Đôi kiếm Trường Dạ và Diễm Dương, một dài một ngắn, một đen một lam, nằm song song trên bàn. Bề ngoài của Trường Dạ giống như tên, đen tuyền từ chuôi đến vỏ; còn kiếm Diễm Dương thì xanh biếc như màu trời trong.
Tà đại hiệp luôn mang đôi kiếm này bên mình nhưng rất hiếm khi nhân sĩ giang hồ thấy Diễm Dương xuất ra khỏi vỏ.
Quân Tiêu Mặc cũng thắc mắc lắm, từng hỏi thành lời: “Kiếm mà cứ nằm trong vỏ thì khác gì kiếm cùn?”
Quân Huyền thoáng quay đầu qua nó, bình thản, dửng dưng đáp: “Diễm Dương mà là kiếm cùn thì Trường Dạ là thứ đồ bỏ đáng vứt đi.”
Nếu Trường Dạ có linh hồn, nghe được câu này của chủ thì sẽ hộc máu văng xa ba ngàn tám trăm dặm rồi khóc thành sông mất.
Nghe vậy, Quân Tiêu Mặc nhận định đầu óc Quân Huyền bất bình thường. Đặt Trường Dạ nằm cạnh Diễm Dương mới thực sự là tủi thân cho nó chứ, tội nghiệp. Dù gì thiếu niên vẫn còn nhỏ tuổi, non nớt, thấy đối tượng nổi tiếng gần bên suy nghĩ quái lạ quá nhiều, cũng hơi nao nao thắc mắc, rốt cuộc được mở mang trí óc không ít, tâm đắc như ngộ đạo. Về phần ngộ ra điều gì thì để tương lai nhóc ấy tìm thấy người mình muốn trân trọng đã.
Tuy Quân Huyền nói mình giấu Tế Khứ làm tin để Quân Tiêu Mặc đừng chạy trốn nhưng hắn giấu kỹ quá đi, nó muốn nhìn qua một chút cũng không được.
“Lâu lắm rồi ta không cầm kiếm.” Mang tâm lý giận dỗi, Quân Tiêu Mặc đứng ngay trước cửa chờ chủ nhà về, nói ngay: “Tay của ta sắp mất cảm giác.”
Quân Huyền cầm giỏ đồ đặt xuống bàn bếp, từ tốn rửa sạch rau củ rồi lau khô tay, về phòng lấy Trường Dạ ném vào tay nó, bảo: “Thiếu chủ muốn chém gì tùy ý.”
Tùy ý?
Quân Tiêu Mặc ôm bảo kiếm mà có cảm giác nó là một thanh sắt vụn, nói 'cảm ơn' rồi chạy ra sân, phấn khởi rút kiếm khỏi vỏ, tùy tiện múa một đoạn kiếm phổ Xuyên Sơn phái.
Tai Quân Huyền thính từ nhỏ, lại còn luyện Không Cảnh công gia tăng độ nhạy bén của các giác quan, lắng nghe cũng hình dung ra được vài động tác người thiếu niên đang múa.
Bởi vì hắn đã từng thấy kiếm pháp của phái Xuyên Sơn. Kiếm pháp Xuyên Sơn lấy 'ngay thẳng' làm khẩu quyết, tựa như lời giang hồ ca ngợi: “Lan quân tử như trúc Xuyên Sơn.”
Vút! Một tạp âm chợt xen vào.
Soạt! Dường như là tiếng động Quân Tiêu Mặc lăn mình dưới đất, vung kiếm quát: “Ai!”
Nó thấy một toán người áo đen bịt mặt thoăn thoắt leo tường vào, ám khí phóng tới như mưa, lập tức đạp chân nhảy về sau tránh né. Qua khóe mắt gặp tên lên nỏ, đang bận giữa không trung, nó đành liều lĩnh xoay mình vung kiếm chém gãy tên. Vì tầm quá sát mặt đất nên hành động khiến thân thể mất thăng bằng, bả vai nó bị trầy rách vải, đỏ au một vệt dài tới nửa lưng. Bật máu.
Toán áo đen đã tận dụng thời gian nó bị va chạm để bao vây lấy nó.
Quân Tiêu Mặc cầm ngang kiếm để phòng thủ, phân tích tình hình.
