Họa Quốc

Chương 14: Chương 14: Hồi Thứ Mười Bốn: Quyết Biệt




Bởi vì ta là con gái của Khương Gia…

Một khi hai nhà nảy sinh xung đột, ta sợ ta sẽ hy sinh công tứ chọn nhà mẹ đẻ…

Một lời thành sấm truyền.

Rất lâu rất lâu rồi… trong một khoảng thời gian rất dài, Khương Trầm Ngư cảm thấy nàng đắm chìm trong một mộng cảnh hư ảo nào đó do chính nàng dệt nên. Trong giấc mộng này, nàng mang theo khát vọng nhỏ nhoi, ngóng trông một tia hy vọng cuối cùng.

Hy vọng có thể trở thành bằng hữu của Cơ Anh. Cho đù không phải là tình nhân, cho đù không liên quan đến ái tình, nhưng là chiến hữu, là đối tác, là người rất thân thiết.

Vì thế nàng tranh đấu, nàng cầu xin, nàng không chấp nhận số phận.

Nàng – Khương Trầm Ngư xưa nay chưa từng cam tâm. Xin làm mưu sĩ cũng được, mà đi sứ Trình quốc cũng xong, dưới cái vẻ ngoài tưởng như nguy hiểm mà muôn phần đặc sắc đó chẳng qua chỉ là sự chống đối vận mệnh của nàng mà thôi.

Nhưng nay, hai câu nói của Đỗ Quyên đã tuyên bố sự chống đối này của nàng biến thành một câu chuyện cười thực thụ.

Phụ thân…

Phụ thân…

Rốt cuộc cha đang nghĩ gì?

Hoặc nói cách khác, cha đang mưu toan gì? Kế hoạch của cha phải chăng đã bắt đầu từ nhiều năm trước? Bây giờ chính là thời điểm cha ra tay sao?

Ngấm ngầm giúp đỡ Di Phi trốn khỏi Trình quốc là bước quan trọng nhất trong kế hoạch ám sát Cơ Anh của cha sao?

Phụ thân… muốn… giết… Cơ Anh… Sáu chữ này đau thấu tâm can.

Khương Trầm Ngư nhìn Đỗ Quyên cách mình chỉ một bước, nghĩ đến thân phận thực sự của nữ tử này, nghĩ đến tất cả cảnh ngộ mà nàng ta đã gặp phải, lại nghĩ đến Họa Nguyệt trong cung, lại nghĩ đến bản thân phút này, nước mắt từ từ ngưng lại, thay vào đó là một tràng cười lớn vang lên.

Cười đau khổ. Cười nhạt. Cười lạnh. Cười tự trào. Cười như điên dại.

Nàng nhắm mắt lại, cười điên cuồng. Tiếng thét chói tai xé toang lồng ngực, tuôn trào bùng nổ.

Khương Trầm Ngư chưa bao giờ biết rằng hóa ra mình còn có thể gào lớn đến thế, nhưng cho dù dùng lực như thế nào, dường như vẫn không đủ, không đủ, vĩnh viễn không đủ!

Đỗ Quyên bị giật mình vì tiếng thét của nàng, nàng ta co rúm người lại, cuối cùng chau mày: “Trầm Ngư”.

Trầm Ngư không hề e ngại vẫn một mực hét, như thể phải xả hết thảy nỗi ấm ức trong đời, như thể loạn trí.

Đỗ Quyên bình tĩnh trở lại, lạnh nhạt nói: “Gào đi. Ngươi cứ thả sức mà gào đi. Năm đó ta cũng muốn kêu gào, nhưng cho dù là cơ hội kêu gào ấm ức ông trời cũng chẳng ban cho ta. Chỉ một điềm này thôi, ngươi cũng may mắn hơn ta rất nhiều Khương Trầm Ngư, dù cho ngươi có thừa nhận hay không, ngươi vẫn là đứa con may mắn nhất của Khương gia. Ngươi có biết tại sao Khương Họa Nguyệt không thể hoài thai không?”.

Nghe nàng ta đột ngột nhắc đến Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư run rẩy một lúc tiếng thét đau đớn trong nháy mắt đã nhỏ đi chỉ còn tiếng nghẹn ngào thốn thức của loài động vật bị thương còn sót lại trong cổ họng. Bởi vì Khương gia chỉ cần một hoàng hậu, mà Khương Trọng… chọn ngươi”.

Khương Trầm Ngư liền ngẩng đầu lên, khàn giọng hỏi: “Tỉ nói gì?”.

Nụ cười trên môi Đỗ Quyên trở nên có phần ác ý: “Ta nói còn chưa đủ rõ ràng sao? Trầm Ngư, ngay từ khi bắt đầu, Khương gia đã chọn ngươi – đứa con xuất sắc nhất, được yêu thích nhất của bọn họ, tiếp nối dòng máu của hoàng tộc, trở thành cánh tay đắc lực nhất, mạnh mẽ nhất của họ, thao túng Bích quốc. Cho nên, ngươi đã được chọn lựa để vào cung, Họa Nguyệt chỉ là một viên đá lót đường mà thôi”.

Cả người Khương Trầm Ngư run lên dữ dội. Chân tướng sự việc ào ào lộ diện, thậm chí còn chẳng cho nàng mảy may cơ hội nghỉ lấy hơi. Vốn cứ tưởng rằng là trời long đất lở, mà chưa từng nghĩ rằng còn có thể đau đớn hơn, thương tâm hơn, tuyệt vọng hơn nữa.

“Tình cảm của ngươi và Khương Họa Nguyệt rất thắm thiết phải không?

Ngươi được ban cho quyền tự do vào cung thăm nàng ta phải không? Mỗi lần ngươi vào cung thăm tỉ tỉ, người nhà có phải đều rất ủng hộ không? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao dân gian lại lưu truyền câu nói, con gái út của Khương gia đẹp như tiên nữ, nghiêng nước nghiêng thành’ sao? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao canh thiếp của Kỳ Úc hầu lại vô duyên vô cớ bốc cháy sao? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao hoàng thượng lại đột nhiên muốn ngươi vào cung sao? Hơn nữa còn để cho ngươi vừa vào cung đã đứng đầu quần phi?”.

Khương Trầm Ngư cuơng quýt hỏi: “Ý tỉ là tất cả đều vì… phụ thân?”.

Đỗ Quyên nhướn nhướn mày, vẻ mặt lại càng lộ vẻ giễu cợt: “Ngươi biết theo truyền thống một hoàng hậu cần có những điều kiện gì không? Phải xuất thân danh giá, nghi dung đoan trang, khí độ cao vời, tự nhiên hào phóng. Cho nên, ngươi được nuôi dạy khôn lớn theo tất cả những phẩm chất mà một hoàng hậu cần có, ngươi thử nghĩ mà xem, từ nhỏ đến lớn mọi . Người đều yêu cầu với ngươi nghiêm khắc nhất phải không? Phu tử dạy dỗ ngươi dụng tâm nhất phải không?”.

Nàng ta vừa nhắc tới, Khương Trầm Ngư liền nhớ ra, thuở nhỏ quả thực là như vậy. Bình thường, ca ca luôn quên làm bài tập, phu tử cũng không trách phạt, tỉ tỉ không làm tốt, phu tử cũng không soi mói. Chỉ có nàng, nếu có sơ suất, là sẽ bị dạy dỗ một cách rất tỉ mỉ kiên nhẫn, bị chỉnh đốn rất nghiêm khắc. Khi đó, chỉ nghĩ là phu tử cố ý bắt chẹt mình, chứ chưa bao giờ nghĩ rằng nội tình lại ẩn chứa chuyện sâu xa như thế?

Ngươi cũng rất giỏi, đã trưởng thành đúng theo mong muốn của Khương Trọng. Từ sau khi ngươi mười ba tuổi, thiên hạ đều biết con gái út của hữu tướng, mỹ mạo còn hơn cả tỉ tỉ tài đức song toàn, được mệnh danh là Bích quốc đệ nhất mỹ nhân”.

Lời đồn chốn phố chợ phần nhiều là thổi phồng, vì thế nàng tuy đã nghe thấy những tin đồn đó, nhưng chưa từng để tâm. Nhưng phản ứng của Hoàng Kim Bà, phản ứng của Chiêu Loan, rõ ràng đều chịu ảnh hưởng của những tin đồn đó cũng ngấm ngầm thừa nhận địa vị của nàng. Lúc này lại nghe Đỗ Quyên vạch rõ huyền cơ, cảm giác thật là… giống như một sự chế giễu trắng trợn.

“Để che giấu chờ thời, Khương gia luôn dùng thuật trung dung tức là với bất cứ việc gì cũng không tỏ ra xuất chúng, không phạm sai lầm, không lập công lao. Cho nên, khi ngươi vừa tới tuổi cập kê, để dập tắt ý muốn của những người muốn cầu thân với ngươi, Khương Trọng đã cố ý tung tin hứa gả ngươi cho Cơ Anh. Nhưng sau lưng lại âm thầm khẩn trương khai triển các khâu then chốt, lót sẵn đường, đốt canh thiếp, lại lợi dụng lòng đố kỵ của Hy Hòa phu nhân đối với ngươi, sự phòng bị của Chiêu Doãn đối với Cơ Anh, để ngươi thuận lợi vào cung, ngồi vững trên cái ngai Thục phi”.

“Lòng đố kỵ?”. Chân tướng giống như một tấm lưới lớn bị chìm dưới đầm lầy nhiều năm, khi nổi lên, loang lổ rách nát, tả tơi tàn tạ, lại vừa sắc lẹm, từng sợi từng sợi làm người ta bị thương.

Đỗ Quyên cười ha ha, vuốt ve mái tóc dài, than khẽ: “Quả nhiên, đến chuyện quan trọng nhất Khương Trọng cũng giấu ngươi, không cho ngươi biết. Ngươi nghĩ Hy Hòa phu nhân vào cung như thế nào? Ngươi nghĩ nàng ta vốn dĩ là ai?”.

“Nàng ta vốn dĩ là ai?”. Câu hỏi này vừa bật ra, Khương Trầm Ngư liền âm thầm phòng bị, nhưng khi Đỗ Quyên thong thả chậm rãi nói ra đáp án, nàng còn phải hứng chịu sự đả kích và nỗi tồn thương lớn hơn.

“Nàng ta vốn đĩ là tình nhân của Cơ Anh. Nàng ta mới là vị hôn thê thực sự của Cơ Anh !”.

Ngày đó, nam tử ấy vuốt. Ve chiếc bản chỉ, mỉm cười lắc đầu, nói không được, không thể nhường cho người khác;

Ngày đó, nam tử ấy ôm hòn giả sơn nôn ọe, toan vứt chiếc bản chỉ đó đi, nhưng cuối cùng lại không nhẫn tâm;

Bộ dạng tiều tụy của chàng, nàng từng nhìn thấy rõ ràng;

Còn nỗi lòng sâu kín của chàng, nàng lại chưa từng hiểu rõ.

Hóa ra, tất cả sự thất thố đó, tất cả sự ấm ức đó, tất cả nỗi khổ đau đó, đều vì con người ấy, mỹ nhân tuyệt sắc một thân bạch y quỳ giữa trời băng đất tuyết ấy, sủng phi của hoàng đế diễm lệ nhất cung đình, nổi bật giữa trần thế ấy, nữ tử thực sự cùng Cơ Anh thề nguyền sánh đôi mà phải chia lìa đó.

… Hy Hòa.

Khương Trầm Ngư nhớ tới Hy Hòa, nhớ tới điệu bộ mặt không cảm xúc quỳ bên ngoài cửa cung ngày hôm đó của nàng ta, nhớ đến Cơ Anh của ngày hôm đó vội vã chạy đến, đi lướt qua nàng ta, mắt không hề nhìn xuống;

Nhớ đến Hy Hòa triệu nàng vào cung đánh đàn, nàng im lặng đàn, Hy Hòa lặng lẽ nghe, sau đó, lệ sa đầm đầm;

Nàng nhớ đến Hy Hòa nôn ra máu, nhớ đến Cơ Anh cấp tốc dẫn theo Giang Vãn Y vào cung trị bệnh…

Những cảnh tượng đó nàng tận mắt chứng kiến, nhưng trong khoảnh khắc này, nàng mới thực sự hiểu rõ chân tướng sự việc.

Hóa ra…

Người công tử thích là nàng ta…

“Sao có thể?”. Khương Trầm Ngư lẩm bẩm: “Sao có thể… nếu như công tử thích Hy Hòa, sao có thể để nàng ta vào cung thành phi tử của hoàng đế?”.

“Ai mà biết được”. Đỗ Quyên tỏ vẻ không tán thành nói: ” Thứ hoàng đế muốn, kẻ làm thần tử có thể không dâng lên sao? Nhưng cặp đôi này cũng thật thú vị quá đi, thường xuyên gặp mặt, lại có thể vờ như không liên quan đến nhau, nếu không phải đám mật thám của Khương Trọng có bản lĩnh, khơi ra được, thì đâu có ai biết Hy Hòa phu nhân của triều ta hóa ra từng tằng tịu với Kỳ Úc hầu”.

“Hy Hòa… Hy Hòa…”. Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm cái tên này, trong lòng trào đâng một thứ tình cảm vô cùng phức tạp. Nói không ghen tị là giả dối, vì dù gì vị công tử mà nàng một lòng ngưỡng mộ chính vì sự tồn tại của nữ tử này mà không thể thích một nữ tử nào khác; nhưng dường như không phải là rất oán hận, bởi Hy Hòa cũng chẳng thể ở bên Cơ Anh, phần nhiều nàng thấy bi thương, một nỗi bi thương rối bời.

Bởi vì, công tử khổ biết…

Khổ biết mấy…

Con người ôn hòa như thế, phải yêu sâu sắc đến nhường nào mới có thể uống cạn chén này đến chén khác trên bàn tiệc, buổn bã thất thố? Một Kỳ úc hầu phải nhẫn nhịn đau khổ đến nhường nào mới có thể giữ được vẻ ung dung điềm tĩnh thường ngày khi gặp người cũ giữa hoàng cung?

Khương Trầm Ngư nàng còn có thể mở miệng nói một tiếng “Ta ngưỡng mộ công tử” với Cơ Anh, còn công tử, đến một tiếng gọi âu yếm cũng không dám gọi nữa.

Hy Hòa phải đố kỵ biết mấy mới có thể không muốn nhìn thấy cảnh chàng lấy người khác?

Giữa chàng và nàng ta, rốt cuộc là yêu hận đan xen đến đâu không thể nào biết rõ, nhưng có một điềm rất rõ ràng rằng: Đó là thế giới chỉ thuộc về riêng hai người Hy Hòa và công tử, Khương Trầm Ngư, nàng không thể nào chen vào.

Từ khi bắt đầu, nàng đã thua cuộc.

Tiên nhân trong mây nào đâu thấy?

Đã rõ nhân duyên chẳng đúng người.

Giọng nói của Đỗ Quyên vẫn tiếp tục vang lên: “Cho nên, Cơ Anh không lấy ngươi, Hy Hòa cũng không để hắn lấy ngươi, hoàng đế lại càng không. Hoàng đế vì không muốn Cơ gia trở thành Khương gia thứ hai, nên không thể để hai nhà Cơ – Khương liên hôn, muốn phá đám hôn sự này thì phải dùng một hơn sự long trọng hơn để áp chế nó, lại thêm các mưu sĩ thúc giục bên cạnh, ngươi, Khương Trầm Ngư, đã từng bước từng bước trở thành Thục phi của hoàng đế, theo kế hoạch của Khương Trọng, mở cánh cửa đi đến ngai vị hậu đúng như ước nguyện của ông ta”.

Khương Trầm Ngư vô thức lắc đầu, lỗ tai trên tai trái như bị một ngọn lửa vô hình đốt cháy, khiến nàng đau đến bỏng rát, nó chứng kiến nàng đã từng khắc cốt ghi tâm như thế nào. Mỗi lần sờ lên đó nàng đều không kìm được nghĩ, nhất định là vì mình không đủ tốt, còn khiếm khuyết ở điểm nào để cho nên, mới không thể khiến người ấy thích. Sau đó nàng nghĩ mình phải thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn nữa cố gắng hết sức có thể để gần chàng thêm chút nữa.

Giờ ngẫm lại, những suy tư ấy chẳng khác gì một cái bạt tai, vả vào mặt nàng một cú bỏng rát. “Ngươi biết tại sao đêm nay ta phải giữ ngươi ở đây không? Bởi vì ngươi thân đáng giá vạn lượng hoàng kim, vốn liếng của Khương Trọng đều đặt cả vào ngươi, cho nên, ngươi tuyệt đối không thể xảy ra bất cứ sơ sảy nào. Hơn nữa, giữ ngươi ở đây còn có một dụng ý, chính là để ngươi mở to mắt ra nhìn rõ tất cả mọi việc”. Đỗ Quyên nói đến đây, ngữ điệu bỗng trở nên chậm rãi, thấp giọng thì thào như nói mơ: “Giấc mộng này, ngươi đã mơ suốt mười lăm năm, cũng nên tỉnh rồi”.

