “À, không cần, bác muốn tìm cháu để bàn một việc khác.”
Cô gái nhìn ông, chờ đợi.
“Này... cháu còn nhớ, hình như một tuần lễ trước, một hôm vào buổi tối, cháu
đến nhà bác tìm Hiểu. Bác với cháu còn nói chuyện với nhau, cháu còn nhớ không nhỉ?”
Cô gái ngập ngừng rồi gật đầu: “Cháu nhớ, sau đấy cháu đến quán bar Ánh Trăng thì gặp anh Hiểu.”
Ông Thiên vẫn bình tĩnh, làm ra vẻ không chú ý, nhưng trong bụng lại đang
cố tìm lời lẽ. “Hôm ấy, tối hôm ấy, Hiểu và mấy người bạn của bác, mừng
sinh nhật bác. Mọi người cùng ăn cơm, ăn xong thì Hiểu đi ngay, sau đấy
người của Công ty bác có mời mấy cô gái đến tổ chức khiêu vũ gia đình.
Hai cô bạn của cháu, bác nhớ một người tên là Aly, một người tên là ...
là gì ấy nhỉ, à, tên là Hân cũng đến, cùng nhảy. Bác không thích khiêu
vũ, với lại hôm ấy cũng mệt, nên đi nghỉ sớm. Bác đi nghỉ thì họ cũng
giải tán. Nhưng hai hôm nay bác nghe nói, hai cô bạn của cháu hình như
có chuỵện gì, cháu có nghe nói không? Hình như không tìm thấy cái cô tên là Hân, không biết có phải ai dụ dỗ rồi đem bán. Có người nghi đã xảy
ra chuyện gì ở chỗ bác... thật kỳ lạ! Hiểu đi, bác cũng đi nghỉ, bác đi
nghỉ thì vũ hội cũng tan, các cô ấy về, sau đấy cháu đến ngay. Bác muốn
cháu nhớ lại, hôm ấy cháu đến lúc mấy giờ?”
Trong câu chuyện, ông Thiên đã tính kỹ. Ông cố tình ngụy trang không để lộ tung tích, xem ra
tìm Lâm Tinh chỉ để xác minh thời gian cô đến vào buổi tối hôm ấy. Nhưng khi nói ông lại lần lượt kể đầu đuôi sự việc, thời gian từng người đến
dự và ra về, trên thực tế lại hướng dẫn người sắp ra làm chứng, hơn nữa
rất kín đáo ghi vào ký ức cô một ấn tượng nào đó. Lâm Tinh không cảnh
giác, trả lời theo câu nói của ông:
“Cháu đến chỗ bác khoảng mười giờ, có lẽ hơn mười giờ một chút. Vì sau đấy, từ nhà bác ra, cháu đến
bar Ánh Trăng đã gần mười một giờ. Anh Hiểu và ban nhạc đang biểu diễn,
cháu nhớ rõ lắm.”
Ông Thiên nói: “Phải phải, cháu đến lúc ấy gần
mười giờ. Bác với cháu còn nói chuyện ở phòng khách, nói đến món quà của cháu mừng sinh nhật bác, cháu nhớ không? Đúng đúng, cái áo ngủ ấy bác
rất thích. Hôm ấy hai bác cháu nói chuyện hơn nửa tiếng đồng hồ.”
Tất nhiên đấy là sự hướng dẫn sai lầm đã được tính toán tỉ mỉ, tuy không
hoàn toàn ý thức, nhưng cô xác nhận thời gian, rõ ràng vượt quá rất xa
so với thời gian hai người nói chuyện hôm đó...
“Không ạ, hôm ấy cháu với bác chỉ nói chuyện chừng mười lăm phút. Cháu thấy bác có vẻ mệt, cho nên cháu không ngồi lâu.”
Ông Thiên làm như cố nhớ lại: “À, thế à?” Câu chuyện đến đây hình như ông
đã thỏa mãn, có thể đã đạt được mục đích thống nhất mọi tình tiết sự
việc. Nhân đây, ông nêu một yêu cầu, và cũng là mục đích hôm nay ông
đến:
“Cháu ạ, sau này nếu có cơ quan nào đến tìm hiểu tình hình
bác, bác có thể tìm cháu giúp đỡ. Bây giờ trí nhớ của bác kém lắm, cháu
nói rõ ràng hơn bác. Nếu có người đến tìm hiểu, cháu hãy nói giúp, coi
như cháu là người làm chứng, được không?”