Bảy người. Thân thủ cực kỳ nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng. Ám khí và nỏ, sát thủ!
Bất ổn... địch dùng nỏ tầm xa, mình lại dùng kiếm bị giới hạn phạm vi. Địch đông, mình đơn độc.
“Các hạ là người từ đâu đến? Tại sao lại tấn công tại hạ?”
Họ không đáp. Một người với giọng cực trầm như cố tình đè ép hỏi: “Tế Khứ đâu?”
“Đây.” Quân Huyền đáp.
Tất cả mọi ánh mắt đều dồn về phía nam tử bạch y cầm thanh trường kiếm màu xám bạc. Kẻ vừa hỏi phất tay. Tên lạch cạch lên nỏ.
Quân Tiêu Mặc biến sắc: “Đừng!”
Nhưng ai quan tâm chứ, sáu mũi tên vun vút nhắm vào Quân Huyền tức thì bị một bóng đen nhoáng lên chặt gãy hết. Mạc Nhất cầm hai cây thích quỳ dưới đất, mắt lạnh như băng, cánh tay còn đang tròng qua một giỏ cá tươi.
Sáu chiếc nỏ quay quắt hướng vào Quân Tiêu Mặc. Kẻ kia tiếp tục nói: “Kiếm hoặc người.”
Quân Huyền lắc đầu, nâng tay cầm lấy chuôi Tế Khứ: “Xưa nay thấy kiếm như thấy người, nào có đạo kiếm người riêng biệt.”
Tên lạch cạch lên nỏ.
Lưỡi kiếm ra khỏi vỏ một đoạn ngắn, hai mũi tên liền cắm vào bắp chân Quân Tiêu Mặc. Thiếu niên thở dốc cắn môi, cương quyết không bật ra nửa tiếng rên, tay siết kiếm vững vàng.
“Ra vậy.”
Kẻ áo đen duy nhất lên tiếng từ đầu giờ chợt nhíu mày.
Quân Huyền tự nhiên nói: “Ra vậy.”
Thưa Tạ tướng quân... Hắn hít sâu một hơi, hôm nay vãn bối bất đắc dĩ đành phải dùng kiếm của ngài, mong ngài bỏ qua.
Lập tức - Tế Khứ rời vỏ! Kiếm ngâm như ưng thét!
Quân Huyền và Mạc Nhất không cần hẹn mà đồng thời hành động. Đám nỏ xoay chuyển, tên vun vút ào ào về phía bọn họ. Phựt! Phựt! Phựt! Tiếng dây đàn hồi trả về vang lên liên tục.
Cặp thích của Mạc Nhất xoay vù vù trong tay, tạo thành khiên chắn cho hắn và Quân Huyền. Thân thủ của ảnh vệ vốn nhanh nhẹn, tiếp cận kẻ thù trong chớp nhoáng, mũi thích nhọn hoắt vung lên liền cắt cổ ba sát thủ. Máu văng tung tóe.
Mạc Nhất phóng một cây thích vào ngực một trong ba kẻ kịp nhảy lùi, xoay người đạp cái nỏ dưới đất văng lên, vừa phóng cây thích còn lại trúng gã thứ hai, rồi bắn tên trong nỏ xử lý kẻ cuối cùng.
Nhanh, gọn. Thân thể sạch sẽ, giỏ cá không rớt ra con nào.
Mười ba ảnh vệ bên cốc chủ được chính tay Tả hộ pháp huấn luyện đều phải đạt đến thân thủ như thế này.
Mạc Nhất quay đầu lại, thấy Quân Huyền đang đưa lưng cõng Quân Tiêu Mặc, kiếm Tế Khứ dính máu trong tay, lạnh nhạt đi qua thi thể của kẻ áo đen ra điều kiện, nói: “Chuẩn bị rời khỏi đây. Nơi này không an toàn nữa rồi.”
Bí điểm Thần tích của tộc Điệp Cách là một cánh cửa đồng rất lớn nằm sâu dưới ba thước đất sa mạc. Thử hỏi con người làm sao có thể đào xới và xây dựng được một kiến trúc đáng kinh ngạc như vậy dưới lòng đất?
Thế nên nơi này được xem là di tích của thần linh và vùng đất thần thánh mà chỉ Đại tư tế đã trải qua nghi lễ thanh tẩy phức tạp mới được phép bước vào.