Khương Trầm Ngư không đáp lại.

Thực tế, chưa đợi nàng phản ứng lại, đã có một giọng nói thay nàng lên tiếng: “Không sai, giấc mộng này đúng là nên tỉnh rồi. Nhưng, người phải tỉnh không phải là nàng ấy, mà là ngươi”.

“Hoàng thượng thánh minh!”.

Cùng với câu cung giá đồng thanh của tám vị mưu sĩ, Chiêu Doãn thả bước từ từ đi ra khỏi Bách Ngôn đường. Vừa đến cửa thư phòng, một trận gió ùa tới thổi chiếc trường bào và mái tóc dài của y tung bay về phía sau, y đưa tay lên giữ lại, qua kẽ tay mặt trăng cong như móc câu, không sáng cho lắm, trên bầu trời chẳng có một vì sao.

Y ngẩng đầu, cứ nhìn chăm chăm như thế, ánh sáng lấp loáng, còn y đứng trong bóng tối, một vùng hư ảo.

Phía sau, La Hoành khom lưng, nói: “Hoàng thượng, chúng ta…”.

Chiêu Doãn thả bàn tay đang giữ mái tóc xuống, ánh mắt bỗng dưng lạnh căm, khóe môi từ từ nhếch lên, kéo một đường cong mỏng mảnh thành một nụ cười cực kỳ lạnh lẽo nói: nói ngươi đã dám hại chết thần tử trẫm yêu quý nhất, thì phải có ý thức trả giá. Bạch Trạch lìa đời thể nào cũng cần có chút đồ bồi táng chứ?”.

“Vâng”. La Hoành chợt hiểu ra, lại cúi người lùi lại mà không phát ra tiếng động nào.

Đêm đó, Hàn lâm bát trí (tám vị quân sư) chết đột ngột tại nhà Hung thủ không rõ danh tính. Trở thành vụ án còn bỏ ngỏ của đế đô.

Ở một nơi rõ ràng chỉ có hai người, nhưng lại xuất hiện tiếng nói của người thứ ba, khiến Đỗ Quyên trong chốc lát kinh sợ hoảng hốt, vừa định nhảy lên thì cánh tay đau nhói, tiếp theo là mấy huyệt đạo bị điểm trúng, không thể nhúc nhích được nữa.

“Ai? Là ai?”. Đỗ Quyên vội hét lên: “Dì Mai! Dì Mai.”. Hét được hai câu, giọng nói đó đã lười biếng cất lên: “Đừng gọi nữa, dì Mai công phu mèo cào của ngươi bây giờ không chừng đã ngủ trong xó xỉnh nào rồi, ngủ rất say, có lẽ không thể đến cứu chủ được nữa “.

“Ngươi… ngươi…”. Sau giây phút thất thố ngắn ngủi, Đỗ Quyên mau chóng lấy lại bình tĩnh, chau mày đoán, hỏi: ” Ngươi là Tiết Thái?”.

Phía sau lưng nàng ta, một thiếu niên chậm rãi bước ra, ánh đèn dịu dàng chiếu lên thân hình mảnh khảnh của hắn, đôi mắt bờ mi đen láy, không phải ai khác, chính là – Tiết Thái.

Tiết Thái cười cười: Không hổ là chị ruột của Khương Thục phi”.

Đỗ Quyên “hừ” một tiếng: “Giờ này có thể âm thầm lẻn vào chỗ ở của ta, hơn nữa giọng nói còn non nớt như thế, ngữ khí lại ngạo mạn như thế, thì chỉ có thể là kẻ bị đày xuống làm nô lệ nhưng không hề giác ngộ – Băng Ly công tử”.

Đối diện với sự châm chích này, Tiết Thái chỉ lạnh nhạt nói một câu: “Nói hay lắm”.

“Với võ công của ngươi thì không thể đến được đây mà không làm kinh động đến ba tầng ám vệ bên ngoài. Nói đi, người đến cùng với ngươi, điểm huyệt đạo của ta là ai?”. Đỗ Quyên nói đến đây, đầu lông mày nhíu chặt: “Trừ phi là Phan đại tướng quân cũng đến?”.

Một thân hình cao lớn xuất hiện trong phòng mà không có lấy một dấu hiệu báo trước tia sét, tựa gió lốc. Người đó bước nhanh đến trước mặt Khương Trầm Ngư, giải huyệt đạo cho nàng, Khương Trầm Ngư mắt nhòe nhoẹt nước ngẩng lên nhìn y, trăm ngàn cảm xúc rối ren, vừa tủi thân vừa chua xót, không kìm được khẽ gọi một tiếng: “Phan tướng quân…”.

Người đó chính là Phan Phương.

Đỗ Quyên có được đáp án im lặng một hồi, hai hàng lông mày cong cong như lá liễu nhướn lên, hướng về Khương Trầm Ngư nói: “Từ lâu đã nghe muội muội thông tuệ, hóa ra trình độ diễn kịch cũng vào hàng thượng thừa. Cố ý hét toáng lên, để át tiếng động khi bọn họ lại gần, khiến ta không hay không biết, lại còn một lòng nghĩ ngươi đáng thương… Chậc chậc chậc, đúng là trăm nghe không bằng một thấy. Khương Trầm Ngư… ngươi quả nhiên… rất lợi hại… “.

Khương Trầm Ngư vịn vào tay Phan Phương, sắc mặt trắng bệch, không thừa nhận mà cũng chẳng phủ nhận.

Đỗ Quyên lại nói: “Được rồi, dù sao ta cũng không mong mọi chuyện có thể thuận lợi. Có thử thách mới có lạc thú… Hai vị đại nhân không đi cứu vị chủ từ siêu phàm của các ngươi, lại đến chỗ của ta, thiết nghĩ tuyệt đối không phải vì muộn nghe chuyện nhà của tỉ muội ta. Vậy thì để ta đoán nhé…”.

Tiết Thái ngắt lời nàng ta: “Không cần đoán, chúng ta đến đây là để bắt ngươi!”.

Gương mặt Đỗ Quyên như bị kim đâm, nụ cười ngay lập tức tắt ngấm.

Còn Tiết Thái lại cười: “Ngươi muốn khoe mẽ sự thông minh của ngươi, cho nên chuyện gì cũng phải suy đoán một lượt, để người khác phải kinh ngạc, phải đau khổ, ngươi mới thấy vui. Ban nãy ngươi vừa giày vò Thục phi nương nương giày vò đã chưa? Đáng tiếc thay, ta sẽ không cho ngươi cơ hội này”.

Đỗ Quyên chẳng nói chẳng rằng, sắc mặt cực kỳ khó coi.

Bắt giặc phải bắt tướng trước. Bây giờ, phiền thành chủ phu nhân đi cùng chúng ta một chuyến”.

“Đi đâu?” Đỗ Quyên cười hiểm độc: “Đông viện à? Ta khuyên các vị đừng tốn công phí sức nữa. Loại Thiên Hỏa Thần Du mà ta cố ý sai người mua về từ Trình quốc đó, chỉ cần đốt lên các loại nước bình thường đều không thể dập tắt nổi, nó có thể đun sôi một bể nước chỉ trong thời gian một khắc. Ngọn lửa ở Đông viện cháy lâu như thế, e rằng Kỳ Úc hầu của các ngươi đã sớm hóa thành tro rồi”.

Tiết Thái thong thả nói: “Ai bảo bọn ta muốn đưa ngươi đến Đông viện?”. Đỗ Quyên sững người ra một lát.

“Đề ra: Giáp muốn giết Ất, sau đó giá họa cho Bính. Nhưng đột nhiên Bính mất tích, hay nói cách khác, Bính chưa từng xuất hiện… thì phải làm sao?”.

Đỗ Quyên bỗng nhiên biến: “Ngươi…”.

“Nếu hoàng thượng Di Phi không hề vào đất của Bích quốc, mà lại xuất hiện trong yến tiệc của Yên vương ở ngàn dặm xa xôi, xin hỏi làm thế nào thành chủ phu nhân và phu quân của phu nhân gánh được tội danh không bảo vệ được Kỳ Úc hầu, để ngài chết trong phủ đệ của các ngươi?”.

Mặt Đỗ Quyên từ trắng chuyển sang đỏ, lại từ đỏ biến thành xanh, cắn môi nói: “Lẽ nào các ngươi… Không thể! Tuyệt đối không thể”.

“Cái gì không thể? Là Di Phi không thể trốn khỏi cạm bẫy phu nhân giăng ra, hay là hắn không thể có mặt ở Yên quốc xa xôi?”. Ngữ điệu của Tiết Thái bỗng nhiên chậm lại: “Hay là việc ám sát Cơ Anh chẳng qua chỉ là một màn kịch hay mà phu nhân và tôn phu diễn cùng với nhau?”.

Đùng đùng, tiếng sấm bên ngoài cửa sổ vang lên ầm ầm.

Trong nhà im lặng như tờ.

Chỉ có Khương Trầm Ngư kinh ngạc nhìn Tiết Thái, rồi suy tư lại rối bời quay sang nhìn Đỗ Quyên, nhất thời không đoán ra nổi sự thật bên trong. Trong lúc nàng còn đang mờ mịt, Đỗ Quyên bật cười, đầu lông mày đang chau cũng giãn ra, khóe môi cong lên, vẻ mặt vốn dĩ thâm trầm trong chốc lát cũng trở nên hiền hòa khôn xiết, giống như vừa khôi phục lại khoảnh khắc lần đầu Khương Trầm Ngư gặp nàng ta – tĩnh lặng tao nhã như nước, linh hoạt thanh tú như ánh sáng.

Quả nhiên không gì có thể lừa được Băng Ly công tử…”.

Nàng ta vỗ tay.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Chuyện là thế nào?”.

Tiết Thái quay đầu nhìn nàng, trong ánh mắt mang theo một chút thương cảm, cuối cùng quay mặt đi nói: “Ta mệt rồi, không muốn nói”.

“Vẫn nên để ta nói cho nàng”. Phan Phương vẫn đứng bên cạnh nàng, y cất giọng: “Sau khi chúng ta đến dịch sở, cũng là lúc nàng cùng Đông Bích hầu đến chỗ này, Vệ thành chủ thẳng thắn giải thích tất cả mọi duyên cớ với hầu gia, sau khi suy nghĩ hầu gia quyết định án binh bất động. Vệ phu nhân là Gia Cát trong đám nữ nhân, một mặt vừa lập kế hỏa thiêu để đối phó Khương Trọng, một mặt sai người lén đào một đường hầm bí mật phía dưới nhà ở Đông viện, lại nhân lúc Vệ thành chủ dập lửa, để cho y xông vào biển lửa đưa hầu gia thoát ra ngoài theo đường hầm”.

Khương Trầm Ngư ngạc nhiên: “Cũng có nghĩa là…”.

Đỗ Quyên tiếp lời: “Ta đợi đã năm năm, cuối cùng đã đợi được cơ hội báo thù cho cha mẹ!”.

Rèm mi của Khương Trầm Ngư run rầy mãi không thôi, nàng nghĩ đến chân tướng.

Đỗ Quyên lạnh lùng cười nói: “Khương Trọng cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để lật đổ Cơ gia, nhưng bản thân ông ta không thể đích thân ra mặt, cho nên mới giao trọng trách này cho người ông ta tín nhiệm nhất, cũng là người có dòng máu thân thiết nhất với mình, con gái lớn của ông ta – chính là ta: Còn ta, điều binh khiển tướng dưới sự chỉ đạo của ông ta, đặt mai phục, mua dầu thiên hỏa, tìm một kẻ thế thân, ngồi đợi ngư ông đắc lợi. Ông ta tưởng rằng như thế là tuyệt đối kín kẽ, ha ha”.

Phan Phương nói: “Phu nhân thấu hiểu đại nghĩa, sau khi thương lượng với thành chủ, quyết định trở giáo giúp đỡ hầu gia. Cho nên đã diễn vở kịch lửa chảy đêm mưa, bây giờ có lẽ hầu gia cũng đã đến được nơi an toàn rồi”.

Đỗ Quyên bĩu môi: “Thấu hiểu đại nghĩa cái gì, ta chính là vì báo thù! Ta muốn Khương Trọng toi đời, đó mới là mục đích!”.

Khương Trầm Ngư nghe xong câu này, trong lòng trỗi dậy trăm ngàn cảm xúc. Không, nàng nghĩ, mình không buồn, nghe xong những điều này mình không hề buồn một chút nào, bởi vì mình đã tê liệt rồi, thực sự tê liệt hoàn toàn rồi…

Phan Phương nói tiếp: “Mà việc cơ mật này, vì thận trọng thành chủ chỉ nói cho ta, đến Tiết Thái cũng bị giấu giếm”.

Tiết Thái cao ngạo nói: “Hừ, không nói thì không nói. Tưởng ta thèm chắc? Cơ Anh vốn định dẫn ta cùng chạy trốn trong biển lửa, chẳng ngờ lại bị ta phát hiện ra huyền cơ trong mùi hương hoa, cho nên ngài lập tức thay đổi kế hoạch, mượn cớ đưa thư để tách ta ra, còn giả vờ giả vịt viết một trang giấy trắng để ta đưa cho Vệ Ngọc Hành”.

Thật hiếm khi Phan Phương mới đề lộ vẻ tươi cười: “Hầu gia nghĩ cho sự an toàn của ngươi”.

“Ngài đang thử ta mà thôi”. Tiết Thái hứ một tiếng: Tưởng một tờ giấy trắng là làm ta bó tay hết cách à? Ngài sai ta đi tìm Vệ Ngọc Hành, ta lại không tìm, mà hơn nữa lúc ấy Vệ Ngọc Hành cũng xông vào trong đám cháy rồi. Ta liền đi tìm Phan tướng quân, bụng nghĩ nếu Vệ Ngọc Hành có đi đời nhà ma, thì phải bắt mụ vợ của hắn đã rồi hẵng nói, chẳng ngờ lại biết được chân tướng sự việc ở chỗ Phan tướng quân”.

“Bây giờ, mật thám của Khương Trọng hẳn đã nhận được tin tức giả là kế hoạch thực hiện thuận lợi, chắc chắn sẽ lơi lỏng. Nhân cơ hội này ta đưa công tử bí mật về kinh gặp thánh thượng, vạch rõ từng tội trạng của ông ta, Khương Trọng sẽ không thể trốn thoát”. Có lẽ là vì sợ làm Khương Trầm Ngư kích động, khi nói những câu này, Phan Phương không nhìn vào mặt nàng: “Câu kết nước địch, ám sát trọng thần, hai tội danh này gộp thành tội chết”.

Đỗ Quyên nói: “Sở dĩ ta giữ ngươi ở đây, ngoài việc sợ ngươi nhất thời xúc động nghĩ cách cứu Cơ Anh rồi làm hỏng kế hoạch của chúng ta, thì nguyên nhân lớn nhất chính là để Khương Trọng an tâm, quân cờ quan trọng của ông ta phải được bình an vô sự”.

Khương Trầm Ngư lạnh nhạt đáp: “E là để phòng bất trắc giữ cho mình đường lùi mà thôi?”. Nàng nằm trong tay Đỗ Quyên, cho dù phụ thân biết được kế hoạch của bọn họ, thì cũng ném chuột sợ vỡ bình quý, nên sẽ dè chừng.

Quả nhiên, Đỗ Quyên nghe thế liền bật cười: “Ngươi muốn nghĩ như thế, thì tùy ngươi”.

“Vậy…” Khương Trầm Ngư bỗng nhiên cũng cười cười trong nụ cười hàm chứa một nỗi xót xa khó tả thành lời: “Các ngươi định xử trí ta thế nào đây?”.

Bọn Đỗ Quyên nghe xong đều đứng đờ cả người.

“Tỉ tỉ, chẳng nhẽ tỉ không biết, nếu phụ thân sa cơ thì cả Khương gia chúng ta còn có thể sống sao?”.

“Ta chỉ đối phó một mình Khương Trọng, ta đã cầu xin Kỳ Úc hầu một lời đảm bảo, cái chết của Khương Trọng sẽ không làm liên lụy đến người khác”. Đỗ Quyên nói một cách từ tốn: “Dẫu cho ngươi không tin ta, cũng nên tin… công tử của ngươi chứ?”.

Khương Trầm Ngư cười buồn bã: Công tử… của nàng.

Ha ha.