Lâm Tinh gật đầu, nhưng vẻ mặt nghi hoặc: “Bác có biết cô Aly và cô Hân đã xảy ra chuyện gì
không ạ? Hình như hai cô ấy đã rời Bắc Kinh và xảy ra chuyện gì đó.”
Ông Thiên nói, lời lẽ lộn xộn: “Bác cũng nghe các anh trong Công ty nói,
hình như hai hôm nay người của bên Công an gọi điện đến hỏi chuyện tối
hôm ấy hai cô đến chỗ bác khiêu vũ. Hôm ấy chuyện ra sao bác cũng không
nhớ rõ, vậy là nhớ đến cháu. Sáng nay trên đường đi làm, tiện đường ghé
qua xem cháu có nhà không, muốn nhớ cháu nhớ lại, rất may gặp được cháu. Bệnh tình của cháu có đỡ chút nào không?”
Ông Thiên vội vàng kết thúc câu chuyện, sợ rằng nếu tiếp tục, trong lúc nói chuyện để lộ một
tình tiết bất lợi nào đó, cho nên ông chuyển sang hỏi về sức khỏe của
Lâm Tinh. Nhưng ông lập tức ý thức được rằng, hỏi thăm bệnh tật của cô
vẫn chưa thỏa đáng, vì mấy hôm nay Ngô Hiểu gọi điện về Cát Hải, khẩu
khí rất bức xúc xin tiền ông để chữa bệnh cho cô. Ông không cho, kiên
quyết chờ con trai về để bố con gặp mặt sẽ nói sau, con trai bực mình
cúp ngay máy. Nếu hôm qua không có vụ tống tiền bí mật kia làm cho ông
đứng ngồi không yên, hôm nay ông sẽ gặp con trai để nói chuyện. Ông muốn thuyết phục con trai hãy thận trọng suy nghĩ. Ông có thể đồng ý để con
trai làm bạn với Lâm Tinh, bây giờ thanh niên có xu hướng kết bạn khác
giới không nhất thiết đạt mục đích yêu và lấy nhau. Nhưng cho dù thời
đại khác nhau, việc lớn cũng không thể quyết định vội vã. Con trai ông
còn trẻ, mấy năm nữa mới tính đến chuyện yêu và lấy vợ cũng chưa muộn.
Mấy năm nữa con trai ông và Lâm Tinh có thể không còn rung động như bây
giờ. Hơn nữa, nói một câu có phần tàn nhẫn: mấy năm nữa bệnh tình của cô gái này tốt xấu ra sao, sống hay chết, cũng chưa biết đâu.
Nhắc
đến bệnh tật, vẻ mặt cô gái như có rất nhiều cảm xúc, muốn khóc, nhưng
nén lại, cô cười để che giấu: “Thưa bác vẫn ổn ạ.” Lại nói: “Cảm ơn bác
đã hỏi thăm.”
Ông Thiên nhìn đồng hồ với ý buổi nói chuyện đến
đây là kết thúc. Trong buổi nói chuyện ngắn ngủi, vẫn như những lần
trước, ông vẫn giữ được thái độ hiền từ và hòa nhã của người lớn tuổi.
Ông nói: “Bác đã làm cháu đi làm muộn, lần sau sẽ nói chuyện nhiều.” Ông đưa một tay ra cáo biệt cô gái.
Cô gái bắt tay ông, tay cô mềm
mại hơn trước. Ánh mắt của cô cũng có thêm sự ngượng ngùng khó đoán,
nhìn thẳng vào ông, không lần tránh như mọi lần, cô nói: “Thưa bác,
trước đây cháu không biết nên gọi bác là Chủ tịch hay gọi bằng bác. Bây
giờ, cháu cũng không biết, không biết gọi bằng bác hay gọi bằng... gọi
bằng bố.” Ông Thiên ngớ ra, chưa kịp phản ứng, cô nói tiếp: “Cháu và anh Hiểu, chúng con đã làm lễ thành hôn từ hôm qua rồi ạ.”
