Họa Quốc

Chương 13: Chương 13: Hồi Thứ Mười Ba: Cờ Đêm




Đi một mạch về phía Tây xuyên qua một dãy tường bao, con đường nhỏ vốn được lát đá đã được sửa thành lát gỗ, hai bên còn có tay vịn, dưới ván rỗng không, đi lên đó phát ra âm thanh lộc cộc.

Cách một quãng nhất định, ở chỗ tiếp nối của mỗi nhịp tay vịn còn treo một ngọn đèn sáng, những chiếc đèn đó phía dưới là nến, phía trên là tinh dầu, loại dầu đó không biết làm từ gì mà đốt lên lại tỏa ra thứ mùi thơm thoang thoảng.

Bấy giờ mưa đêm lất phất, hương thơm thấm phổi, cảnh trí càng làm người ta thư thái, phòng ốc tuy không xảo mỹ lệ, nhưng mỗi cây mỗi hoa, mỗi rèm mỗi ghế, mỗi chi tiết đều chất chứa tâm tư ở trong đó.

Phía cuối hành lang gỗ là hai gian phòng nhỏ.

Từ xa Khương Trầm Ngư đã nghe thấy tiếng động lách cách rất có quy luật, đến gần thì hóa ra là một nữ tử đang ngồi đệt vải.

Cửa phòng mở rộng, nữ tử đó đang ngồi trước khung cửi quay lưng lại với khách, chiếc áo bằng vải gai màu xanh nhạt, mái tóc dài đen nhánh buông xõa mềm mại trên áo tựa dòng nước chảy, tựa luồng ánh sáng, rõ ràng là khung cảnh “tĩnh” nhưng lại có cảm giác “động” vô cùng vi diệu.

Chỉ nhìn bóng dáng ấy, KhươngTrầm Ngư liền khẳng định: Không nghi ngờ gì nữa đó chính là Đỗ Quyên.

Trong những lời đồn đại đều nói Đỗ Quyên là người xấu xí không phải là một mỹ nhân. Nhưng nữ tử xuất thân bần hàn lại thêm đôi mắt mù lòa này lại có thể khiến một nam nhân như Vệ Ngọc Hành dám vì nàng ta mà chối từ thiên kim tướng gia, vứt bỏ tiền đồ, ắt phải có điểm đặc biệt.

Mà điểm đặc biệt này có lẽ bắt nguồn từ sự tồn tại yên tĩnh mà linh động của Đỗ Quyên.

Rõ ràng hai bàn tay và đôi chân của nàng ta đều đang thực hiện động tác dệt vải trên khung cửi nhưng nhìn lại có vẻ trầm tĩnh rõ ràng có vẻ rất trầm tĩnh nhưng lại khiến người ta cảm thấy mọi điểm trên cơ thể nàng như đang nói chuyện, như đang biểu đạt điều gì.

Vẻ vừa mâu thuẫn vừa hài hòa đó dường như tập trung trên người nàng ta một cách rất tự nhiên.

Khương Trầm Ngư không kìm được nghĩ, từ nhỏ tới lớn nàng đã gặp nhiều nữ tử, dung mạo tuyệt mỹ như Hy Hòa, hiền thục mẫn tuệ như Tiết Mính, yểu điệu khéo leo như tỉ tỉ, yêu mị như Di Thù… nhưng người như Đỗ Quyên, thì quả thực đây là lần đầu tiên nàng gặp.

Nàng đang nghĩ thì tiếng khung cửi ngừng lại, nữ tử đó thong thả đứng dậy, quay người lại, khom lưng thi lễ: “Dân nữ Đỗ Quyên bái kiến hầu gia”.

Giang Vãn Y vội đáp: “Xin phu nhân mau đứng dậy”.