Giấc mộng lớn này, bây giờ cũng không thể không tỉnh rồi…

Công tử chưa bao giờ thuộc về nàng, không những không thuộc về nàng, mà còn là kẻ thù định mệnh của nàng. Cho đù là vì nguyên nhân gì, hình thức gì và kết cục gì.

Nghĩ đến ban đầu chỉ mong được sánh vai cùng chàng, mà nay mộng tan, hóa ra đến làm người xa lạ cũng không thể.

Tạm biệt.

Công tử, tạm biệt.

Khoảnh khắc này, ta, Khương Trầm Ngư, quyết biệt với chàng.

Rút cục cả đời này, không còn mặt mũi nào mà gặp, lo lắng thấp thỏm, không nỡ gặp…

Mãi mãi không gặp lại chàng.

Ngoài cửa sổ mưa vẫn rơi rào rào, mang đến cho người ta ảo giác rằng đêm nay sẽ kéo dài vô cùng vô tận, ánh sáng sẽ không đến, mưa gió sẽ không ngừng, mà hết thảy những chuyện vui sướng, những điều tốt đẹp, những thứ ấm áp, sẽ kết thúc từ đây.

Chính là: Đoạn trường chính hẳn đêm nay.

Tương tư một tấc tro tày mười phân.

Tiếp theo Tiết Thái và Đỗ Quyên còn nói gì đó nữa nhưng Khương Trầm Ngư chẳng nghe lọt vào tai một chữ nào. Nước mắt đã chảy cạn cùng câu chuyện thân thế mà Đỗ Quyên kể ban nãy, còn giờ phút này, cho dù đau 1òng hơn, nhưng nàng lại không rơi một giọt lệ nào.

Chỉ có tê dại, một sự tê dại sâu hun hút, giống như tơ bọc lấy cơ thể và trái tim của nàng, nàng nghĩ, như thế cũng tốt, bởi vì bọc kín rồi sẽ không còn bị thương, dẫu cho bên trong có thối nát đến đâu, máu chảy thành mủ đến thế nào đi nữa.

Lúc này, một tiếng bước chân gấp gáp từ xa đến gần, ngay sau đó cửa bị đập mạnh: “Phu nhân, không xong rồi! Phu nhân!”.

Đỗ Quyên cất cao giọng hỏi: “Chuyện gì?”.

Người ngoài cửa đáp: “Phu nhân, lửa đã tàn rồi. Nhưng, nhưng không những Kỳ Úc hầu, mà đến thành chủ cũng không thấy đâu nữa”.

Đỗ Quyên cả kinh: “Cái gì”.

Phan Phương lập tức giải huyệt đạo cho nàng ta, rồi dìu nàng ta đi ra mở cửa, bên ngơài là một người hầu trong Vệ phủ.

Đỗ Quyên hít sâu một hơi, trầm giọng nói: “Hít thở sâu, nói cho ta nghe”.

“Vâng, vâng”. Người đó quỳ xuống, run rẩy nói: “Là như thế này, ở bên này chúng thuộc hạ thấy ngọn lửa bốc cao không làm sao dập tắt được, cuối cùng một trù nương nghĩ ra cách dùng bột mì ướt ném vào, cuối cùng cũng dập được lửa. Nhưng tìm trong đó suốt một lúc lâu mà không thấy Kỳ Úc hầu và thành chủ đâu…”.

Đỗ Quyên trầm ngâm một lúc, nói: “Ta biết rồi. Ngươi cứ về trước đi; ta sẽ tới ngay”.

“Vâng!”. Người đó báo tin xong liền vội vã rời đi.

Phan Phương hỏi: “Chuyện là thế nào?”.

“Thời gian dập lửa sớm hơn so với dự tính, có lẽ là Vệ Ngọc Hành chưa kịp đưa hầu gia quay về”. Đỗ Quyên nhíu mày, nói: “Thận trọng trăm điều vẫn có sai sót, cứ tưởng trận hỏa hoạn này sẽ kéo dài tới tận giờ Mão mới ngừng”.

Tiết Thái bỗng phì cười một tiếng.

“Người cười gì?”.

“Không có gì, ta chợt nghĩ, trù nương của quý phủ thật là lợi hại. Nhưng thật khổ cho thành chủ đại nhân, nếu hắn tiễn công tử xong rồi quay về, không biết chừng lửa ở bên ngoài đã tắt, mở cánh cửa ngầm bên trong đường hầm nhảy vọt ra ngoài… chậc chậc…”. Tiết Thái còn chưa nói tiếp. Đỗ Quyên đã giậm chân nói: “Mất bò mới lo làm chuồng, bây giờ chúng ta đi sơ tán người bên đó, tuyệt đối không để người khác phát hiện ra đường hầm”.

Việc không thể chậm trễ, lập tức hành động.

Tiết Thái liếc Khương Trầm Ngư đang đứng im không nhúc nhích như một con rối gỗ, nói: Này, ngươi có đi được không?”.

Phan Phương nói: “Ta đỡ nàng”. Lời vừa mới dứt, Khương Trầm Ngư đột nhiên cử động.

Việc đầu tiên nàng làm chính là rút khăn tay lau khô nước mắt, sau đó gạt tay Phan Phương ra, lảo đảo đứng dậy, hít thật sâu, đứng thật vững, ưỡn thẳng sống lưng rồi bước qua bậu cửa.

Tuy nàng chẳng nói lấy một lời, nhưng đã dùng hành động để trả 1ời. Ánh mắt Tiết Thái nhìn nàng trong chốc lát bỗng sâu thẳm, tựa như thương xót, tựa như tìm tòi, lại như nỗi bi ai như có như không…

Đi qua hành lang gỗ dài hun hút, xuyên qua cánh cửa lớn, mùi khét cháy trong gió càng lúc càng nồng nặc. Khương Trầm Ngư nhìn thấy một khoảng đất trống đen trắng đan xen, màu đen là những cây gỗ cháy, màu trắng là bột mì, về cơ bản là cháy rụi chẳng còn thứ gì, những đoạn tường đứt gãy còn sót lại cũng đồ la liệt, cao không quá thắt lưng, vì thế chỉ nhìn qua là có thể thấy quả thực không có ai trong đó cả.

Ngược lại xung quanh có một đám đông bao vây, mồm năm miệng mười, bàn tán xôn xao, vô cùng náo nhiệt. Nhìn thấy Đỗ Quyên đến, lập tức im lặng. Điều đó cho thấy địa vị của vị phu nhân này trong phủ.

Đỗ Quyên còn chưa mở míệng, Tiết Thái đã xông vào giữa bãi đổ nát, đi một vòng, rồi trở về trước mặt Đỗ Quyên, một tay nắm chặt lấy tay áo nàng ta, giọng gấp gáp hỏi: “Sao, sao đến xương cốt cũng không có hả? Chủ nhân đâu? Chủ nhân đâu?”.

Đỗ Quyên sững người ra một lát, rồi thấy tay Tiết Thái luồn vào ống tay áo của nàng ta, viết lên lòng bàn tay nàng ta một chữ “khóc”. Nàng ta lập tức phản ứng lại ngay, làn môi run rẩy, thất thanh khóc lớn.

Nàng ta vừa khóc đám người dưới lại càng hoảng loạn, lũ lượt khuyên nhủ an ủi.

Tiết Thái lại viết thêm một chữ “ngất”.

Đỗ Quyên lập tức khó thở, ngã nhào ra phía sau. Không ngoài dự liệu, đã được Phan Phương đứng bên đỡ lấy.

“Phu nhân, phu nhân? phu nhân làm sao thế? Phu nhân…”. Mọi người nháo nhác hỗn loạn.

Tiết Thái cao giọng quát: “Các ngươi còn chờ gì nữa? Còn không mau đi mời đại phu?”.

Lập tức có một nhóm người quay lưng chạy đi, Tiết Thái dặn dò những người còn lại: “Các ngươi, xuống nấu canh gừng, mọi người ở đây đều ướt như chuột lột nửa đêm nay, đừng đề tất cả đổ bệnh ra đó. Các ngươi, đi truyền lệnh khóa cửa thành lại, trận hỏa hoạn này rất kỳ lạ, hiện tại lại vô cớ mất tích một số người, trước khi điều tra rõ chân tướng sự việc, không cho phép bất cứ người nào ra khỏi thành! Còn các ngươi nữa, đừng có đứng ngây ra đó, phải làm gì thì đi làm đi, đợi đại phu đến, thì mau chóng đi mời đại phu khám bệnh cho phu nhân…”. Hắn tuy là người ngoài tuổi còn nhỏ, nhưng lại là một nhân vật lớn được nhắc đến thường xuyên khắp đầu đường cuối ngõ ở Bích quốc. Lần này hắn đặt chân lên Hồi thành, mọi người đã được diện kiến người thực, đương nhiên cũng bàn luận về hắn từ lâu, nên tất cả đều nhận ra hắn. Vì thế lúc này hắn từ khách đổi thành chủ ra lệnh, mọi người đều cảm thấy không có gì là không thỏa đáng, lần lượt làm theo lời hắn, không lâu sau đã tản đi hết.

Tiết Thái hạ lệnh cho người còn lại cuối cùng đi khóa cửa Đông viện lại, không cho người khác vào trong, sau đó dẫn theo một đám người đưa Đỗ Quyên giả vờ ngất về Tây viện.

Còn Phan Phương lại nhân lúc đám đông hoảng loạn khiêng Đỗ Quyên về phòng, chớp mắt một cái bóng dáng đã biến mất.

Khương Trầm Ngư thu trọn tất cả sự việc trong tầm mắt, trong lòng rõ hơn bao giờ hết: Tiết Thái lợi dụng cơ hội Đỗ Quyên ngất xỉu, điều toàn bộ đám người lộn xộn đi chỗ khác, lại sai Phan Phương ở lại chỗ bí mật đợi Vệ Ngọc Hành quay về, như thế, cho dù phụ thân có nghi ngờ, muốn sai ám vệ đến điều tra thì cũng không thể làm được.

Diệu kế…

Khương Trầm Ngư dán mắt nhìn vào bóng lưng Tiết Thái, y phục và mái tóc của hắn đều ướt sng nước mưa, đính bết trên thân hình gầy guộc của hắn, rõ ràng chỉ là một đứa trẻ chưa đến tám tuổi, nhưng lại có trí tuệ như thế, thật không thể biết được, có phải là trời muốn diệt Khương gia, gặp một Cơ Anh chưa đủ, còn phải gặp thêm một Tiết Thái nữa hay không.

Phụ thân ơi, dẫu cho người tính toán chu toàn, nhưng sinh chẳng gặp thời thì vẫn là sinh chẳng gặp thời, yên có Chương Hoa, Nghi có Hách Dịch, mà Bích đã có Tiết Thái, chính là trời Bích quốc không thể là thiên hạ của người được…

Sai lầm trong phút chốc của năm đó, giữ lại hắn để kiềm chế Cơ Anh, kết quả hắn lại trở thành cánh tay mạnh nhất của Cơ Anh.

Ý trời! Ý trời! Ý trời…

Nhưng ý trời cũng có lúc không hoàn toàn giúp đỡ một phía.

Chuyện phát sinh một canh giờ sau đó đã chứng minh rất rõ điều này.

Khi sáu vị đại phu bị mời ra khỏi phòng vì không thể chuẩn đoán bệnh chứng và kê đơn cho thành chủ phu nhân, thì Tiết Thái luôn lặng lẽ trầm ngâm đứng cạnh cửa sổ đã không thể nhẫn nại thêm được nữa, quay người lại hỏi Đỗ Quyên: “Tại sao Vệ Ngọc Hành vẫn chưa quay về?”.

Đỗ Quyên cũng mặt mày ưu tư: “Không biết… Ta đã bàn với chàng, đưa hầu gia ra khỏi cửa, chàng phải lập tức quay về. Tính thời gian, nửa canh giờ trước đáng lẽ chàng đã phải trở về rồi. Lẽ nào có việc gì khiến chàng chậm trễ?”.

“Lúc này mà còn có gì khiến hắn chậm trễ, tức là kế hoạch đã thất bại”. Tiết Thái cắn môi nói: “Ngoài ngươi và Vệ Ngọc Hành ra, còn có ai biết chuyện đường hầm không? Có người tiết lộ…”.

Chưa đợi hắn nói hết, Đỗ Quyên liền lắc đầu: “Không thể nào”.

“Ngươi chắc chắn chứ?”.

“Ta chắc chắn”. Lời lẽ của Đỗ Quyên rất kiên quyết: “Có tất cả bốn người tham gia đào đường hầm, bọn họ đều không quen biết lẫn nhau, mỗi người chỉ phụ trách một đoạn trong đó bốn đoạn ghép lại mới có thể thông đến cửa ra. Hơn nữa, để bảo mật, ta đều diệt khẩu cả bốn người rồi”.

Tiết Thái nhìn nàng ta bằng ánh mắt đầy phức tạp, không rõ là khâm phục hay là cảm khái nữa, cuối cùng nói: “Ngươi nói vị trí đường hầm cho ta, ta và Phan tướng quân đi thăm dò thử xem sao”.

Đỗ Quyên do dự một lúc. Tiết Thái cười lạnh: “Sao? Ngươi không tin ta à?”.

Đỗ Quyên thở dài, nói: “Điều cốt yếu không phải là tin hay không tin? Nếu như hầu gia xảy ra bất trắc, chúng ta đều phải chết. Ngươi ghé tai vào đây”.

Tiết Thái bước lên phía trước, Đỗ Quyên thì thầm một lượt vào tai hắn, hắn gật gật đầu, rồi quay người nhảy lên, nhảy lên nhảy xuống mấy lần rồi cuối cũng biến mất bên ngoài cửa sổ.

Đỗ Quyên dỏng tai lắng nghe, cảm khái nói: “Thằng bé này trời sinh kỳ tài, tuổi còn nhỏ mà đã hiểu biếtà có võ công như thế nếu gặp thời vận, tất sẽ có thành tựu lớn”.

Khương Trầm Ngư vẫn ngồi im trên ghế bên cạnh, dường như không nghe thấy.

Đỗ Quyên thấy nàng không có phản ứng, bèn cười nói: Tiêu cực như thế, không giống ngươi”.

Khương Trầm Ngư hỏi vặn lại: “Ta nên như thế nào đây?”.

Đỗ Quyên từ tốn đáp: “Khương Trầm Ngư mà ta nghe kể, dám yêu dám hận, cầm lên được cũng bỏ xuống được, bất cứ lúc nào cũng đều tích cực, quả quyết sẽ không giậm chân tại chỗ, càng không bỏ mặc cho người khác sắp đặt”.

“Cho nên?”.

Cho nên : “nếu ta là ngươi, lúc này lại càng phải nghĩ cách tự cứu mình khi nguy cơ đại thế đã mất, làm sao để thương tổn và tổn thất giảm xuống thấp nhất.

Gương mặt luôn bình tĩnh như thể đã chết của Khương Trầm Ngư cuối cùng đã có thay đổi, nàng ngước mắt nhìn Đỗ Quyên không chớp, nói bằng một giọng như đang nói mơ: Nhưng ta không phải là ngươi. Cho nên, ta không cần tự cứu mình”.

Đỗ Quyên choáng váng.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, nụ cười nhàn nhạt thoảng qua trên gương mặt xanh xao, chiếu sáng đường nét như tranh vẽ của nàng, rõ ràng là một vẻ đẹp tuyệt đỉnh, nhưng lại xen lẫn một nỗi bi ai khó tả thành lời: “Sự tình đã đến nước này sức của một người thực sự quá nhỏ nhoi”.

Đỗ Quyên đang định nói thì Trầm Ngư lại tiếp: “Ta không cần tự cứu mình, bởi vì ta không thể rõ thiện ác, phân đúng sai, từ bỏ gia tộc, hiểu đại nghĩa đi cứu công tử đang gặp cơn nguy nan, lại càng không thể trọn đạo hiếu vẹn toàn tình thân để giúp gia tộc vào giờ phút then chốt. Cho dù xét về phương diện nào, ta cũng không có cách nào tha thứ cho bản thân, đối mặt với bản thân. Cho nên, kẻ sống thừa thãi như ta, căn bản không cần thiết phải tồn tại”.

“Ngươi…”.

Khương Trầm Ngư lại nói: “Hơn nữa, sở dĩ ta không tự cứu mình, có lẽ cũng vì ta biết trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra chuyện gì chăng”.

“Ý của ngươi là gì?”. Đầu lông mày của Đỗ Quyên nhíu lại.

“Trong sự việc lần này, ta thừa nhận phụ thân đã coi thường ngươi, đó là sai lầm của người. Thế nhưng, chẳng phải ngươi cũng coi thường người hay sao?”. Nói đến đây, khóe môi của Khương Trầm Ngư nổi lên nụ cười châm biếm: “Tuy ta ngu độn, nhưng một người có thể lừa dối những người thân sớm tối bên mình hơn mười năm trời, ta không tin, trước bất cứ kế hoạch nào, ông ta sẽ không chừa cho mình một con đường lùi”.