Cái gì? Nụ cười của ông Thiên chưa kịp tắt, vẻ mặt ông bỗng sững sờ.
Vì quá kích động và ngắn ngủi, mặt cô gái cũng đỏ ửng, nhưng giọng nói vẫn bình tĩnh, không kích động, giọng nói rủ rỉ: “Việc này, lẽ ra để anh
Hiểu thưa chuyện lại với bố. Nhưng vì sợ bố giận, cho nên chúng con
không dám mời bố dự hôn lễ. Chúng con không cầu xin bố chúc mừng hạnh
phúc. Nhưng con nghĩ, bố tin con sẽ mãi mãi, mãi yêu anh Hiểu. Con sẽ
làm cho anh Hiểu hạnh phúc. Con xin bố hãy tin như vậy. Con chào bố!”
Cô gái ung dung quay đi, cô gọi “Bố”, sau đấy biến mất nơi lối vào vườn
hoa. Ông Thiên không nói gì, hoặc không nói được gì. Không chúc mừng
hạnh phúc, không trách cứ, thậm chí không kịp bày tỏ nghi ngờ. Ông hoàn
toàn kinh ngạc, sững sờ, không biết là mơ hay thực, không biết tâm trạng mình lúc này như thế nào, không rõ lời tuyên bố vừa rồi của cô gái có ý nghĩa gì với mình. Có ý nghĩa thằng con trai của ông đã xa hẳn ông rồi
chăng? Lòng ông trống trải, chậm bước về xe của mình, những ngón tay run run tưởng như không cắm nổi chìa khóa xe vào lỗ khóa. Trong giây phút
trấn tĩnh đầu tiên, lòng ông không nén nổi cảm giác bị sỉ nhục và phẫn
nộ, không biết nên giận cô gái này hay giận con trai mình. Hai người nêu ý kiến phản đối rất bình thường với ông. Một người làm bố, nhưng lại
hành động phản kháng và trả thù quyết liệt như vậy. Giấu ông để làm lễ
cưới, không báo tin cho ông, ngay cả thông điệp cuối cùng cũng không, cứ vậy tổ chức lễ cưới! Ông không nghĩ được thằng con mình lại trở nên
vong ơn bội nghĩa đến vậy. Ngô Hiểu là người thân duy nhất của ông. Ông
phải chắt chiu từng hớp cháo từng hạt cơm để nuôi Ngô Hiểu khôn lớn và
dành trọn yêu thương. Vậy mà Ngô Hiểu đối với ông như vậy, đã làm tổn
thương tình cảm ông mà không để lại một chút gì. Con trai làm như vậy
coi như một trò cười trước những người dưới quyền, bạn bè và ông Mai
Khởi Lương, một nhà lãnh đạo. Ông nghĩ, không còn nghi ngờ gì nữa, mọi
sự phiền hà bắt nguồn từ cô gái này. Nếu không có cái cô gái coi mình
cao hơn mọi mục tiêu, cái cô gái việc gì cũng làm bằng được mà không hề
tiếc bất cứ một thứ gì, cái cô gái làm ông tức giận vì không cho cô tiền chữa bệnh, liệu con trai ông có thể hành động như vậy được không?
Ông ngồi lặng trong ô tô, rất lâu, rất lâu, tức giận và thương cảm thiêu
đốt, toàn thân toát mồ hôi, khó chịu như người ốm. Ông rất phản cảm với
cô gái này từ lần đầu tiên cô ta bất chấp tất cả, không hiểu mọi quy
tắc, cứ thế xông vào văn phòng đòi phỏng vấn ông. Về điểm này trai và
gái không giống nhau, con trai giàu tính công kích cũng hiểu được phải
lựa chiều, nhưng tính công kích của con gái không khỏi có chút thoải
mái, không kiêng dè, thường xâm phạm trực diện đối phương. Cho đến lúc
ấy, ông rất hận cô gái này, cha con bất hòa xa nhau, thảm án đổ máu
trong đêm sinh nhật. Ông gặp phải bao nhiêu điều bất hạnh và bế tắc,
chừng như đều có liên quan đến người con gái này, vì quen biết cô ta mới nên chuyện. Nếu cái cô Tiểu Tinh Tinh này là ngôi sao chiếu mệnh của
ông, vậy thì sáng nay ông tìm đến cô để nhờ giúp đỡ cho tai qua nạn
khỏi, chẳng hóa ra tự mình chui vào lưới? Một cảm giác bất hạnh bao trùm ông, khiến ông không rét mà run.