Thuở xa xưa là vậy, mai sau, đường hầm kỳ lạ này dưới thời tộc Điệp Cách bị ngoại quốc chiếm đóng, đã được tận dụng để trở thành nhà tù giam giữ hoàng tộc và nghĩa sĩ chống đối. Và ngày nay, nó vẫn được giữ nguyên kiến trúc thời ấy, tộc Điệp Cách chịu ảnh hưởng của tư tưởng ngoại quốc không còn coi nó là chốn thần thánh nữa, nhưng vẫn gọi là Thần tích.
Cửa đúc bằng đồng thau nguyên khối, không tính được tuổi đời, chỉ biết cửa đã tồn tại từ rất lâu. Đa phần bề mặt đều bị gỉ sét, những chỗ y nguyên màu lấp lánh như vàng ròng.
Hoa văn chạm khắc trên cửa cực kỳ tỉ mỉ, hầu hết là chữ Điệp Cách rất cổ xưa, ít ghi chép còn tồn tại sau thời bị chiếm đóng khiến bao nhiêu nhà thông thái phải đau đầu.
Rồi, xuất hiện một nhân vật ngoại tộc đã giải nghĩa được đoạn ngắn ở gần tay nắm cửa. Đoạn văn tự ấy ghi chép về năm khối ngọc trắng tên Sinh Tử bội tương ứng với năm hõm trên cánh cửa, kết hợp với hai khối ngọc đã được đặt khớp vào sẵn biểu diễn một vòng pha mặt trăng. Năm khối Sinh Tử bội còn thiếu lần lượt là: mảnh trăng non, mảnh thượng huyền, mảnh trăng tròn, mảnh hạ huyền và mảnh trăng tàn.
Trong đó, Quốc sư đã tìm được hai khối ngọc thượng huyền và trăng tàn.
Còn ba khối mất tích.
“Tương truyền Thượng thần Trường Ly sinh ra từ tâm trời đất, người là phiên bản thành hình thành dạng của trời đất, trong lòng chứa chúng sinh. Vạn vật đều là chúng sinh, Thượng thần chính là hóa thân của trời đất. Chúng sinh hạnh phúc, Thượng thần vui vẻ; chúng sinh lầm than, Thượng thần đau khổ.
“Tích kể rằng, nhân gian từng thấy vầng trăng không đủ sáng để soi tỏ trời đêm, kêu cầu thần linh, Thượng thần liền cắt tóc mình dán lên trời làm sông Ngân. Tích khác lại kể rằng, đương thời bốn mùa xuân, hạ, thu, đông vẫn chưa tuần hoàn ổn định, nhân gian không biết dấu hiệu báo trước mùa xuân để đánh dấu ngày tháng và sửa soạn gieo giống, Thượng thần nghe lời cầu xin liền dùng máu nhuộm đỏ một loài hoa luôn sẽ tàn vào cuối đông. Đó là loài hoa ở đuôi mắt ngươi, phải không?”
Quốc sư nghiên cứu các ghi chép cổ xưa cực kỳ kỹ lưỡng, đọc đi đọc lại đến mức thuộc lòng từng câu, từng chữ và mọi chi tiết nhỏ lẫn truyền thuyết không rõ hư thực.
Tất cả là để tìm cách mở cửa Thần tích.
Kỳ thật, Mạc Tử Liên lẫn Quốc sư đều không biết tìm được đủ Sinh Tử bội thì có mở cửa Thần tích ra hay chăng. Bọn họ chỉ... hi vọng.
Quốc sư không quan tâm đến việc thần linh tồn tại hay không tồn tại, hồ Khô Lâu với hàng vạn bộ xương khô dù không ảnh hưởng tới thịnh suy của tộc Điệp Cách nhưng vẫn phải được xử lý. Vì nó là một điềm khiến người ta không an lòng và là hồ cực độc của sa mạc. Cứ để nó như vậy thì sớm muộn đất đai với nguồn nước quý giá vốn đã ít ỏi của bọn họ sẽ nhiễm độc.
Mạc Tử Liên đơn giản hơn. Y chỉ muốn đưa hài cốt của cha mẹ và những người trong Hoan Lạc cốc đã ngã xuống trên mảnh đất ruồng bỏ bọn họ về nhà.