Sắc mặt Đỗ Quyên đột ngột biến đổi.

” Nói không chừng, tôn phậm trễ chưa quay về lại là một trong các đường lui của người…”. Âm kết thúc của chữ cuối cùng nặng nề kéo dài, một trận gió thổi ào tới khiến ánh nến trên bàn lay động, trong bóng tối, gương mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết, lạnh 1ẽo như sương.

Tiết Thái khoác chiếc áo tơi lên người theo Phan Phương tiến vào đường hầm.

Đường hầm vốn đĩ cũng không có gì đặc biệt, mặt đất rất bình thường, sàn gỗ đã bị thiêu cháy trong cơn hỏa hoạn, nhấc phiến đá còn sót lại lên, đó chính là lối vào. Nhưng sau khi vào bên trong, lại là một khoảng trời đất khác. Đúng như Đỗ Quyên đã nói, đường hầm từ Đông viện ra bên ngoài này do bốn người lần lượt đào và ghép lại mà thành, vì thế khi đi đến điểm cuối của mỗi đoạn đường, đều phát hiện con đường phía trước bị bít kín, mà huyền cơ lại nằm ở điểm nối các thông đạo với thông đạo, các điểm giao tiếp mỗi điểm mỗi khác. Có điểm ở phần đầu, có điểm ở phần glữa, lại có điểm phải nhảy lên trên, tách ngọn đèn phía trên đầu và vòm đá hình vòng cung ra, mới có thể phát hiện một lối vào khác nằm ở bên trên.

Nếu không phải đã được nói trước, e rằng lần mò tìm kiếm thì phải mất rất nhiều thời gian mới có thể tìm được lối ra.

Có thể cảm thấy rõ ràng đoạn thông đạo cuối cùng chếch xéo lên phía trên, mặt đất lầy lội, ướt lép nhép.

Phía cuối có một cánh cửa bằng đá.

Tiết Thái mở ô vuông ngầm ở bên cạnh cửa theo cách Đỗ Quyên chỉ, kéo cái móc bên trong ra gõ mấy cái, rơi nói với Phan Phương một câu “Nín thở” sau một tiếng “cạch”, cánh cửa đá từ từ mở ra, một dòng nước ồ ạt ào vào trong phút chốc.

May mà hai người đã có chuẩn bị trước, nín thở bơi lên phía trên, không lâu sau liền trồi lên khỏi mặt nước.

Hóa ra cửa ra của đường hầm lại là một chiếc giếng khơi.

Hai người men theo vách giếng trèo ra ngoài, bên ngoài là một khoảng sân nhỏ, trong sân đang phơi vô số tấm vải, nhìn có vẻ như đây là một phường nhuộm vải. Cửa nhà phía không xa không đóng kín, bị gió thổi một cái liền phát ra tiếng cọt cà cọt kẹt.

Phan Phương trầm giọng nói: “Ta vào trước”.

Tiết Thái gật gật đầu.

Phan Phương giơ ngón tay đếm đến ba, tung người một cái không một tiếng động chạy qua mở cánh cửa.

Ngọn đèn dầu bên trong cánh cửa chao đảo vì cơn gió đột ngột tạt vào, dưới bóng sáng mờ mờ tỏ tỏ, Tiết Thái đứng thẳng nhìn về phía trước, sắc mặt hơi bệch ra.

Máu.

Vết máu vương vãi khắp nơi.

Thi thể la liệt.

Nhìn cách ăn vận của những thi thế ấy, dường như là thợ làm công của phường dệt vải, mười bảy người, không một ai sống sót.

Phan Phương tiến lên kiểu vết thương của họ, kinh ngạc nói: “Những người này tuy ăn mặc như người làm công, nhưng gân cốt cứng cáp, võ công không tồi. Nhưng họ đều chết hết. Từ đó có thể thấy, kẻ giết họ có võ công cực cao”.

Tiết Thái không nói gì, đi đến. Trước một thi thể, vừa khám xét vừa nói: “Y phục tuy cũ kỹ, chí ít cũng phải giặt ba lần trở lên, nhưng đồ mặc bên trong vẫn còn mới, chất vải là vải gai Ô Long do huyện Thừa của Giang Đông sản xuất. Đồ bên trong và đồ bên ngoài không bị sờn cho lắm, có thể thấy họ mới thay quần áo chưa lâu”.

“Cũng có nghĩa là?”.

“Cũng có nghĩa là…”. Tiết Thái đứng dậy, nhìn những thi thể nằm trên mặt đất: “những người này không phải là người Vệ phu nhân sắp xếp đợi ở đây ứng cứu, mà đã bị người khác đánh tráo”.

“Ý ngươi nói họ là người của Khương Trọng phái đến đợi ở đây mai phục hầu gia?”.

“Nếu là người của Vệ phu nhân, nàng ta đã chọn phường nhuộm vải này làm cửa ra, chắc chắn không phải là chuyện trong một hai ngày, để bưng bít tai mắt thiên hạ, cho dù nàng ta có đổi người thì cũng không thể đổi toàn bộ trong một ngày, hơn nữa bên ngoài là phố chợ, nơi này ban ngày vẫn phải mở cửa làm ăn buôn bán. Nếu đột nhiên thay người làm mới, hàng xóm tất sẽ sinh nghi. Mà những người do nàng ta sắp đặt cũng không thể đồng loạt cả mười bảy người thay áo lót trong cùng một ngày. Cho nên, căn cứ vào hai điểm này ta đoán rằng, họ tuyệt đối không phải người của Vệ phu nhân”.

Phan Phương gật gù, nói: “Không sai. Có thể tắm rửa thay áo trước khi hành động, để gột bỏ tất cả manh mối có thể bị truy tìm trên người, chỉ có một loại người – sát thủ. Mà theo cách nói của triều đình Bích quốc, họ còn có tên gọi là – ám vệ”.

Tiết Thái đẩy một cánh cửa khác trong phòng bước vào bên trong, bên trong là phòng ngủ, nhìn như không có gì khác lạ nhưng mùi máu tanh nồng nặc, Tiết Thái khụt khịt mũi, lần theo mùi máu đi đến bên cạnh giường, kéo bức màn ra – quả nhiên lại có một đống thi thể chất chồng nằm trên giường, mà hết thảy đều bị lột sạch lớp áo ngoài.

Phan Phương lại kiểm tra vết thương của họ, nói: “Đây mới là những người làm thực sự. Bọn họ đều không biết võ công. Xem ra bọn họ bị những kẻ ngoài kia giết. Chúng ta có thể đưa ra một giả thiết như thế này không? Vệ thành chủ đưa Hầu gia từ mật đạo ra ngoài thì phát hiện ra những người thợ làm này đã bị bọn ám vệ đánh tráo, cho nên Vệ thành chủ mới giết những tên ám vệ này, hộ tống Hầu gia rời khỏi đây, cho nên mới quay về dịch sở muộn?”.

Tiết Thái “ồ” một tiếng: “Xem ra có vẻ là như vậy… Đỗ Quyên làm việc cẩn thận, nơi này đã là cửa ra, đương nhiên càng bình thường càng tốt. Nếu là ta, ta cũng sẽ tuyển người làm thực sự”. Nói đến đây, đầu mày của hắn chau lại, lầm bầm nói: “Kỳ lạ quá…”.

“Cái gì kỳ lạ…?”.

“Tướng quân đếm đi”. Tiết Thái chỉ vào đống thi thể.

Phan Phương đếm đi đếm lại, tổng cộng trên giường có mười tám thi thể.

“Tại sao trong này có mười tám xác chết, mà ngoài kia chỉ có mười bảy?

Nếu có tất cả mười bảy tên ám vệ đến, thì không có lý gì chúng lại cởi hết quần áo trên mười tám người thợ làm này. Nếu chúng đã cởi hết mười tám bộ quần áo thì điều đó cho thấy có mười tám tên ám vệ cần hóa trang. Vậy tên ám vệ còn thiếu đã đi đâu mất?”.

“Có lý” Phan Phương gật đầu tán đồng, y trầm mặc nói: ” Lẽ nào tên ám vệ đó đã biến mất cùng Hầu gia? Cũng có nghĩa là, chính hắn đã giết mười bảy người ngoài kia”.

“Một lúc giết chết mười bảy người, không phải là điều mà một người võ công bình thường có thể làm được… “.

“Đúng vậy, lúc đầu ta vốn nghĩ rằng mười bảy tên ám vệ là do Vệ Ngọc Hành giết chết, bởi dù gì hắn cũng là một võ trạng nguyên, cao thủ đệ nhất, nhưng giờ xem ra sự việc lại cơ hồ không giản đơn như vậy…”.

Tiết Thái đi vài bước, ánh mắt bỗng bị thứ gì đó thu hút, hắn thất thanh kêu “á” một tiếng.

“Sao thế?”.

Tiết Thái chạy đến bên cửa sổ, mép cửa có chỗ bị nứt, vì thế ở phía góc có ngoắc lại một miếng vải, hắn lấy miếng vải xuống, thở dài nói: “Là của chủ nhân”.

Đoạn Thiên La, chỉ làm tuyến, đường thêu tinh xảo độc nhất vô nhị – thiên hạ bây giờ chỉ có Cơ Anh mới có thể mặc, xứng để mặc và dám mặc chiếc áo trắng này.

Trên góc viền của miếng vải còn dính vài vết máu. Dẫu không thể xác định là máu của Cơ Anh hay máu của người khác nhưng phát hiện này đã đủ khiến người ta kinh hoảng.

Tiết Thái cầm miếng vải, rồi lại lục soát tứ phía, cuối cùng hắn đã tìm ra được một thứ khác nằm im lìm trong một góc tường tăm tối nhất. Nếu như miếng vải khiến hắn chỉ mới chau mày, thì bây giờ nhìn thấy vật này hắn đã hoàn toàn hoàn toàn kinh sợ…

Đó là chiếc bản chỉ khâu bằng da thuộc.

Chỗ mép đã bị sờn lông, màu sắc nhạt nhòa nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra vốn dĩ nó có màu đỏ.

Nếu không phải là Tiết Thái tìm kỹ, mắt lại tinh tường, thì thật khó có thể phát hiện có một vật như thế nằm trên mặt đất.

Phan Phương tò mò hỏi: “Đây cũng là đồ vật của hầu gia?”.

“Đâu chỉ có vậy” Tiết Thái lẩm nhẩm: “Ta có thể vạn lần khẳng định, chủ nhân thà vứt bỏ mọi thứ cũng không nỡ vứt bỏ chiếc bản chỉ này “.

“Nó quan trọng đến thế à?”. Phan Phương cả kinh: “Vậy…”.

“Chiếc bản chỉ xuất hiện ở đây, có nghĩa là…”. Tiết Thái quay đầu, gương mặt nhỏ bé đến lúc này mới đầu tiên để lộ sự hoảng loạn – sự hoảng loạn bình thường mà một đứa trẻ tám tuổi nên có: “Chủ nhân chết rồi. Phải làm sao?

Phan tướng quân, chúng ta… phải làm sao?”.

Cửa Tây viện khẽ khàng đẩy ra.

Một đôi giày thêu hoa màu đỏ bước vào một cách không gấp cũng không chậm, trong tay bưng một chiếc khay, trên khay có một bát canh đặc, màu sắc xanh đen, rất kỳ lạ.

Đỗ Quyên nghe thấy tiếng động liền cau mày, cất tiếng hỏi: “Là ai? Lẽ nào ta chưa hạ lệnh không được sự cho phép không được tự ý xông vào sao?”.

Người đó cười khẽ: “Là ta đây, cũng không được vào sao?”.

“Dì Mai?”. Sau cơn kinh ngạc, Đỗ Quyên lại càng nghi ngờ: “Sao dì lại tới đây?”. Không phải bà ta bị bọn Phan Phương Tiết Thái bắt giữ rồi sao?

“À dì Mai day day cổ của mình, nói: “Cú đánh đó của Phan tướng quân cũng thật hiểm, ta nằm trên đất hai canh giờ mà vẫn không đứng dậy nổi. Nếu không phải có ngươi tới cứu, lão nô có lẽ cũng chết trong phòng chứa củi rồi”.

Não của Đỗ Quyên ầm một tiếng, nhận ra có gì đó không đúng.

Dì Mai là tâm phúc của nàng ta.

Là người nàng ta đã chọn ra từ trong đám tử tù khi đến Hồi thành năm đầu tiên.

Dì Mai tên thật là Thẩm Mai, vốn là thất phu nhân của đầu lĩnh sơn trại tội ác chồng chất Nhất Phách Châu, sau khi Nhất Phách Châu bị tống vào ngục, bà ta cũng bị khép vào tội chết. Đỗ Quyên sau khi chứng thực hoàn cảnh thân phận của Thẩm Mai mới cất nhắc bà ta làm nô bộc thân thiết của mình. Mà hơn bốn năm qua, người này cũng thực sự đáng tin cậy, trong tối lẫn ngoài sáng đều giúp đỡ nàng ta không ít việc.

Nhưng Đỗ Quyên bản tính thận trọng kín đáo, tuy là tâm phúc, nhưng việc của Cơ Anh lần này cũng chưa từng nói rõ với bà ta. Khi Đông viện bị cháy, chỉ là giả vờ giả vịt sai dì Mai đi cản trở Vệ Ngọc Hành. Nghe nói bà ta bị Phan Phương đánh ngã, trong lòng còn thở phào nhẹ nhõm, không ngờ bây giờ bà ta lại xuất hiện, hơn nữa sự xuất hiện này lại còn kỳ lạ như thế. Lẽ nào, cũng có chuyện gì xảy ra với bà ta rồi sao?

Đỗ Quyên tuy lòng đầy nghi ngờ nhưng vẫn kìm chế, lạnh nhạt nói: “Đêm nay trong phủ tình hình rối như canh hẹ, ta đúng là quên mất dì. Trở về là tốt rồi. Dì mang cái gì vào thế? Là thuốc à? “.

Dì Mai cười: “Mũi của phu nhân quả nhiên vẫn thính như xưa. Không sai, lão nô nghe nói phu nhân mắc bệnh nặng, cho nên mang tới một phương thuốc lành”.

Bà ta càng lại gần, mùi thuốc càng nồng, Đỗ Quyên cụp mi, gằn giọng nói: “Dì Mai khách sáo quá. Nhưng ta cảm thấy khỏe hơn rồi, bát thuốc này không cần dùng đâu”.

“Ấy phu nhân nói gì thế? Càng là lúc sắp khỏi bệnh càng nên uống trọng dược, để bệnh bị đầy hoàn toàn ra khỏi người. Phuxem, lão nô đã mang tới rồi, tốt xấu gì phu nhân cũng uống một ít đi”. Dì Mai nói đoạn, nhẹ nhàng ấn vào lưng Đỗ Quyên đưa bát thuốc đến bên môi nàng ta.

Rốt cuộc Đỗ Quyên không thể giả vờ không có chuyện gì nữa, giãy giụa quát: “To gant Mụ dám ép ta uống thuốc?”.

Dì Mai không hề nhúc nhích, trên mặt nở một nụ cười mỉm ngọt ngào thân thiết, nói: phu nhân bị bệnh rồi, có bệnh thì phải uống thuốc. Ngoan, đừng sợ, thuốc này rất ngọt, không đắng tẹo nào đâu…”.

“Buông ra! Buông ta ra ngay… khụ… mụ! Mụ dám… khụ khụ… mụ…”. Đỗ Quyên tuy giãy giụa rất mạnh, nhưng vẫn bị đổ vào miệng không ít thuốc, sự phản kháng của nàng ta dần dần biến thành tuyệt vọng: “Tại, tại sao? Khụ… tại sao… Dì Mai đổ xong chỗ thuốc đó, buông tay ra, cười híp mắt nói: “Phu nhân không phải sợ hãi thế. Không phải là thuốc độc”.

Nhưng… nhưng ta… Trời ơi!”. Đỗ Quyên thét lên một tiếng, lăn từ trên giường xuống, cả thân hình bắt đầu không ngừng co quắp, thảm thiết kêu gào: “Là thứ gì? Đây là thứ gì?”.

“Đây chẳng qua chỉ là một chút hình phạt ban cho ngươi mà thôi”. Người nói câu này không phải là dì Mai.

Khương Trầm Ngư vẫn luôn đứng bên cạnh lạnh lùng quan sát bấy giờ quay đầu lại nhìn về phía phát ra giọng nói, thì thấy Vệ Ngọc Hành bên ngoài cửa.

Gió tối hiu hiu thổi, ánh sáng và bóng tối loang lổ, hắn đứng ở cửa ra vào, áo bay phấp phới, mơ hồ như tiên khách trên trời.