Nghĩ đến tai họa ở ngay trên
đầu, tâm trạng ông co lại, không còn tự giác nghĩ đến cô gái về thực tế
hay về pháp lý đã trở thành nàng dâu, mà chìm vào nỗi sợ vì cú điện
thoại bí ẩn hôm qua. Buổi sáng, ông Công cầm chứng minh thư của ông
Thiên đi ngân hàng lặng lẽ rút tiền. Buổi trưa, ông đem ba triệu đồng về biệt thự Kinh Tây, ba người hẹn gặp nhau ở đây, sau đấy liên hệ với kẻ
tống tiền. Đây là một việc lớn họ phải dồn sức để kết thúc, còn những
việc khác đến đâu hay đấy. Ông Thiên tự trấn tĩnh, cắm chìa khóa vào,
cho xe chạy.
Ông đến văn phòng Công ty xử lý vài văn bản không mấy quan trọng, sau đấy về biệt thự Kinh Tây sớm để chờ ông Công.
Buổi trưa, ông Công về. Khi ông xách cái cặp nặng bước vào thư phòng, ông
Thiên và ông Tường đã chờ sẵn. Cơm trưa cũng bảo người đưa đến tận nơi.
Ba triệu đồng phải lấy ở những quỹ khác nhau, từng bó tiền cho vào cặp.
Sau khi xem tiền, ông Thiên dặn cho cặp tiền vào tủ tường, sau đấy ba
người ngồi lại, hút thuốc, im lặng chờ điện thoại của kẻ tống tiền.
Họ chờ đợi trong tâm trạng nặng nề. Ba tiếng đồng hồ lặng lẽ trôi qua, căn phòng nhỏ đầy khói thuốc nôn nóng, sốt ruột. Gần bốn giờ chiều, tiếng
chuông điện thoại di động réo vang, vẫn là ông Tường nhận điện. Đối
phương “Alô” trước để thăm dò, tiếp theo là câu hỏi của ông Tường: “Xin
hỏi, ông là ai?” Đối phương đã nhận ra tiếng ông Tường, câu đầu tiên là:
“Đã chuẩn bị đủ tiền chưa?”
Cho dù tiền đã chuẩn bị, ba triệu để trong tủ, nhưng ông Tường phải ngắc
ngứ một lúc mới nói, vì câu nói hàm ý thừa nhận tội lỗi.
“Chuẩn bị rồi.”
“Đủ ba triệu chứ?”
“Làm thế nào để trao cho ông?”
“Cầm tiền, ra cửa thuê taxi, nhớ mở điện thoại di động. Ngoài tôi ra, cấm
không được liên lạc với ai. Mình ông đi. Tôi biết ông, trên truyền hình
tôi đã trông thấy ông. Nếu không phải ông, coi như vụ giao dịch không
thành.”
Điện thoại lập tức bị cúp, trong ống nghe chỉ còn tiếng
“tít... tít...” báo bận. Ba người nhìn nhau, ông Công nói: “Anh Thiên,
để em đi.”
Ông Thiên không nói gì. Ông Tường nói với ông Công:
“Trong điện thoại hắn không nhận ra tiếng anh Thiên, chắc chắn hắn không quen biết anh. Anh đi trước tiếp xúc với hắn. Tôi đi sau tiếp ứng,
không việc gì đâu, đừng sợ.”
Ông Công gật đầu: “Tôi đi không việc gì, hắn không dám làm gì tôi đâu. Anh Thiên cầm điện thoại, nếu có việc gì chúng ta liên lạc với nhau.”
Họ nói, rồi lấy cặp tiền trong tủ ra, chưa ra khỏi cửa, ông Thiên gọi hai người lại.