Dưới ánh đèn gương mặt Đỗ Quyên vô cùng gầy gò, mày nhạt môi mỏng, hai mắt đờ đẫn, không có chút thần sắc nào. So với sự linh hoạt của bóng lưng, khuôn mặt không chút lanh lợi này rõ ràng tầm thường biết bao. Lẽ nào ban đầu Tuyên Lưu đau lòng tuyệt vọng là vì thân là thiên kim tướng phủ dung mạo hoa nhường nguyệt thẹn, nhưng cuối cùng lại thua một cô gái mù, mà còn là một cô gái mù xấu xí.

Đỗ Quyên nói: “Dì Mai, dọn chỗ. Cũng lấy cho cô nương này một chiếc ghế đ i “.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Sao phu nhân biết còn có ta nữa?”. Nàng đã cố ý nhẹ bước, tại sao Đỗ Quyên vẫn có thể biết còn một người thứ ba đang ở đây? Hơn nữa, còn nói toạc ra là một “cô nương”?

Đỗ Quyên nhếch môi cười cười: “Ngày nào ta cũng đi trên hành lang gỗ trước cửa hơn chục lần, bốn năm qua mỗi một âm thanh trên ván gỗ ta đều khắc sâu trong tim. Đến bao nhiêu người, là người như thế nào, cao hay thấp, béo hay gầy, ta đều có thể phân biệt đến bảy, tám phần. Nếu như ta đoán không nhầm, cô nương là một mỹ nhân thân hình yểu điệu, cử chỉ đoan trang. Bởi vì, bước chân của cô nương rất khẽ, rất ổn định, rất ngay ngắn, khi bước đi váy áo không phát ra tiếng loạt xoạt rõ ràng đã được đạy dỗ cực kỳ tốt”.

Khương Trầm Ngư chỉ còn nước thán phục. Đỗ Quyên lại tiếp: Không chỉ như thế, ta còn đoán được cô nương cũng có thân phận cao quý. Bởi theo lý mà nói, nếu người đi cùng hầu gia là người hầu trợ thủ hoặc là đồ đệ thì sẽ phải đi sau ngài. Nhưng cô nương và hầu gia lại sánh vai mà đến, từ đó có thể thấy được địa vị của cô nương chắc không dưới hầu gia, cho nên ta mới sai dì Mai dọn thêm một chỗ ngồi”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư cả kinh, bấy giờ mới ý thức được vừa nãy mình không chú ý, đúng là đã đi ngang hàng với Giang Vãn Y.

Tuy là người mù nhưng khả năng nhận biết lại còn tinh chuẩn hơn cả người mắt sang, vị Đỗ Quyên phu nhân này quả nhiên không phải người bình thường.

Trong lòng nàng bội phục, vội nói: “Phu nhân quá khen rồi, tiểu nữ đâu phải quý nhân gì chẳng qua chỉ là sư muội của Đông Bích Hầu mà thôi, vì từ nhỏ đã được chiều chuộng cho nên thiếu lễ phép, dám đi ngang hàng với huynh ấy. Phu nhân mau mời ngồi, nghe nói phu nhân bệnh đã lâu ngày, sư huynh tiểu nữ đang muốn khám bệnh cho phu nhân.

Đỗ Quyên cười nói: “Cũng được. Xin đa tạ hầu gia”.

Giang Vãn Y đặt hòm thuốc xuống, Khương Trầm Ngư đứng bên hỗ trợ một cách thành thục, lấy chiếc đệm mềm đặt dưới cổ tay Đỗ Quyên, chuẩn bị xong Giang Vãn Y ngồi xuống ghế, bắt mạch cho Đỗ Quyên một lúc, nét mặt vốn dĩ căng thẳng chăm chú giãn ra, khẽ cười nói: “Phu nhân hơi suy nhược nhưng cũng không phải là bệnh nặng, chịu khó nghỉ ngơi an dưỡng nhiều hơn thì sẽ không thành vấn đề”.

Khương Trầm Ngư hơi bất ngờ, nàng cứ tưởng. Vệ Ngọc Hành không cho họ khám bệnh là vì bệnh của vợ hắn có ẩn tình gì, ai ngờ lại không có gì nguy hại. Lẽ nào nàng đã cả nghĩ chăng?