Lúc này, hắn lại xuất hiện bằng cách đó, thực sự kỳ dị đến cực điểm. Nhưng Khương Trầm Ngư giờ đã không còn kinh ngạc, hay nói cách khác, thiên hạ này đã chẳng còn điều gì có thể khiến nàng ngạc nhiên được nữa. Nàng cứ thờ ơ nhìn như thế, nhìn Vệ Ngọc Hành anh tuấn hào sảng văn nhã với nụ cười nhạt trên môi, cũng nhìn Đỗ Quyên không ngừng rên rỉ đau đớn vạn phần nằm trên mặt đất.

Đỗ Quyên đùng tay chống đất nhỏm nửa thân trên dậy, mặt ngoảnh về hướng của Vệ Ngọc Hành, nói với vẻ đầy kinh sợ: “Ngọc Hành? Chàng về rồi? Là, là, là chàng sai dì Mai ép ta uống bát thuốc đó? Tại sao? Tại sao? Xảy ra chuyện gì? Tại sao phải trừng phạt ta?”.

Vệ Ngọc Hành im lặng nhìn nàng ta một lúc, không nói một lời, chỉ rút một thứ từ trong người ra, quẳng xuống trước mặt Đỗ Quyên.

Mảnh vải màu trắng muốt lượn trong không trung, rồi lại từ từ rơi xuống, không một tiếng động.

Nhưng mũi Khương Trầm Ngư đã ngửi thấy một mùi hương quen thuộc – Phật thủ cam.

Đỗ Quyên đưa tay sờ sờ lên mảnh vải, rồi rụt lại một cách đầy kinh sợ, ngừng một lúc, lại run run giơ tay nắm chặt vật đó mở ra. Đó là một chiếc trường bào, phía sau lưng bị rách một lỗ lớn, còn điểm những vệt máu tươi.

Trong phút chốc mắt Khương Trầm Ngư ướt nhòa.

Còn Đỗ Quyên đã thét lên: “Đây là y phục của Kỳ Úc hầu! Ngài thế nào rồi?

Ngài thế nào rồi? Không phải ta bảo chàng hộ tống ngài đi khỏi đây sao? Tại sao áo của ngài lại ở đây, hơn nữa còn có mùi máu? Không! Không chỉ thế, trong máu còn có mùi của độc quỳ, đã có chuyện gì”.

“Rất đơn giản”. Vệ Ngọc Hành chậm rãi nói bằng một giọng điệu lạnh lùng tàn khốc: “Ta giết hắn rồi. Còn đây là chiến lợi phầm của ta”.

“Không thể nào!” Câu nói này đồng thời thốt ra từ miệng hai người.

Một là Đỗ Quyên. Một là Khương Trầm Ngư.

Vệ Ngọc Hành bật cười nham hiểm, càng cười càng lớn tiếng, cuối cùng ngửa cổ cười một tràng dài, nói với một giọng điệu gần như điên cuồng: “Năm năm! Năm năm… ta đợi ngày hôm nay, đã đợi suốt năm năm rồi! Ha ha ha! Cơ thị, ta đợi chúng sụp đổ, đợi đã năm năm rồi!”.

Khương Trầm Ngư rốt cuộc vẫn không kìm được lên tiếng: “Tại sao?”.

“Tại sao à?”. Vệ Ngọc Hành quay đầu qua, nhìn nâng với vẻ mặt rất kỳ quái: “Đương nhiên là vì…”.

Một canh giờ trước…

Ngọn lửa lớn hừng hực bị tấm vách ngăn của đường hầm cản lại bên trên.

Đường hầm chật hẹp vì ngọn lửa mà trở nên nóng bức, Cơ Anh đi theo Vệ Ngọc Hành một lúc bỗng ngừng bước, dường như có điều gì đang phải suy nghĩ.

Vệ Ngọc Hành quay đầu lại: “Sao vậy?”.

Ánh mắt Cơ Anh sững sờ, cuối cùng cười cười nói: “Không có gì, đi tiếp thôi”.

Vệ Ngọc Hành “hừ” một tiếng, đi đến cuối đường hầm lúc sắp mở cửa, Cơ Anh bỗng nói: “Đợi đã…”. Vẫn chưa kịp nói hết câu, một làn khói trắng từ bên ngoài cửa xộc vào, Vệ Ngọc Hành đứng phía trước thì không sao, nhưng Cơ Anh ngay lập tức lại giống như bị người ta thít chặt cổ, cả gương mặt trắng bệch ra, co rúm ngã xuống.

Vệ Ngọc Hành lạnh lùng nhìn chàng.

Cơ Anh ngã trên mặt đất, trên trán rịn những hạt mồ hôi to bằng hạt đậu, trong nháy mắt, toàn thân ướt đẫm. Chàng mở to mắt, lồng ngực phồng lên xẹp xuống dữ dội, xem ra việc hít thở cực kỳ khó nhọc.

Vệ Ngọc Hành nói: “Mùi của loại khói này thế nào? Đối với người thường nó vô hại, nhưng với người có bệnh tim, lại là loại chí độc”.

Một tay Cơ Anh ôm chặt lấy lồng ngực, một tay duỗi ra phía trước, năm ngón tay xòe ra hết cỡ dường như muốn tóm thứ gì. Những dẫu là lúc khốn đốn như thế này, chàng vẫn không rên rỉ kêu thét như những người bình thường, thậm chí có thể nói chẳng thốt ra một tiếng nào.

Trong mắt Vệ Ngọc Hành ánh lên vẻ thương xót, nhưng khoảnh khắc sau lại chuyển thành căm hận: “Đến lúc này rồi ngươi còn phải kiên cường sao? Chà chà, Cơ Anh à Cơ Anh, ngươi quả nhiên không hổ là kẻ nhẫn nhịn nhất mà ta từng biết, không, ngươi không phải là người ngươi căn bản là con rùa rụt đầu.

Gặp chuyện thì rụt cổ lại, không dám phản kháng một tiếng, đấy chính là ngươi!”. Đột nhiên, hắn bước lên trước vài bước, tóm lấy vạt áo Cơ Anh kéo chàng thật mạnh, nghiến răng nói từng chữ một: “Trả, Cơ, Hốt, lại, cho, ta!”.

Trả Cơ Hốt 1ại cho ta…

Trả Cơ Hốt lại cho ta.. .

Sáu chữ quẩn quanh hồi lâu trong đường hầm nhỏ hẹp.

Làn khói trắng dan dần tản mát đi hết.

Khuôn mặt của Cơ Anh càng lúc càng trắng xanh, đôi đồng tử bắt đầu mờ đục, lúc này dẫu muốn nói gì cũng không thể nói ra được.

“Trả cho ta… trả cho ta… ngươi mang trả Cơ Hốt lại cho ta…”. Tay Vệ Ngọc Hành bắt đầu run bần bật, xé giọng thét: “Các ngươi vì vinh hoa phú quý, đang tâm chia cắt ta và Hốt Nhi, đưa nàng vào hoàng cung. Ta vì muốn gặp nàng một lần đã phải cố hết sức thi đậu võ trạng nguyên, vốn tưởng rằng nếu có thể làm ngự tiền thị vệ của đấng kim thượng dẫu cho đời này chẳng thể thành đôi thì chí ít cũng có thể bảo vệ nàng, đến buổi đại lễ cũng có thể nhìn mặt nàng từ xa. Ta chỉ mong có thế, nhưng đến cơ hội này các ngươi cũng không cho ta, ngầm xúi giục tả tướng chọn ta làm con rể, muốn cắt đứt nỗi nhớ nhung của ta đành cho Hốt Nhi! Sao ta có thể cho các ngươi thỏa nguyện, cho dù ta lấy người khác, ta cũng không lấy nữ nhân mà các ngươi sắp đặt. Cho nên, ta thà dựa dẫm vào hữu tướng, lấy đứa con riêng của ông ta còn hơn, nhưng các ngươi vẫn không buông tha cho ta, cấu kết với tả tướng biếm chức ta, đẩy ta vào chốn rách nát sơn cùng thủy tận này chờ đợi liền bốn năm trời… Vệ Ngọc Hành ta có tài có mạo, văn võ song toàn, đối với Hốt Nhi lại càng một khối tình si, trời đất có thể chứng giám, đựa vào tài hoa của ta, phong hầu bái tướng cũng chưa chắc là không thể, tại sao? Tại sao đến nửa cơ hội các ngươi không chịu cho ta? Tại sao lại phải chia rẽ ta và Hốt Nhi? Tại sao cứ phải gả nàng cho hoàng đế? Ta, ta, ta hận các ngươi…”.

Vệ Ngọc Hành nói đến đây, thái độ kích động bỗng biến thành bình tĩnh, nhưng dưới sự bình tĩnh này lại ẩn chứa một sự căm hận đáng sợ hơn cả giận dữ: “Cho nên, ta đã tự thề với lòng mình, ta muốn Cơ gia các ngươi không được chết tử tế. Ta muốn mọi mưu tính của các ngươi đều hóa thành công cốc. Ta muốn ngươi chết. Cơ Anh”.

Vẻ mặt của Cơ Anh vô cùng bi thương.

Đó là một nỗi bi thương vì hòa trộn quá nhiều cảm xúc cho nên không thể hiểu nổi.

Đó cũng là một nỗi bi thương vì thấu hiểu mọi thứ nhưng lại không thể làm gì.

Nỗi bi thương đó rất sâu nặng, rất đậm đà, nhưng lại là vì người khác, mà không phải vì bản thân chàng.

Cuối cùng, chàng chỉ có thể nhắm nghiền hai mắt.

Vệ Ngọc Hành lại bị kích thích bởi động tác này của chàng, hắn thô bạo kéo chàng ra khỏi mật đạo, vừa đi vừa nói: “Ngươi tưởng ngươi đứng ngoài sự việc được sao? Ngươi tưởng ngươi không phản kháng là xong à? Nói cho ngươi biết, Cơ Anh, ngươi muốn chết, đâu có dễ như thế! Người đâu!”.

Lập tức rất nhiều người vận như người làm công nhưng thân thủ phi phàm xông ra từ trong phường nhuộm vải một người trong đó chạy lên trước, ôm quyền khom lưng nói: “Chủ nhân, tất cả đều chuẩn bị xong rồi”.

“Ừm”. Vệ Ngọc Hành gật gật đầu, vứt Cơ Anh lên chiếc ghế nằm chính giữa sân. Cơ Anh đã không còn chút khả năng phản kháng nào, nhưng chúng vẫn không yên tâm, tiến lên trói nghiến tay chân của chàng lại.

Cơ Anh mở mắt he hé, hơi thở yếu ớt, nhưng ánh mắt mát lạnh, giống như nước suối dưới trăng đêm, ôn hòa mà linh lợi.

“Thắc mắc tại sao ta không giết ngươi à?”. Vệ Ngọc Hành đi đến đối mặt với Cơ Anh, dán mắt nhìn chàng từ trên cao.

Cơ Anh nở một nụ cười nhàn nhạt. Trong nụ cười không hề có ý khinh miệt, châm biếm, tựa như lúc này người đang bị trói nghiến, đau đớn đó không phải là chàng. Nhưng trong mắt Vệ Ngọc Hành, không còn nghi ngờ gì nữa nụ cười này mang ý ưủa mai.

Ánh mắt hắn sa sầm, lạnh giọng nói: “Chết đến nơi rồi, ngươi có lời gì muốn nói không?”.

“Chết ư?”. Cơ Anh thở dốc, nụ cười càng lúc càng tươi rói: “Tại sao ta phải chết? Hay nói cách khác, sao ta có thể chết được?”.

Vệ Ngọc Hành rút ra một thanh chủy thủ, kề lên cổ chàng, hung hăng nói: “Ta chỉ cần gạt nhẹ một cái là ngươi đã bỏ mạng tại chỗ, ngươi còn cảm thấy ngươi không thể chết nữa hay không?”.

“Ta chết rồi, ai đưa cho ngươi Tứ quốc phổ?”.

Câu nói này vừa bật ra giống như một cú sét đánh trúng người Vệ Ngọc Hành, hắn choáng váng, mí mắt không ngừng giật giật.

Cơ Anh phát âm rất khó khăn, nhưng thần tình xem ra lại càng nhẹ nhõm hơn: “Nếu ngươi không mang được Tứ quốc phổ về gặp Khương Trọng, lão sẽ buông tha ngươi sao?”.

Vệ Ngọc Hành ấn mạnh tay, lưỡi dao sắc lập tức cứa vào thịt Cơ Anh, dòng máu đỏ tươi từ từ chảy ra.

Lông mi Cơ Anh hơi run rẩy, nhưng chàng vẫn không phát ra bất cứ tiếng rên rỉ nào.

“Nếu ngươi đã biết, thì thức thời một chút, mau nộp Tứ quốc phổ và cả Liên thành bích ra đây!”.

“Các ngươi không đến nhà ta tìm sao?”.

“Hừ, nếu bọn ta tìm thấy, ngươi còn có thể kéo dài chút hơi tàn ở nơi này sao? Trên người ngươi hả?”. Vệ Ngọc Hành miệng nói tay lục soát. Nhưng trong người Cơ Anh chẳng có thứ gì ngoài một chiếc bản chỉ.

Vệ Ngọc Hành nhìn chiếc bản chỉ chẳng đáng tiền đó một cái rồi tiện tay vứt đi.

Chiếc bản chỉ vạch một đường cong giữa không trung, bay qua cửa sổ vào trong nhà, biến mất tăm.

Ánh mắt Cơ Anh lo lắng, rồi chàng nhắm mắt lại.

Nếu như Vệ Ngọc Hành có thể tinh tế hơn một chút, hắn sẽ phát hiện hai bàn tay Cơ Anh đang run rẩy, nhưng cho dù nhìn thấy, hắn cũng chỉ coi đó là phản ứng bình thường đo cơn đau đớn trong cơ thể gây ra nên không hề chú ý.

“Không ở trên người… cũng không ở trên thuyền sứ đi Trình quốc, vậy chắc cất giấu ở chỗ khác?”.

Cơ Anh phá lên cười ha ha, vừa cười được hai tiếng thì chuyển thành ho sặc sụa, bây giờ, không chỉ cổ mà trong miệng cũng ộc máu.

“Nói, ngươi cất hai thứ ấy ở chỗ nào? Chỉ cần ngươi nói, ta sẽ để ngươi bớt đau đớn”.

Cơ Anh nhìn Vệ Ngọc Hành chằm chằm, cuối cùng mở miệng nói: “Nhục hình vô dụng đối với ta”.

“Ngươi!”. Vệ Ngọc Hành nổi giận, thu đao lùi về phía sau vài bước, đánh mắt ra hlệu cho bọn tay sai.

Hai tên tay sai bước lên phía trước, một tên cầm một cơ quan có hình ống trụ tròn trong tay, một tên khác cầm một chiếc túi vải, chụp túi vải lên đầu Cơ Anh rồi khởi động cơ quan, một làn khói trắng chui trọn vào trong chiếc túi vải. Cơ thể của Cơ Anh lập tức co rúm một cách dữ dội. Vệ Ngọc Hành chậm rãi nói: “Mùi của loại khói này rất khó chịu phải không? Bây giờ có phải ngươi cảm thấy có trăm ngàn lưỡi đao đang khoét vào tim ngươi đúng không? Lại giống như vài trăm con thỏ đang nhảy thình thịch trên đó?

Mỗi lần hít vào là một lần giày vò với ngươi, nhưng không hít thở thì ngươi sẽ chết… Cơ Anh, thứ này được chuẩn bị cho riêng ngươi, ngươi hãy trải nghiệm cho kỹ đi”.

Một ống khói trắng phun xong, tên tay sai gỡ chiếc túi vải ra, để đầu của Cơ Anh lộ ra, chỉ thấy trong mắt chàng toàn tơ máu, trên gương mặt chỗ trắng chỗ đỏ, các cơ thịt đau đớn rúm ró lại, bộ đạng rất đáng sợ.

“Thế nào? Vẫn không chịu khai à? Không sao, ta đã chuẩn bị tổng cộng hai mươi tám ống khói, hai ống vừa mới dùng ban nãy mùi còn nhẹ, những ống phía sau càng dùng càng nồng, ngươi có thể thưởng thức từng ống từng ống một, cho đến khi ngươi chịu xin dừng lại”.

Cơ Anh thở hổn hển rất lâu, cuối cùng mở miệng, nhưng chỉ nói một chữ: “Phì”.

Khóe mắt Vệ Ngọc Hành giật giật, giậm chân nói: “Người đâu! Dùng hình tiếp cho ta! Phun thật đặc vào!”.

Hai, ba tên tay sai thay nhau luân phiên tra tấn.

Phun đến ống thứ sáu thì Cơ Anh ngất xỉu.