Ông đứng dậy, vẻ mặt không chút biểu cảm, cầm cái cặp trong tay ông Công, nói: “Tôi đi.”
Ông Tường và ông Công cùng ngớ ra, nhưng qua sắc mặt ông Thiên họ biết không cần thiết phải giành lại.
Bốn giờ chiều, ông Thiên tay xách cặp ra cửa sau của biệt thự Kinh Tây vắng lặng. Năm phút sau, ông đứng bên đường, vẫy một chiếc taxi. Đang giữa
mùa hè, tháng Bảy nắng như đổ lửa, tuy mặt trời đã ngả về Tây nhưng vẫn
nóng bức. Ông Thiên vóc người cao to ngồi vào taxi chật hẹp, thấy không
tương xứng. Trong xe không có máy lạnh, nóng như trong lồng hấp. Ông
nghĩ, đúng là tháng Bảy sinh tử.
Người lái xe hỏi ông đi đâu, ông nói đại một địa chỉ nào đấy, xe chạy về hướng mặt trời. Ông cố giữ bình tĩnh, không nhìn trước ngó sau, cho dù ông rất muốn ngó lại phía sau
xem xe ông Tường và ông Công có bám theo được không.
Xe chạy một
quãng chưa xa, điện thoại của ông đổ chuông, người kia hỏi: “Lên xe
chưa?” Ông trả lời: “Tôi đang ở trên xe.” Người kia hình như không nhận
ra giọng nói khác với giọng nói của ông Tường, ông Công, liền ra lệnh:
“Đến Trung tâm triển lãm Quốc tế, có biết chỗ ấy không?” Ông đáp:
“Biết!” Đối phương tắt máy.
Lúc này chưa phải giờ cao điểm, xe
chạy nửa tiếng là đến Trung tâm triển lãm Quốc tế. Ở đây đang lúc hết
giờ của triển lãm đồ điện gia dụng, lại là lúc đông nhất của chợ Gia Lạc Phúc gần đấy, cho nên đường phố người xe chen chúc, tắc trước tắc sau,
xe của ông Thiên cũng kẹt ở giữa.
Lại có tiếng chuông điện thoại: “Xuống xe, qua phố trước mặt đổi xe, đến Quảng trường Trung Lương.”
Người kia ra lệnh rõ ràng, rành mạch.
Ông xách cái cặp, rất vất
vả len qua dòng người và xe, đi sang con phố trước mặt, lên một chiếc
taxi khác, đi ngược con đường vừa đến. Tất nhiên ông biết tại sao ở nơi
người xe chen chúc, ồn ào, xe không có cách nào quay đầu, bắt ông phải
đổi xe chuyển hướng. Hơn nữa, đối thủ đã đạt được mục đích, ông Tường và ông Công mất hút mục tiêu.
Hai mươi phút sau xe đến Quảng trường Trung Lương, đúng lúc có tiếng chuông điện thoại: “Xuống xe, đi về phía trước.” Theo mệnh lệnh, ông xuống xe, tay xách cặp đi về phía trước.
Mỗi lần có điện thoại là lúc ông đến một vị trí nào đó. Chứng tỏ kẻ tống tiền bám theo ông, theo dõi hành tung của ông. Bất giác ông nhìn bên
phải, nhìn bên trái, phía trước phía sau, người đi lại đông đúc, ồn ào.
Ông nhìn theo bản năng, muốn phát hiện tên điều khiển ông bằng điện
thoại di động, tất nhiên chỉ là ảo tưởng ngu ngốc.
Ông cứ vậy đi
về phía trước, đi mãi, đi mãi, trước mặt là ga xe lửa Bắc Kinh. Điện
thoại một lần nữa vang lên: “Vào ga, mua vé tàu, chuyến tàu 301 đi Mãn
Châu Lí, giường nằm cứng.” Ông bực tức hỏi: “Giao hàng ở đâu?” Đối
phương lập tức cúp máy.