Nàng nghe thấy Đỗ Quyên nói: “Vậy thì tốt. Dân nữ vốn dĩ không mắc bệnh nặng, chỉ vì khí hậu Hồi thành 魠ướt nhiều gió, tuy đã đến đây nhiều năm nhưng vẫn không thể thích nghi được nên thường xuyên mệt mỏi. Có điều, bản tính của đân nữ không chịu nhàn rỗi, một ngày không chăm hoa cắt cỏ là cảm thấy thiếu thiếu gì đó, ngủ không yên…”.

Khương Trầm Ngư than: “Tài trồng hoa của phu nhân quả thật hiếm có…”.

Đỗ Quyên lập tức quay mặt về phía nàng, đôi đồng tử không có thần sắc cũng nhìn nàng không chớp, cơ hồ mang theo vài phần mong chờ nhiệt thành, nói: “Cô nương thích những bông hoa đó sao?”.

“Vâng, vô cùng thích. Đặc biệt là cây lan cánh cúc đó… không giấu gì phu nhân, gia mẫu thích nhất là loài hoa lan này, trong nhà cũng trồng rất nhiều, nhưng loài lan cánh cúc trong truyền thuyết đó lại luôn là nỗi tiếc nuối trong lòng người đã tìm rất nhiều năm, nghĩ đủ cách nhưng không thể kiếm được. Vì thế, lúc nãy nhìn thấy loài hoa lan đó trong sân, tiểu nữ còn không dám tin vào mắt mình, không ngờ trên đời lại có người trồng được loài kỳ hoa hiếm có đó, hơn nữa, còn là một cây hoa hoàn mỹ đến vậy…”.

Lời của nàng còn chưa dứt, Đỗ Quyên đã nắm lấy tay nàng nói: “Vậy tặng cho cô nương đi!”.

“Hả?”.

Đỗ Quyên nhận ra sự thất thố của mình, liền thu tay lại, cười nói: “Danh hoa tặng mỹ nhân. Có thể nuôi dạy nên một cô con gái như cô nương, lệnh đương hẳn cũng là một nữ tử tuyệt vời, vậy thì, bồn hoa lan cánh cúc đó tặng cho bà ấy cũng coi như là danh kiếm gặp anh hùng, tôn thêm vẻ sáng rỡ cho nhau”.

“Không không không, sao có thể làm thế được”. Khương Trầm Ngự không ngờ vị Đỗ Quyên phu nhân này lại hào sảng đến vậy, cũng không ngờ nàng ta lại đem loài hoa trân quý nhất thiên hạ này tặng cho người khách lần đầu gặp mặt, tuy trong lòng nàng rất muốn, nhưng vẫn phải chối từ: “Quân tử không đoạt thứ người khác yêu thích, phu nhân đã tốn biết bao tâm huyết tinh lực cho bồn hoa đó, sao tiêu nữ có thể vô duyên vô cớ nhận lễ hậu đến vậy của phu nhân? Tuyệt đối không thể…”.

Đỗ Quyên lại giơ tay nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng. Nàng ta dùng đôi bàn tay đầy vết chai do lao động nhiều năm của mình vuốt ve đôi bàn tay da dẻ trơn láng tựa ngọc, khẽ thổi là rách của Khương Trầm Ngư, trên mặt hiện lên vẻ cảm khái: “Lễ hậu hay bạc chẳng qua chỉ là do mắt nhìn của người ngoài. Không biết vì sao, vừa nghe thấy tiếng của cô nương là ta đã thấy thích cô nương, luôn cảm thấy có duyên với cô nương, cho nên, đối với ta mà nói, tặng món quà như thế nào cho người mình thấy có duyên đều không phải là lễ hậu. Nếu như cô nương cố chấp không nhận chẳng phải là đã coi thường ta, cho rằng thân phận ta thấp hèn, không xứng tặng quà cho cô nương sao?”.