Vệ Ngọc Hành lạnh lùng ra lệnh: “Dội nước vào hắn”.

Một tên tay sai bưng một chậu nước tới, hai tên bên cạnh Cơ Anh đều đứng tránh ra nhường đường, để tiện cho tên kia hắt nước. Nhưng trong khoảnh khắc chúng tách ra, tên tay sai đột nhiên trở tay hắt cả chậu nước lên người chúng; nhân lúc hai người né tránh liền phóng hai lưỡi dao găm về phía chúng, chuẩn xác, nhanh như cắt, dứt khoát, hai tên tay sai đến kêu cũng không kịp kêu liền đổ gục xuống.

Vệ Ngọc Hành giật mình kinh sợ, một bóng đen như con rắn nhảy lên đầu hắn, hắn đành phi thân lùi về phía sau, chính trong tích tắc hắn kinh sợ thối lui, chỉ nghe thấy ting ting ting… năm tiếng liên tiếp, tất cả những người bên cạnh đều ngã xuống.

Đây là loại võ công đáng sợ đến nhường nào?

Vệ Ngọc Hành nheo mắt lại, tư thế vốn dĩ chuẩn bị nhảy lên cũng ngừng lại, cảnh giác nhìn tên tay sai kia, người đó lại chẳng thêm liếc hắn lấy một cái, thu roi lại rồi ôm lấy Cơ Anh, nhanh chóng điểm mấy huyệt đạo trên người chàng, trầm giọng nói: “Xin lỗi, thuộc hạ đã đến muộn. Công tử”.

Cơ Anh vốn đã ngất xỉu nay mới từ từ mở mắt, nhìn người đó, khóe môi nhếch lên, dường như đang cười, nhưng lại càng yếu ớt hơn: “Ngươi quả nhiên chưa bao giờ làm ta thất vọng, Chu Long”.

Người đó chính là thị vệ theo sát bên chàng – Chu Long.

Vệ Ngọc Hành chầm chậm lùi lại hai bước, ánh mắt đảo nhanh quanh bốn phía một vòng: “Tại sao ngươi có thể tìm được nơi này”.

Chu Long đáp: “Đánh dấu”.

“Không thể! Dọc đường ta đều chú ý quan sát, Cơ Anh không thể có bất cứ cơ hội nào đánh dấu cho ngươi!”.

Tựa như để hắn tuyệt vọng, hoặc là để tấn công hắn thêm một bước nữa, Chu Long tiếp tục trả lời: “Dấu ấn của công tử, không phải là ký hiệu, mà là mùi”.

“Cái gì?”. Sau cơn kinh ngạc, Vệ Ngọc Hành bỗng hiểu ra: Trên người Cơ Anh thoang thoảng mùi Phật thủ cam, người bình thường ngửi chỉ cảm thấy vị công từ này bản tính phong lưu ưa sạch sẽ, nào ngờ kỳ thực lại có đụng ý khác. Hơn nữa, cho dù chú ý đến mùi hương này, nhưng vì nó rất nhạt rất nhẹ đi qua là tan, sao có thể trở thành manh mối cho người ta phân biệt?

Vị Chu Long này rốt cuộc là nhân vật như thế nào? Không những võ công cao cường đến mức đáng sợ, đến khứu giác cũng vượt xa giới hạn của con người.

Vệ Ngọc Hành lại lùi về phía sau thêm một bước, hai tay dần dần nắm chặt, so với đối thủ trước mặt, nếu bây giờ hắn ra tay thì chỉ có vài phần thắng.

Cơ Anh nhìn thấu tâm tư của hắn, bỗng nói: “Ngươi không phải là đối thủ của Chu Long”.

“Vì sao?”.

“Vì là ta nói”. Cơ Anh nằm trong lòng Chu Long, tuy yếu đến độ dường như có thể chết bất cứ lúc nào, nhưng giọng nói vẫn cực kỳ kiên định: “Ta – Cơ Anh nói – ngươi không phải là đối thủ của hắn”.

Hai chữ “Cơ Anh” thốt ra, cả thế giới bỗng nhiên chìm xuống, không khí cũng vì hai chữ này mà trở nên đặc quánh đến dị thường.

Người trước mặt mang danh Bạch Trạch, sinh ra trong gia đình quý tộc của cường quốc.

Đến đệ nhất trí giả đời nay là Ngôn Duệ cũng nhận xét là tuyệt thế tài tuấn, “Qua mười năm nữa, người thiên hạ chỉ biết đến Kỳ Úc hầu mà không biết lão phu”.

Là nhân vật tối thượng trở tay làm mây lật tay làm mưa, nhất cử nhất động đều ảnh hưởng đến thời cuộc.

Mà nay, chàng nói một câu “ngươi không bằng hắn”, trong chốc lát dường như cả thế giới đều đứng về phía chàng, khiến kết luận của chàng trở thành một sự thực chắc như đinh đóng cột không thể mảy may lay động. Tay Vệ Ngọc Hành cứ run rẩy không tuân theo sự khống chế của hắn.

“Còn nữa”. Cơ Anh lại bổ sung thêm một câu: “Kẻ thất bại bất tài như ngươi, căn bản không đủ tư cách cưới tỉ tỉ của ta. Không, đến tư cách nhìn tỉ ấy cũng không có”.

Vệ Ngọc Hành bị chọc giận đến cực điểm, hét vang một tiếng rồi nhào qua.

Chu Long một tay ôm Cơ Anh, một tay múa cây roi dài nhẹ nhàng tránh được. Thực ra Vệ Ngọc Hành thân là võ trạng nguyên năm Gia Bình thứ hai mươi sáu, võ công cũng không kém Chu Long là bao. Mà Chu Long lại phải ôm Cơ Anh, bị vướng víu, tình thế rất bất lợi, nhưng vì Cơ Anh cố ý chọc giận Vệ Ngọc Hành khiến cho tâm trí hắn rối loạn.

Cũng vì thế, không lâu sau, trên người Vệ Ngọc Hành đã trúng ba roi, áo quần bị rách, hắn thở hồng hộc, lại lùi về phía sau, thần tình vốn dĩ kích động.cũng dần dần bình tĩnh trở lại.

Cơ Anh thầm than hỏng rồi, tiếp theo liền nghe Vệ Ngọc Hành đưa ngón tay lên miệng huýt một tiếng sáo rất vang. Cơ Anh lập tức nói: “Mau chạy”.

Nhưng Chu Long vừa mới ôm chàng quay người, thì nhìn thấy bên ngoài tường bao của phường nhuộm vải mọc ra một vòng cung tiễn thủ đen kịt. Hóa ra Khương Trọng hành sự cẩn thận, đánh tráo một đám tay sai còn chưa đủ, lại còn sắp xếp thêm cung tiễn thủ ngầm mai phục. Bấy giờ bọn cung tiễn thủ nghe thấy hiệu lệnh, lũ lượt hiện thân, đầu mũi tên lạnh lẽo hướng thẳng về phía hai người đang ở giữa sân.

“Ngươi tưởng có một trợ thủ đến cứu là có thể trốn được sao?”. Vệ Ngọc Hành giơ một tay lên,lập tức có một cung tiễn thủ nhảy xuống khỏi tường bao đứa cung tên của mình cho hắn. Hắn đón lấy cung tên, nheo mắt nhắm thẳng vào Cơ Anh, trầm giọng nói: “Hôm nay, cho dù ngươi có bản lĩnh thông thiên, cũng đừng mơ bước ra khỏi nơi này!”.

Đối diện với vô số mũi tên, Cơ Anh chẳng hề có chút sợ hãi chỉ nhếch khóe môi lên, khẽ khàng nói ba chữ: “Tứ quốc phổ”.

Sắc mặt Vệ Ngọc Hành đột ngột trắng bệch.

Mà trong khoảnh khắc đó, Chu Long ôm theo Cơ Anh tung thân vọt qua tường bao, đá hai tên cung tiễn thủ, phá vòng vây thoát ra ngoài.

Đám cung tiễn thủ đang định bắn tên, Vệ Ngọc Hành vội vàng quát: “Bắt sống”.

Đám tiễn thủ sợ đến mức vội vàng bắn chệch đi, những mũi tên vốn dĩ nhắm chuẩn vào Cơ Anh cũng lần lượt bắn lệch khỏi mục tiêu ban đầu, bắn sượt qua người Chu Long rơi xuống đất.

Vệ Ngọc Hành hận đến mức nghiến răng ken két, trọng binh trong tay, người đông như nhế, chỉ vỏn vẹn có hai người mà đành bó tay, đây đúng là chuyện tức tối và bực bội biết bao! Đáng hận là Tứ quốc phổ ở đâu vẫn chưa tra ra, Cơ Anh còn chưa thể chết. Cho nên Cơ Anh liền dựa vào điểm này để nghịch chuyển tình thế, đáng ghét! Đáng ghét!

Mũi tên trong tay rung rung, chỉ cần buông hai ngón tay ra là có thể khiến thiên hạ đệ nhất danh thần bỏ mạng tại chỗ ngay lập tức.

Nhưng, lại không thể bắn được… Đáng ghét! Đáng ghét Trên bức tường phía bên kia, Chu Long đang định nhảy xuống, Cơ Anh bỗng “a” một tiếng, hai tay vô thức giơ về phía sau.

“Sao vậy?”.

“Cái bản chỉ…?.

“…”.

Chu Long trong lòng vạn phần không muốn, nhưng cuối cùng vẫn quay ngược trở lại, ngắm thật chuẩn cửa sổ rồi, nhảy vào bên trong.

Vệ Ngọc Hành vốn dĩ đã chuẩn bị tâm lý để hai người chạy thoát nào ngờ hai người lại quay lại, ngón tay co một cái, dây cung đã căng đến cực điểm không còn chịu sự khống chế nữa mà trượt qua ngón tay, đẩy mũi tên bay ra, xé rách không khí.

Không sai không lệch, nhằm trúng lưng của Cơ Anh.

Còn Chu Long bấy giờ vừa mới nhảy qua khung cửa sổ, “soạt” một tiếng, tấm trường bào của Cơ Anh đã bị mắc vào gỗ. Chu Long không kịp nghĩ ngợi, thuận tay kéo một cái, dứt khoát cởi cả chiếc áo ra, vứt ra ngoài cửa sổ.

Bạch bào tung trong gió, giống như một bức màn che kín cửa sổ.

Đợi đến khi bức màn rớt xuống, đám cung tiễn thủ lũ lượt xông vào trong nhà, chỉ thấy trong nhà trống không, không có Chu Long, cũng chẳng có Cơ Anh.

Vệ Ngọc Hành nhặt chiếc áo nhuộm máu đó lên, sắc mặt cực kỳ khó coi, một lúc lâu sau mới tức giận nói: “Chúng chạy chưa xa được đâu. Đuổi theo cho ta!”.

Bọn cung tiễn thủ vội vàng đuổi theo.

Tên cung tiễn thủ đưa cung tên cho hắn ban nãy chần chừ một lát, rồi bước lên nói: “Vệ thành chủ…”.

“Chuyện gì?”.

“Mũi tên có độc”.

“Độc?” Vệ Ngọc Hành giật mình kinh sợ, theo bản năng nhìn xuống cây cung trong tay.

“Vâng. Thiên hạ kịch độc, gặp máu thì tắt thở, trúng độc lập tức chết, vô phương cứu chữa”.

Trái tim Vệ Ngọc Hành đập thình thịch, giọng nói trở nên gấp gáp: “Cũng có nghĩa là…”.

“Bây giờ Kỳ úc hầu đã là một người chết rồi”. Cung tiễn thủ cúi gằm mặt, trong giọng nói pha lẫn sự thương xót.

Mưa đã tạnh từ lâu, nhưng tiếng gió nghẹn ngào, giữa đất trời là khung cảnh tiêu điều xơ xác.

Nửa canh giờ sau…

Tiết Thái và Phan Phương đi ra khỏi đường hầm, họ nhìn thấy phường nhuộm vải đã người vắng nhà không.

Tiết Thái khi tìm thấy chiếc bản chỉ trong xó nhà lòng đã đầy tuyệt vọng, muốn hếp tục truy tìm tưng tích nhưng chẳng có lấy chút manh mối; muốn từ bỏ nhưng lại không cam tâm. Đang lúc bó tay hết cách, bên cửa sổ đột nhiên phát ra một tiếng “cạch” rất nhỏ.

Phan Phương lập tức chạy ra ngoài nhanh như một tia chớp.

Còn Tiết Thái ngây ra một lát rồi cũng chạy theo ra ngoài. Họ phát hiện, hóa ra là một viên đá nhỏ bị người ta ném vào cửa sổ, không bị văng ra sau khi va chạm như thông thường mà bị kẹt vào giữa phần gỗ.

Bốn phía một màu đen kịt, mưa cũng dần tạnh, ngoài tiếng gió ra không có một thứ gì khác.

Là ai đang ngầm mai phục? Tại sao lại phải ném đá để nhắc nhở hai người về sự tồn tại của hắn? Để cảnh báo? Hay là Uy hiếp?

Tiết Thái đang lúc nghi nghi hoặc hoặc, chỉ nghe thấy “cạch” một tiếng nữa lại là một viên đá bất ngờ văng đến trước mặt họ rồi rơi xuống đất.

Tiết Thái và phan Phương đối mắt nhìn nhau, đồng loạt lao như bay về phía viên đá đó.

Cứ như vậy, viên đá ấy luôn xuất hiện trong thời khắc mấu chốt, giống như dẫn đường đưa hai người rời khỏi phường nhuộm vải, thậm chí dẫn qua phố chợ, càng đi lại càng hẻo lánh. Trước đó Tiết Thái từng hạ lệnh đóng cửa thành phong tỏa đường ra, cắm người ra vào thành. Nhưng ngưởi nêm đá này lại biết một con đường khác men theo bờ sông, xuyên qua bụi gai lại có một bức tường đứt gãy không ai coi sóc, nhảy qua tường là đã ở bên ngoài thành.

Hai người đuổi theo đến đây lại càng tò mò về thân phận của người thần bí đó, nhưng người đó võ công cao cường đến mức khó mà tưởng tượng nổi, Tiết Thái vì tuổi còn nhỏ, đuổi đến đoạn về sau thì thở hổn hển, dần dần không gắng gượng được nữa, còn Phan Phương phải chăm sóc cho hắn, đương nhiên cũng không đuổi kịp nữa.

Cuối cùng, Tiết Thái đừng bước, ngồi khụy xuống đất, vừa thở phì phò vừa nói: “Phan, Phan tướng quân, ngài không cần quan tâm đến ta. Đuổi, đuổi theo hắn mau! Đây là manh mối duy nhất hiện nay của chúng ta!”.

Phan Phương bối rối: “Nhưng một mình ngươi…”.

“Tướng quân yên tâm, người đó nếu có ý hại chúng ta thì đã ra tay từ lâu rồi.

Hắn đụ chúng ta ra đây, tất có ý đồ, tướng quân mau mau đi xem xem hắn rốt cuộc muốn gì đi”.

Phan Phương xưa nay không phải là một người hay lằng nhằng vì thế chỉ thoáng nghĩ qua rồi gật đầu, nói: “Được, vậy ngươi nhớ cẩn thận đấy”. Lại nghĩ thêm gì đó rồi lấy trong người ra một cây pháo hoa: “Nếu gặp nguy hiểm, nhớ đốt pháo báo hiệu”.

Tiết Thái đưa tay nhận lấy, Phan Phương liền đi khỏi, chỉ nhảy mấy bước là đã biến mất ở phía trước.

Tiết Thái nhìn cây pháo hoa trong tay, ngồi xuống một lúc, đợi hơi thở bình ổn trở lại rồi đột nhiên nói: “Ông có thể ra rồi đó Chu Long”.

Một bóng xám đột ngột hiện ra giữa không trung, đáp xuống bên cạnh hắn tựa như một làn khói. Người đó đứng yên, đúng là Chu Long phía trên lông mày bên trái có một hình con rồng ba móng màu đỏ.

Tiết Thái nhíu mày nói: “Ta nhìn thư viên đá trên khung cửa là đã đoán ra ông. Ông đã ở đây, lẽ nào… ông biết tung tích của chủ nhân?”.

Chu Long gật gật đầu, nói một câu “Đi theo ta” rồi quay người dẫn đường.

Tiết Thái không nhịn được hỏi: “Tại sao phải dẫn chúng ta ra khỏi thành?

Còn cố ý vòng vèo đưa ám hiệu ta phải đuổi Phan Phương đi?”.

Bởi vì chủ nhân dặn dò phải gặp ngươi trước, sau đó một lúc mới dẫn Phan tướng quân đến”.