Người của Hoan Lạc cốc phải được mai táng tại Hoan Lạc cốc.
Vách tường hai bên hành lang được xây bằng đá tảng chồng lên nhau, đây là một đặc điểm nữa khiến bọn họ nghĩ nơi này không phải do con người xây dựng.
Bởi vì các tảng đá không được kết dính mà chỉ chất chồng lên nhau, vừa khít một cách khó tin, vững chắc một cách quái đản.
Ra khỏi hành lang Thần tích, cánh cửa sau lưng nặng nề đóng lại, ngăn cách với khu nhà tù bên ngoài.
Dưới lòng đất tối tăm không một tia sáng mặt trời, không khí loãng, nhiệt độ luôn luôn lạnh lẽo. Tội phạm phải phạm vào tội cực nặng mới bị giam giữ tại đây đến chết.
Quốc sư nhìn thẳng đi trước. Mạc Tử Liên giữ khoảng cách đi sau, ánh mắt, đôi môi còn không an phận mà liếc phạm nhân này, cười với phạm nhân kia khiến nhà tù nhất thời nhốn nháo ầm ĩ lên.
Trời mới biết đám tội nhân tại đây bị giam đã bao lâu, không được nhìn thấy nữ tú nam thanh nào, sớm nghẹn đến mức bà già cũng dám chơi; nay được mỹ nhân cười lẳng lơ như thế thì lửa dục bùng nổ.
Đám ngục tốt lập tức cầm lấy giáo mác làm nhiệm vụ, tiếng la hét đau đớn vang lên.
Quốc sư nghe lọt tai không ít dâm ngôn uế ngữ, tuy biết Mạc Tử Liên cố tình chọc tức mình nhưng vẫn bị nộ khí công tâm, giận muốn điên lên, siết chặt quyền trượng tăng tốc độ bước chân.
Từ khi đầu gối y bị vỡ thì cũng giống như tay của Mạc Tử Liên, không bao giờ có thể bình phục lại, đi đứng khá khó khăn, lúc nào cũng phải cầm quyền trượng theo. Mỗi khi trời lạnh, đầu gối sẽ rất đau nhức.
Khi Quốc sư vừa đặt chân lên bậc thang đầu tiên dẫn lên trên thì đột ngột - từ sâu trong nhà tù vang lên một tiếng thét gào cực kỳ dữ tợn. Tiếng thét ấy như phát ra từ một loài dã thú đau đớn cùng cực, tựa hồ bị xé tim xé phổi, rách toạc cổ họng. Nó kéo dài hơn mười cái chớp mắt thì run rẩy dừng lại, tắt ngóm đi.
Nhà tù lập tức chìm vào yên ắng gần như tuyệt đối. Không ai dám phát ra âm thanh.
Một cơn ớn lạnh chớp nhoáng đi qua sống lưng Mạc Tử Liên, y sợ đến run người, sửng sốt, mở to mắt nhìn tấm lưng người phía trước: “Thủy Nguyện... ngươi đang làm gì vậy?”
Quốc sư không trả lời, ánh mắt giận dữ nhờ tiếng thét vừa rồi mà bình tĩnh lại, nghe y gọi mình bằng tên thì tự nhiên vui vẻ.
Mạc Tử Liên khó tin hỏi: “Ngươi giam giữ ai dưới đó?”
“Chuyện của ta can dự gì đến cốc chủ?” Quốc sư vén vạt áo, chống quyền trượng tiếp tục bước lên bậc thang.
Âm thanh lộp cộp văng vẳng vọng trong ngục tù.
Mạc Tử Liên đè nén bất an trong lòng, cũng nhanh chóng đi theo. Được ánh nắng chói chang sưởi ấm, sự lạnh lẽo nơi chân tay y mới dần lui bớt. Y lấy lại phong thái, mỉm cười hỏi: “Ta đã đi dạo cùng với Quốc sư rồi, ngài muốn ta làm gì nữa đây?”
Quốc sư chậm rãi quay lại, lạnh nhạt đáp: “Một nụ hôn.”
Thấy đáy mắt người ấy tối sầm xuống, y cong khóe môi cực kỳ nhẹ: “Trên mu bàn tay. Đừng lo lắng.
“Sao vậy? Cốc chủ không cần Giao Nhân Lệ nữa?”