Ông đứng trước quảng trường nhà ga mới
được sửa chữa, suy nghĩ hồi lâu rồi đi tiếp. Ông vẫn phải làm theo yêu
cầu của người kia. Người kia đòi tiền không phải đòi sinh mệnh. Ông nghĩ mình sẽ không gặp nguy hiểm. Người kia bắt ông phải đi lại loanh quanh, có thể là vì an toàn của bản thân.
Ông mua vé chuyến tàu nhanh
số 301 đi Mãn Châu Lí. Vé rất dễ mua, có thể người kia đã thăm dò trước. Ông mua được tấm vé nằm giường dưới. Đối phương lựa chọn chuyến tàu này cũng phải tính toán kỹ càng lắm, bởi chỉ còn chưa đầy hai mươi phút nữa thì tàu chuyển bánh, xem ra tên tống tiền tính thời gian rất khớp.
Lúc này ông Thiên mệt lắm rồi, nhưng vẫn cố xách theo cặp hành lý không nhẹ nhàng, vội vã lên đoàn tàu số 301. Ông không nhớ nổi mình bao nhiêu năm không nằm giường cứng trên tàu, lạ cả với những thủ tục như kiểm tra
vé, đổi vè. Ông nằm toa số mười hai, đấy là toa xe cuối đoàn tàu. Hành
khách không đầy toa, chỉ chừng sáu, bảy phần mười, trên giá để hành lý
đã đầy bọc lớn bọc nhỏ, ông đành để cái cặp dưới gầm giường.
Trên sân ga vang lên tiếng nhạc tiễn biệt, giọng người phát thanh sôi nổi có tính nghi thức tràn vào tai ông. Ông Thiên chú ý hành khách qua lại
trên sân ga và những người đi tiễn vội vã xuống tàu, không còn tâm trạng nào để lắng nghe tiếng phát thanh. Chỉ một lúc sau, đoàn tàu từ từ
chuyển bánh trong tiếng nói hòa tiếng nhạc của nhân viên phát thanh, đi
về phía ánh mặt trời đỏ rực, rồi rầm rập rời Bắc Kinh.
Không thấy điện thoại gọi tiếp, ông Thiên đi lại vài bước nơi ông nằm, chú ý quan
sát hành khách nằm giường bên, tưởng như ai cũng có hành tung khả nghi,
ánh mắt lẩn tránh, nhưng khi ông đưa mắt nhìn họ tất cả lại như vô tội.
Dọc đường không có động tĩnh gì, ông ngồi bên cửa sổ dọc lối đi trên tàu,
nhìn cảnh vật dọc đường Bắc Kinh - Thiên Tân cứ lùi về phía sau, lòng
những cảm thấy vô cùng bất hạnh. Tàu sắp đến Thiên Tân, tiếng loa thông
báo: Sắp tới là ga Bắc Thiên Tân, quý khách xuống tàu xin chuẩn bị, tàu
chỉ dừng lại ở ga này một phút. Tiếng loa chưa dứt thì có tiếng chuông
điện thoại, ông Thiên nghe mệnh lệnh cuối cùng của người kia:
“Đi lên toa trước, đi thẳng, không được ngoảnh lại, không đem theo hành lý.”
Ông đóng điện thoại, đứng lên đi sang toa trước, đi qua hai toa tàu thì tàu vào ga Bắc Thiên Tân. Ông vừa đi vừa nhìn ngoài cửa sổ toa tàu, người
xuống ga này không nhiều. Trời đã nhá nhem tối, không trông rõ mặt người trên sân ga. Ông đến toa số bảy thì tàu lại chạy, ông đứng lại. Dù
không có lệnh nhưng ông vẫn bước nhanh trở về toa số mười hai, về chỗ
của mình. Có bốn người ngồi quanh cái bàn nhỏ đánh tu-lơ-khơ. Ông ngồi
xuống, cúi nhìn gầm giường, quả nhiên cái cặp không còn.
Ông
Thiên xuống ga Thiên Tân, về đến Bắc Kinh đã mười một giờ đêm. Ông không muốn nhớ lại từng chi tiết hành trình vừa rồi, mỗi chi tiết đều rất mệt mỏi và nhục nhã. Hy vọng duy nhất của ông là sự việc đến đây kết thúc,
đồng thời có thể quên hẳn.