Tuy Tiết Thái thấy kỳ 1ạ nhưng không hỏi thêm nữa, cùng Chu Long đi lên phía trước, đoạn đường này càng đi lại càng cao, họ đi lên núi.

Cơn mưa lớn lúc trước khiến cho con đường núi ưới lầy lội Tiết Thái bước thấp bước cao, từ đầu đến cuối không hé răng than khổ lấy nửa tiếng, vì thế khi chu Long dừng lại, trong ánh mắt của hắn là vẻ tán thưởng.

“Ngươi đợi một lát”. Nói đoạn, Chu Long tung người nhảy lên trên một cái cây 1ớn. Những hạt mưa từ trên cành lá rào rào rơi xuống, Tiết Thái còn chưa kịp né thì đã thấy Chu Long ôm một người nhảy xuống.

Đôi mắt Tiết Thái trong phút chốc đỏ hoe, cuống lên gọi: “Chủ… nhân”.

Người trước mặt chỉ mặc áo trong, mái tóc ướt đẫm lòa xòa dính trên người như một con rắn, hơi thở yếu ớt, dường như có thể chết bất cứ lúc nào, đâu có giống chủ nhân của hắn, Kỳ Úc hầu cười nhạo phong vân, quyền nghiêng triều dã. Danh thần Bạch Trạch nhất cử nhất động đều khiến thế nhân ngưỡng mộ. Công tu tuyệt thế tài hoa vô song, phong độ xuất trần – Cơ Anh.

Tuy Cơ Anh vẫn chưa chết như hắn tưởng tượng, nhưng chàng như thế này thì càng khiến người ta cảm thấy đau lòng hơn là chết.

Tiết Thái vội vàng bước lên nắm lấy một cánh tay của chàng, phát hiện cả cánh tay đó đều chuyển sang màu xanh đen. Hắn trợn trừng mắt, cuống quýt hỏi: “Là ai hại chủ nhân?”.

Hàng mi của Cơ Anh run rẩy vài cái, đôi mắt vốn dĩ nhắm nghiền từ từ hé ra, nhìn thấy hắn thì ánh lên chút vui mừng: Ngươi đến rồi à?”.

“Bây giờ ngài không tìm Giang Vãn Y mà lại sai Chu Long tìm ta? Ngài là heo à?”. Tiết Thái vừa mắng vừa quay người, đang định đi tìm Giang Vãn Y thì bàn tay lạnh ngắt, hóa ra là Cơ Anh kéo tay hắn.

Tay của Cơ Anh không còn chút sức lực, hắn chỉ cần giật nhẹ một cái là có thể vùng ra.

Thế nhưng, bị bàn tay yếu ớt vô lực như thế kéo lại, Tiết Thái cứng đờ người ngay lập tức và chẳng thể nhúc nhích nổi bước chân.

Hắn quay đầu lại, nhìn thấy Cơ Anh sắc mặt vàng vọt không chút sinh khí, nhưng vẫn mỉm cười với hắn, một nỗi bi ai bất lực trào lên, hắn chỉ có thể lý nhí nói một câu: “Ngài ấy…”.

Cơ Anh dùng một cánh tay còn lại nhẹ nhàng rẽ vạt áo của mình ra, Tiết Thái hít vào một hơi lạnh, chỉ nhìn thấy vị trí gần tim của chàng, một đầu mũi tên lộ ra, mặt cắt bằng thép tinh khiết mài bóng ánh ra tia hàn quang, chiếu lên mắt người thật đau đớn. Còn lồng ngực của Cơ Anh cũng đã biến thành màu đen giống như cánh tay của chàng.

Mũi tên đó không chỉ xuyên qua cơ thể chàng, mà đầu mũi tên còn có độc, độc tố đã hoàn toàn xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng, thần tiên khó cứu, bây giờ tuy chàng vẫn còn sống nhưng cũng chẳng qua là kéo dài chút hơi tàn mà thôi.

Vừa nghĩ đến người trước mặt có thể chết bất cứ lúc nào, cả người Tiết Thái liền run lên bần bật.

Nhìn thấy bộ đạng này của hắn liền Cơ Anh lại cười cười: “Ta còn tưởng mình còn năm năm nữa, cho nên có nhiều thứ còn chưa dạy cho ngươi, có nhiều việc còn chưa làm được. Xin lỗi”.

“Ta không cần ngài dạy!”. Tiết Thái oán hận cụp mắt xuống, giọng nói gần như nức nở: “Ngài có gi ghê gớm chứ, cái gi ngài làm được ta đều biết cả, cái gì ngài không biết ta cũng biết! Qua mấy năm nữa, chắc chắn ta còn giỏi hơn ngài! Ngài… ngài… ngài dựa vào cái gì mà chết vào lúc này? Dựa vào cái gì mà không cho ta cơ hội vượt qua ngài, đồ giảo hoạt! Ngài quá giảo hoạt!”.

Cơ Anh chầm chậm giơ tay lên, sờ sờ mái đầu của hắn: “Ngươi nghe đây, Tiểu Thái, ta không còn nhiều thời gian nữa, độc dược trên mũi tên cực kỳ đáng sợ, nếu không phải nhiều năm qua hàng tháng ta đều uống các loại thuốc nên có chút sức đề kháng, thì đã chết từ lâu rồi. Sở dĩ ta chống chọi được đến bây giờ là để gặp ngươi một lần nữa. Điều ta nói sau đây vô cùng quan trọng, ngươi phải chú tâm lắng nghe”.

Tiết Thái ngước mắt lên nhìn.

“Ngươi có hai con đường. Con đường thứ nhất, đến Yên quốc đầu quân cho Chương Hoa, Yên vương là đấng quân vương nhân hậu, biết dùng người tài, tất sẽ đối tốt với ngươi”. Cơ Anh ngừng lại một lát, thấy Tiết Thái trợn trừng đôi mắt to đen láy, không tỏ thái độ gì, bấy giờ mới nói tiếp: “Con đường thứ hai, nộp thủ cấp của ta cho Chiêu Doãn”.

Tiết Thái cắn chặt môi, vẫn không nói gì, nhưng trong mắt dâng lên một màn sương mù.

“Hai con đường đều khiến ngươi một bước lên trời, dưới một người mà trên vạn người, chỉ có điều một con đường đơn giản hơn, còn một con đường lại vô cùng gian nan”.

Tiết Thái thấp giọng đáp: “Dựa vào đâu mà ngài cho rằng mục đích của ta là dưới một người mà trên vạn người?”.

Cơ Anh nhìn hắn dịu dàng, chậm rãi nói: “Bởi vì… ta hiểu ngươi, giống như ngươi hiểu ta vậy. Chúng ta là những người giống nhau. Ta, ngươi và cả Trầm Ngư đều là những người giống nhau”.

Trên gương mặt Tiết Thái hiện lên vẻ suy sụp, hai đầu gối mềm nhũn, đột ngột ngã quỵ xuống mặt đất.

Cơ Anh đưa mắt nhìn về phía xa, khẽ than rằng: “Chúng ta đều trưởng thành trong gia tộc, rồi lại bị gia tộc trói buộc, cả đời không được tự do. Đứng trước gia tộc, không có cái tôi, không có thiện ác, không có đúng sai. Năm mười bốn tuổi ta lên nắm quyền, cũng bắt đầu từ đó đã nhìn thấy hết sự xấu xa dưới lớp áo hoa lệ, muôn hình vạn trạng. Đường thúc của ta tham ô, biều cữu của ta ăn hối lộ, con cháu Cơ thị ngang ngược hoành hành đầu đường phố chợ, làm theo ý riêng mà rối loạn kỷ cương, không một người nào là trong sạch. Thế nhưng dầu cho như thế, cũng phải tiếp tục chống đỡ cho gia tộc, bởi vì, cha mẹ huynh đệ, cốt nhục tình thâm, lẽ nào có thể nhẫn tâm nhìn họ lâm vào đường cùng mạt lộ? Vì thế, tuy biết khối u ác tính này càng ngày càng lớn, càng ngày càng nguy hại, nhưng không thể vung tay cắt bỏ. Ta vốn tưởng rằng khi thời cơ chín muồi, có thể chỉnh đốn kỹ lưỡng một phen, nhưng ông trời 1ại không cho ta thời gian…”. Nói đến đây chàng đưa mắt nhìn Tiết Thái, nói với một vẻ không biết là đau thương hay là lạnh nhạt: “Coi như là Cơ gia đến hồi nhận báo ứng mà thôi. Một khi ta chết đi, khối u Cơ thị này cuối cùng cũng có thể cắt bỏ”.

Tiết Thái chẳng thể nói được lời nào, chỉ nắm chặt lấy tay Cơ Anh, run rẩy như một con thú nhỏ.

Cơ Anh dịu dàng xoa đầu hắn: “Tuy đã biết cái lẽ thịnh suy là như thế, nhưng thực sự người trong cuộc không có lựa chọn nào khác, phải không? Cho nên, Tiểu Thái nếu như ngươi lựa chọn con đường thứ hai, thì hãy làm một việc vì ta”.

Tiết Thái nhìn Cơ Anh không chớp mắt, đôi mắt trong veo phản chiếu bóng hình chàng như muốn khảm sâu dáng vẻ của người này vào trong tâm trí, mãi không biến mất, mãi không phai mờ.

Thực ra với thực lực của mình, Khương Trọng đã có thể: xoay chuyển thời cuộc từ lâu nhưng lão chần chừ không ra tay, một mặt cố nhiên là vì đợi Khương Trầm Ngư trưởng thành, một mặt là vì trong triều ngoài dã lưu truyền tin đồn – Cơ gia có một quyển Tứ quốc phổ”.

Tiết Thái mím môi, rồi mở miệng nói. Thuộc hạ biết”.

Cơ Anh cười: Xem này, đến ngươi cũng biết rồi”.

Tiết Thái trầm giọng đáp: “Sinh thời gia gia của ta đã từng bí mật bàn với cha ta. Không chỉ Tứ quốc phổ, Cơ gia còn có một miếng Liên thành bích. Cái gọi là Tứ quốc phổ là chỉ những tin tức bí mật quốc gia ba nước xung quanh được những gian tế mà Cơ gia phải đi tích lũy và ghi chép trong suốt mấy trăm năm, nếu bất cứ một bí mật nào trong đó bị tiết lộ ra ngoài đều có thể kinh động thiên hạ, gây biến đổi triều chính. Mỗi gia tộc đều có những bí mật phải cẩn thận bảo vệ.

Không thể truyền ra ngoài, mà kẻ biết được bí mật này có thể lợi dụng điều đó thao túng họ. Đây chính là điểm đáng sợ nhất cũng là điểm chí mệnh nhất của Tứ quốc phổ”.

Cơ Anh im lặng lắng nghe, không phát biểu ý kiến gì.

Thế nên Tiết Thái tiếp tục nói: “Còn cái gọi là Liên thành bích chính là chìa khóa để mở kho báu gồm một khối lượng lớn tài sản và châu báu mà tổ tiên của Cơ gia đã chôn giấu khi dự đoán mấy trăm năm sau gia tộc có thể sa sút. Cơ gia có hai vật đó là có thể duy trì sự phồn thịnh, đời đời không suy vong”.

Cơ Anh hít một hơi thật sâu, nói bằng giọng điệu bình tĩnh lạ thường: “Thế, ngươi có tin không?”.

Tiết Thái trầm ngâm chốc lát, cuối cùng thận trọng lắc lắc đầu.

“Tại sao không?”.

“Bởi vì…”. Mắt Tiết Thái ướt nhòe, hắn thấp giọng đáp: “Nếu thực sự có những vật đó, ngài đã không mệt mỏi nhường này…”.

Đáp án này hiển nhiên nằm ngoài dự tính của Cơ Anh, chàng hơi há miệng, có chút kinh ngạc, có chút xúc động xen một chút tình cảm khác nữa.

“Ta biết ngài mệt mỏi nhiều lắm, ta đều biết cả. Nếu thực sự có Tứ quốc phổ và Liên thành bích gì đó, ngài sẽ không phải vất vả ngày đêm, chạy đôn chạy đáo, chưa từng được một đêm an giấc đến thời gian dưỡng bệnh cũng chẳng có. Ngài nói ngài chỉ có thời gian năm năm, nhưng rõ ràng ngài biết, nếu ngài có thể vứt bỏ tất cả, cùng với Vãn Y đi đến nơi nào đó non xanh nước biếc chú ý tĩnh dưỡng thì có thể điều đường cơ thể!”.

Cơ Anh cụp mắt, im lặng trong giây lát, định nói gì đó nhưng cuối cùng vẫn không nói ra, tích tắc sau chàng ngước đôi mắt tựa ánh sáng, tựa nước, tựa hết thảy những thứ linh hoạt mà mềm dịu, cứ nhìn Tiết Thái như thế, nói: “Có”.

Tiết Thái sững sờ kinh ngạc.

Cơ Anh nở một nụ cười khổ, khẽ giọng từ tốn nói: “Tứ quốc phổ, Liên thành bích, đều có thực”.

Lúc này, Tiết Thái không nói nổi lời nào nữa.

Cơ Anh hít sâu một hơi, ghé sát tai Tiết Thái, nói vài câu. Tiết Thái vốn mở mắt rất to, nhưng vì kinh ngạc quá đỗi nên càng trợn to hơn.

Cơ Anh nói xong, liền thở dốc khôi phục tư thế ban đầu, hầm giọng nói: “Ta dự định năm sau bắt đầu thực thi cải cách, nhưng giờ xem ra cần phải lùi thêm mười năm. Mười năm sau, tất cả đều nhờ cả vào ngươi”.

Tiết Thái đứng im không nhúc nhích như đã bị trúng phép định thân.

“Hy vọng ngươi không thay đổi bản tính lương thiện chính trực, khi phục hưng gia tộc cũng nên nghĩ cho bách tính thiên hạ, nghĩ xem ý nghĩa thực sự của cuộc đời chúng ta là gì?”. Cơ Anh vừa nói vừa nở nụ cười thực sự: “Ngày đó, nhận lời cầu xin cứu ngươi của Trầm Ngư, giờ ngẫm lại quả là chuyện đúng đắn nhất mà ta đã làm trong đời. Ta rất vui… tuy cả đời ta không thực sự cống hiến được gì cho nước nhà, nhưng sau cùng vì Bích quốc, vì thiên hạ, vì chúng dân, ta đã để lại hai người – một là ngươi, hai là Trầm Ngư”.

“Không, không… không…”. Tiết Thái run rẩy, ngước đôi mắt mờ mịt, toàn thân hắn lộ rõ sự yếu ớt bất lực tột độ: “Không chết không được sao? Cầu xin ngài, đừng chết! Cơ Anh, ngài không được chết… không được chết, cầu xin ngài đấy…”.

Cơ Anh nghe xong thì ngây người, lại thở dài: “Đứa trẻ ngốc này…”.

“Ta không phải trẻ con! Ta không phải là trẻ con!”. Tiết Thái nhảy lên, hổn hển nói: “Khi các người cầu xin ta đều không coi ta là trẻ con; nhưng khi giễu cợt ta đều bảo ta 1à trẻ con. Ta giống trẻ con ở chỗ nào? Trong thiên hạ này làm gì có đứa trẻ nào giống như ta? Ta nói cho ngài biết, Cơ Anh, từ khi ta biết đi đến giờ, ta không phải là một đứa trẻ! Ta không cần nhũ mẫu ru ta ngủ, không cần chơi cùng bạn bè đồng trang lứa. Khi những đứa trẻ khác còn thò lò mũi xanh, ta đã vào cung hiến nghệ làm đẹp lòng tiên đế; khi những đứa trẻ khác còn đang vừa khóc lóc đọc thuộc sách vừa viết chữ nguệch ngoạc, ta đã đại diện triều đình đi sứ, cha mẹ khen ta thông minh nên muốn ta làm rạng rỡ tổ tông; cô cô khen ta mạnh mẽ nên muốn ta chấn hưng gia tộc; còn ngài, lại đem cả thiên hạ ủy thác cho ta, ngài dựa vào cái gì? Ta thì liên can gì đến cả thiên hạ? Ngài cũng dựa vào cái gì mà đại diện cho cả thiên hạ? Ngài chỉ cần chết đi là được giải thoát, dựa vào cái gì màa phải tiếp tục sống để hứng chịu tất cả? Các người! Các người! Những người lớn các người… không hề có trách nhiệm… Ta hận các người? Ta hận! Ta hận vô cùng!”. Nói đến đây, ngẩng đầu òa khóc nức n ở.

Cơ Anh lặng lẽ nhìn hắn khóc, cũng không ngăn cản, trong đáy mắt chàng bắt đầu trào dâng một thứ tình cảm phức tạp đan xen giữa vui mừng và bi thương.

Màn đêm từ từ buông xuống, chân trời le lói những tia sáng bàng bạc. Tiếng gió thổi vi vu trong rừng cây, tựa như đang khóc than cùng với thiếu niên ấm ức này.