Trong một thoáng, rất nhiều suy tư lướt qua đầu Mạc Tử Liên, rằng: mình đang làm gì thế này? Mình ghét chuyện này... Mệt quá. Càng ở gần Quốc sư bao lâu càng khó chịu. Giao Nhân Lệ chưa chắc chữa được mắt của ca ca, việc này đáng không? Ca ca không thích mình làm như vậy đâu. Quốc sư khó chọc... Mình muốn ca ca nhìn thấy mình, mình muốn lại nhìn vào đôi mắt ca ca.
Đắn đo chớp nhoáng như thế, y đưa tay ra mời, cứ tưởng đối phương muốn y hôn tay. Nhưng Quốc sư lại nắm lấy tay y, lật lại, mặc kệ địa vị chí cao, cúi đầu hôn tay y.
Cúi đầu trước một dòng máu lai tạp.
Không biết y có hoảng hốt mà lầm lẫn không nhưng môi của Quốc sư rất lạnh. Lạnh đến mức linh hồn y cũng phát run.
Thánh tử dưới gối đầu Quốc sư vừa tròn mười lăm tuổi, là độ tuổi thành niên của người Điệp Cách. Nhưng vì thơ ấu thánh tử không được bồi bổ đầy đủ nên chậm lớn hơn so với bạn bè đồng trang.
Thiếu niên tóc vàng mắt xanh đang yên tĩnh cúi đầu đọc sách.
Thánh tử điện hạ luôn rất im lặng, không phải nhu nhược hay nhút nhát mà chỉ đơn giản là ưa im lặng, lười mở miệng.
Quốc sư nói đó là tính tốt mà cũng xấu, im lặng để nghĩ nhiều hơn, luyện tính thận trọng, nhưng không mở miệng thì dễ gây nên hiểu nhầm không đáng.
Ô Khê hiểu lời Quốc sư và muốn sửa đổi nhưng không được vì bên cậu không có ai thích hợp để tập cách trò chuyện. Tất cả cung nhân đều dè dặt, khép nép, không bao giờ dám thưa thiếu hay thừa nửa tiếng với cậu.
Địa thành nói cậu là hòn ngọc quý kê dưới gáy Quốc sư, trong mơ Quốc sư cũng cẩn thận nâng niu. Ô Khê không đồng ý, vì nhận thấy Quốc sư đâu thực sự quan tâm mình đến vậy.
Quốc sư dốc tâm dạy dỗ cậu bởi vì kỳ vọng rất nhiều vào cậu để phục hưng Địa thành trong tương lai.
Thi thoảng Ô Khê nghĩ trong lòng rằng: ai làm vương hoàng chẳng được, miễn Địa thành vẫn tồn tại trong bình yên, hà cớ nhất định phải là mình?
“Thánh tử đọc bài tới đâu rồi?” Quốc sư chống quyền trượng bước vào phòng sách, tiến đến đặt tay lên ngực hành lễ, hiếm thấy đôi mắt ẩn chứa niềm vui: “Ồ, mất một buổi trưa mà đọc đến đây rồi. Tốt, điện hạ đọc tới đâu, thần sẽ giảng tới đó.”
Ô Khê ngẩn tò te rồi hơi bặm môi, tự giận dỗi bản thân: biết vậy thì đọc thật chậm. Cậu đáp: “... Vâng.”
Dường như nhờ tâm trạng tốt nên Quốc sư giảng bài rất hăng say, ngữ điệu cuốn hút hơn ngày thường, khiến thánh tử ham chơi không thể lơ đễnh, tròn mắt lắng nghe chăm chú.
Kết thúc buổi học, tâm trí Ô Khê vẫn còn quanh quẩn nơi bài giảng, bất giác nói: “Trước khi Quốc sư tiến vào, ta thấy ngài hôn tay một người... Y và ta, ai quan trọng hơn?”
Quốc sư đặt tay lên ngực: “Thánh tử quan trọng hơn.”
“Ta và Địa thành, bên nào quan trọng hơn?”
“Địa thành quan trọng hơn.”
Thánh tử chợt nhắm mắt trước ngữ khí quả quyết ấy, chậm rãi nói: “Quốc sư, nhớ lấy những lời của ngài hôm nay.”
“Vi thần... xin thề.”