Bảy tuổi.

Thậm chí đứa trẻ này còn không thể gọi là thiếu niên.

Thế nhưng, nó đã kinh qua những chuyện mà cả đời một người bình thường cũng không thể nào trải qua, có được thành tựu rực rỡ hơn cả thành tựu của vạn người.

Ba tuổi biết làm văn, bốn tuổi biết làm thơ, năm tuổi giương cung bắn hổ trước nhà vua, sáu tuổi đi sứ Yên quốc danh chấn bốn nước, bảy tuổi cả nhà diệt môn, bị biến làm nô lệ.

Mà nay lại bi gửi gắm hy vọng của toàn thiên hạ.

Người lớn có thể còn không gánh vác được, huống hồ chỉ là một đứa trẻ non nớt?

Chỉ là, ngoài hắn ra, không còn ai khác.

Cuộc đời tàn khốc thế. Bi ai như thế.

Cơ Anh nhìn Tiết Thái mặt mày đẫm lệ, thứ tình cảm phức tạp trong đáy mắt cuối cùng đã bị sự thương xót bao trùm, chàng thở dài một tiếng thật khẽ, cố gắng giơ cánh tay ra, ôm Tiết Thái vào lòng.

Tiết Thái ôm chặt chàng; khóc càng dữ hơn.

Cơ Anh vỗ nhè nhẹ lên lưng hắn, động tác cực kỳ dịu đàng.

Chu Long ở bên cạnh, mắt cũng- đã đỏ hoe, len lén lau nước mắt.

Một khoảng thởi gian cứ thế trôi qua, thực sự rất ngắn, nhưng đối với ba người mà nói, lại dài như một đời vậy.

Cuối cùng Tiết Thái cũng lấy tay áo cố gắng ngăn dòng lệ.

Cơ Anh hỏi: “Khóc xong rồi à?”.

Tiết Thái “ừm” một hếng, lạnh mặt nói: “Ngài còn trăn trối gì thì mau nói hết ra đi. Tránh để ta khóc quá lâu, ngài chưa kịp nói xong thì đã chết, đến lúc đó lại biến thành ma quấy nhiễu ta!”.

Cơ Anh bật cười thành tiếng, lại dịu dàng xoa đầu Tiết Thái: “Hết rồi”.

“Hết rồi?”. Tiết Thái trừng mắt nhìn chàng: “Ngài không còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành sao?”.

Tâm nguyện chưa hoàn thành?”. Cơ Anh nhìn bầu trời phía xa xa, hững hờ nói: “Tâm nguyện chưa hoàn thành thì có quá nhiều cũng coi như đã hoàn thành hết rồi đi”.

“Vậy những vướng bận không từ bỏ được thì sao?”.

Cơ Anh hơi cau mày lại, trong khoảnh khắc ánh mắt trở nên tịch liêu, im lặng giây lát rồi mới nói: “Chu Long, gọi bọn họ đến đây đi”.

“Vâng”. Chu Long đáp lời rồi đi.

Tiết Thái sửng sốt – Sao? Nơi này vẫn còn người khác.

Không lâu sau, ba người đàn ông trung niên trạc tứ tuần xuất hiện cùng với Chu Long, khi tiến lại gần đều nhất loạt quỳ bái: “Chủ nhân”.

Cơ Anh “ừm” một tiếng.

Một người trong đó nói: “Bọn Lão Thất cũng đang trên đường sẽ mau đến thôi”.

“Không có gì…”. Cơ Anh kéo tay Tiết Thái, đầy hắn ra trước mặt mọi người: “Tìm các ngươi qua đây là để tuyên bố một việc, ba người các ngươi cũng sẽ truyền lệnh xuống cho những người không đến được. Từ hôm nay trở đi, Tiết Thái chính là người thừa kế của Bạch Trạch”.

Ba người đưa mắt nhìn nhau một lượt, rồi lại nhìn Tiết Thái, xong lần nữa quỳ xuống: “Bái kiến tân chủ”.

Tiết Thái cắn chặt môi, bước chân hơi dịch chuyển giống như muốn lùi về phía sau, nhưng cuối cùng vẫn bước lên phía trước, một đứa trẻ với thân hình bé nhỏ như thế đứng trước mặt những người lớn hơn hắn rất nhiều, cất tiếng: “Đứng… đứng dậy đi”.

“Đa tạ tân chủ”. Ba người đứng dậy.

Vẻ vui mừng lộ rõ trong đáy mắt của Cơ Anh, chàng quay đầu sang dặn dò Chu Long: “Hãy đưa ta qua đỉnh núi bên kia”.

“Vâng”. Chu Long lập tức ôm lấy chàng đi về phía đỉnh núi.

Rừng cây lần lượt rơi lại phía sau, khi đứng trên đỉnh một vách núi, cả Hồi thành đều thu trọn trong tầm mắt, mà nơi xa hơn, cây cối um tùm tươi tốt, cùng với ánh sáng càng lúc càng rõ, màu sắc cũng càng lúc càng tươi tắn hơn, lộ rõ vẻ đẹp tráng lệ mà chỉ thiên nhiên mới có.

Từ trong lòng Chu Long, Cơ Anh ngẩng đầu lên, si ngốc ngắm phong cảnh phía xa.

Sau lưng, một người đàn ông trung niên trong đám người nghẹn ngào nói: “Chủ nhân, nếu bây giờ đi xe thật nhanh tới Nghi quốc, có lẽ vẫn còn kịp…”.

Cơ Anh lắc đầu.

Một người khác nói: “Chủ nhân, còn núi xanh sợ gì thiếu củi đốt! Tuy mọi ngả đường từ đế đô đến nơi này đều đã bị phong tỏa, chúng ta không thể về được, nhưng đi Yên quốc thì vẫn được mà…”.

Người thứ ba nói nhanh: “Đúng thế! Chủ nhân, còn núi xanh sợ gì thiếu củi đốt! Trên thế gian không có thuốc độc nào là không thể giải! Chúng thuộc hạ đi đón Giang thần y, rồi lại đi tìm Ông Lão, hai người ấy hiệp sức chắc chắn sẽ giải được chất độc của chủ nhân”.

“Chủ nhân Không thể từ bỏ!”.

“Chủ nhân! Cầu xin người! Trước hết chúng ta rời khỏi Bích quốc! Thế lực của Khương Trọng có lớn hơn nữa, quyền uy của hoàng thượng có mạnh hơn nữa, chỉ cần ra khỏi Bích quốc thì không gì là không…”.

“Chủ nhân…”.

Dường như Cơ Anh đều không nghe thấy những lời cầu xin đó chàng vãn hỏi Chu Long: “Bên kia có phải là hướng về đế đô không?”.

“Vâng”.

“Độc tính phát tác quá nhanh, tầm nhìn của ta càng lúc càng nhòa… “. Cơ Anh nheo mắt: “Nhưng, la có thể tưởng tượng được dáng vẻ của nó… Đế đô là nơi đẹp nhất Bích quốc, bốn mùa trong năm khí hậu ôn hòa, cứ độ xuân về rừng hoa Hồng viên lại nở rộ, đẹp không tả xiết… đẹp không tả xiết…”.

Tiết Thái nhớ đến một chuyện, vội vàng móc chiếc bản chỉ trong người ra, đưa cho chàng.

Cơ Anh run run cầm lấy chiếc bản chỉ, nụ cười trên gương mặt biến mất, ngàn vạn cảm xúc đâng trào trong đáy mắt, sau đó chầm chậm đưa chiếc bản chỉ lên môi, giữ nguyên tư thế hôn đó, không hề động đậy.

Ba người kia vẫn tiếp tục cầu xin thảm thiết.

Tiết Thái bỗng nói: “Các người đừng nói nữa, vô ích rồi”.

Ba người sững sờ, ngẩng đầu lên đau đớn nhìn hắn.

Ánh mắt của Tiết Thái từ đầu đến cuối đều không rời khỏi Cơ Anh, chậm rãi nói: “Bởi vì… tha hương không phải là cố quốc”.

Tha hương không phải là cố quốc.

Cho nên, đừng nói Cơ Anh vốn không thể đi nổi. Mà cho dù có cơ hội, chàng cũng không đi.

Tuy biết Bích quốc đầy rẫy nhiễu nhương, tuy biết Khương Trọng sẽ truy sát chàng, hoàng thượng cũng không buông tha chàng, nhưng, chàng vẫn không thể trốn sang nước khác.

Trong cuộc đời con người, có những kiên trì, có những lưu luyến trong mắt người khác có lẽ là rất mù quáng ngoan cố không thể nào lý giải nổi, nhưng lại quý giá lạ thường.

Cơ Anh nhìn dãy núi dưới ánh dương buổi sớm, đặt nụ hôn lên thứ mà chàng yêu quý nhất. Nét mặt của chàng thanh thản, dịu dàng, cũng chân thật nhất.

Chàng đang nghĩ gì?

Khoảnh khắc này phải chăng chàng đang nhớ đến người làm ra nó? Phải chăng đang nhớ đến rất lâu rất lâu về trước, khi chàng còn căng tràn sức trẻ đã từng yêu rất rất sâu đậm người con gái yêu kiều mỹ lệ đó? Phải chăng đang nhớ đến những phút giây trái tim mình thổn thức loạn nhịp mỗi khi đến gần nàng, rồi mượn cớ mua hoa của nàng? Phải chăng đang nhớ đến lời thề sẽ lấy nàng, rồi lại phải giương mắt mà nhìn nàng bị gả cho người khác? Phải chăng đang nhớ đến lúc tuyệt vọng nhất đã từng muốn vứt bỏ tất cải dẫn theo nàng cao chạy xa bay, nhưng lại bị người trong tộc gồm cả người cha già đã lay lắt như ngọn nến trước gió của chàng quỳ gối van xin phá vỡ kế hoạch? Phải chăng đang nhớ đến phút tương phùng lại đã xa cách tựa một đời, chàng quỳ trên đất gọi nàng là phu nhân còn người con gái ấy băng lạnh nhìn chàng?



Tất cả điều này, ngoài Cơ Anh ra, không một ai hay biết.

Vĩnh viễn không ai hay biết.

Ngay cả Chu Long, những gì hắn thấy chẳng qua cũng chỉ là Cơ Anh đã vứt bỏ cơ hội tẩu thoát an toàn ở trong phường nhuộm vải, cố chấp đòi quay lại nhặt chiếc bản chỉ, để rồi trúng một mũi tên độc xé gió phi tới, đâm vào lưng của chàng.

Nếu lúc đó chiếc bản chỉ không bị Vệ Ngọc Hành vứt đi…

Nếu lúc đó Cơ Anh không quay lại nhặt chiếc bản chỉ đó…

Nếu trên mũi tên của Vệ Ngọc Hành không có độc…

Chỉ cần bất cứ điều nào trong số đó không tồn tại, kết cục đã không như thế này.

Chiếc bản chỉ này phải chăng đã khắc sâu nỗi nhớ của Cơ Anh dành cho Hy Hòa, đồng thời cũng chôn giấu oán niệm của Hy Hòa đối với Cơ Anh? Cho nên trong thời khắc then chốt nhất, bằng phương thức đáng sợ nhất, nó đã hủy diệt Cơ Anh.

Họa thủy! Họa thủy!

Chu Long thầm thở dài trong lòng.

Khi tất cả mọi người đều tưởng Cơ Anh sẽ cứ hôn mãi như thế thì Cơ Anh lại nhìn sang Tiết Thái, cuối cùng, từ từ đưa chiếc bản chỉ ra trước mặt Tiết Thái.

Tuy chàng không nói gì, nhưng Tiết Thái hiểu ý của chàng.

Chiếc bản chỉ này hắn đã từng hỏi xin, khi ấy Cơ Anh không nỡ cho, bây giờ, trước lúc lâm chung lại cho hắn, cũng coi như bù đắp sự tiếc nuối năm đó của hắn.

Nhưng tình này cảnh này, làm sao hắn có thể nhận một vật quan trọng đến thế của Cơ Anh?

Tiết Thái lắc lắc đầu.

Cơ Anh lại đưa chiếc bản chỉ đến trước mặt hắn.

Tiết Thái vẫn kiên trì lắc đầu, mắt phải của Cơ Anh bỗng một giọt lệ.

Chất lỏng trong vắt, long lanh như hạt châu, lăn dài trên gương mặt thanh nhã vô ngần đó, trong khoảnh khắc trời đất trở nên xa xôi, trong khoảnh khắc vạn vật như biến mất, chỉ còn lại một gương mặt, một giọt lệ như thế trước mắt, ai oán giã biệt cõi đời.

Tiết Thái hoảng hốt, không dám từ chối nữa, ngoan ngoãn xòe tay ra.

Cơ Anh đặt chiếc bản chỉ vào lòng bàn tay hắn, nhưng bàn tay giơ giữa chừng của chàng đã buông thõng xuống, chiếc bản chỉ rớt trên mặt đất, lăn thêm vài vòng, cùng với đó là tiếng gào khóc thê lương của Chu Long và ba người còn lại: “Hầu gia! Chủ nhân! Hầu gia! Chủ nhân…”.

Tiết Thái vội vàng quay người chuyên tâm nhặt chiếc bản chỉ, không dám nhìn.

Không dám nhìn dáng vẻ đã chết của người ấy.

Không dám nhìn vẻ mặt khi chết của người ấy.

Không dám nhìn khoảnh khắc buông tay của người ấy, là buồn bã là lưu luyến là đau thương hay là được giải thoát…

Những điều ấy, hắn đều không dám nhìn.

Một tia sáng từ từ chiếu trên mặt hắn, từ đầu bên kia mặt biển xa xôi, vầng thái dương đã bắt đầu nhô lên.

Tiết Thái nhìn vầng thái dương diễm lệ hơn cả trước đây, ánh mắt sáng rỡ, đồng tử từ nhạt chuyển sang đậm, lòng bàn tay nắm chiếc bản chỉ đó nắm thật chặt thật chặt.

Trên chiếc bản chỉ dường như vẫn còn sót lại hơi ấm của người đó.

Nhưng người đó, đã mãi mãi ra đi rồi.

Ngày mùng hai tháng tám, Giáp Dần, trời nắng. Đại cát. Thích hợp làm mọi chuyện.

Ngày hôm đó, Khương Trầm Ngư cùng với Vệ Ngọc Hành và những sứ thần khác đi xe ngựa hồi kinh. Suốt dọc đường đi dân chúng khấu bái, tiếng hô trùng trùng, nàng nhìn thẳng về phía trước, sắc mặt trầm tĩnh, từng bước từng bước, nghi thái vô song.

Ngày hôm đó, trong Lưu Ly cung Hy Hòa phu nhân say rượu nằm trên giường, tửu hứng dâng cao, uyển chuyển hòa mình múa cùng đám cơ nữ vũ ca, đắm chìm trong cảnh vàng son hoa gấm, sống trong say sưa chết trong giấc mộng.

Ngày hôm đó, nghe nói Cơ Hốt thi hứng bộc phát, chân trần tóc xõa, vung bút viết lên tường, bài thơ này từ trong cung truyền ra ngoài, các văn nhân tranh nhau sao chép, trở thành danh tác.

Ngày hôm đó, buổi trưa Khương Trọng cùng vợ dạo chơi trong vườn, ngắm nhìn những bồn hoa lan một lượt, khí hậu đương đẹp cảnh sắc vừa xinh, phu thê ân ái, cực kỳ hòa hợp.

Ngày hôm đó, Chiêu Doãn nhốt mình trong ngự thư phòng không thượng triều, không uống lấy một giọt nước, đám thái giám sợ sệt bất an quỳ dẫy mặt đất ngoài thư phòng.

Ngày hôm đó, Chương Hoa đang gảy đàn bỗng bị đứt một dây, y ngây người nhìn cây đàn một hồi, cuối cùng cau mày, cười hì hì nói: “Danh cầm mua từ cửa tiệm của ngươi lại không chắc chắn thế này, hừm hừm, hãy xem ta sẽ tính sổ với tên gian thương Hách Dịch này như thế nào”.

Ngày hôm đó, Hách Dịch bỗng hắt xì khi đang phê tấu chương: “Ô… là cô nương nhà ai đang nhớ nhung trẫm đây?

Thân là một đế vương lại còn anh tuấn mỹ mạo, gây ra nhiều tương tư thế, tội lỗi, thật là tội lỗi quá…”.

Ngày hôm đó, Di Thù đang chải đầu thì phát hiện ra mặt gương bị nứt, nàng tức thời ném gương nổi cơn thịnh nộ, ban chết cho hai cung nữ.

Ngày hôm đó, nghe đâu là ngày đại cát hoàng đạo trăm năm mới gặp.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.