Khương Trầm Ngư thấy những lời này quá nghiêm trọng, không khỏi có chút hoảng hốt, lúc này Giang Vãn Y mới đứng ra giải vây, nói: “Sư muội, muội nhận đi. Nếu cảm thấy áy náy trong lòng thì hãy tìm một món quà để tặng lại phu nhân là được rồi”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư thầm cười khổ câu này nói nghe thật nhẹ nhàng, nhưng trong thời gian ngắn nàng đi đâu để tìm được quà tặng đáp lễ đây? Hơn nữa, món quà có giá trị ngang với loài hoa vừa quý hiếm vừa mỏng manh đó đâu dễ tìm thế chứ.

Đỗ Quyên vỗ nhà nhẹ vào mu bàn tay nàng, dịu dàng nói: “Hầu gia nói không sai, thực ra bây giờ cô nương có thể giúp ta làm một việc”.

Khương Trầm Ngư vội nói: “Xin phu nhân sai bảo”.

Đỗ Quyên nhẹ nhàng gọi dì Mai, dì Mai ý quay người bước vào trong nhà, không lâu sau bưng ra một thứ. Khương Trầm Ngư nheo mắt nhìn, thì ra là một bàn cờ.

Dì Mai đặt bàn cờ trên bàn, Đỗ Quyên nói: “Ngoài trồng hoa và dệt vải, thực ra ta còn rất thích đánh cờ. Nhưng vì mắt kém nên khi đánh cờ thường chậm hơn người bình thường rất nhiều, vì thế Ngọc Hành cảm thấy thiếu kiên nhẫn khi chơi cờ cùng ta. Mà đám người hầu trong phủ đều không biết chơi cờ người ngoài thì ta không tiện gặp, kể từ khi đến Hồi thành, đã bốn năm ta chưa hề chơi cờ. Nếu cô nương thực sự muốn cảm tạ ta đã tặng cô nương bồn hoa đó, vậy thì cô nương có thể cùng ta chơi một ván không? Ta nghe đám người hầu nói, cô nương là người chơi cờ giỏi nhất trong đoàn sứ thần, cũng từng thắng cả Nghi vương”.

Khương Trầm Ngư xấu hổ, quả nhiên con người ta không nên quá phô trương, ban đầu nàng vì cứu Hách Dịch mà cố ý đánh cờ suốt đêm với chàng trên thuyền, chẳng ngờ lại lưu truyền đến tận tai của phu nhân thành chủ Hồi thành.

Nhưng đánh cờ cũng chẳng phải là việc khó ,khăn gì, người ta đã chịu tặng hoa, thì chút yêu cầu mọn nay sao có thể thoái thác?

“Thế thì tiểu nữ xin được múa rìu qua mắt thợ vậy”.

Khương Trầm Ngư ngồi xuống đối diện bàn cờ. Đỗ Quyên quay sang nói với Giang Vãn Y. “Hầu gia có mệt không? Nếu hầu gia cảm thấy mệt, xin mời về phòng nghỉ ngơi trước. Bởi dân nữ đánh cờ rất chậm, tuy chỉ một ván thôi, nhưng không chừng đến sáng cũng chưa đánh xong đâu”.

Giang Vãn Y vẫn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã cười đáp: “Sư huynh không biết gì về kỹ nghệ nếu ở lại đây, đối với huynh ấy quả là sự giày vò”.

Giang Vãn Y ngại ngùng cười nói: “Từ nhở ngu độn, gặp phải những chuyện phải động não tính toán là cảm thấy đau đầu, Cho nên, xin lượng thứ ta không thể phụng bồi”.

“Vậy cũng được. Dì Mai, tiễn hầu gia về”.

Dì Mai tiễn Giang Vãn Y đi rồi, Khương Trầm Ngư nhìn bàn cờ, lại nhìn những quân cờ trong chiếc bát, đang nghĩ xem phải đánh cờ với một người mù như thế nào thì Đỗ Quyên lên tiếng: “Mắt ta bất tiện, nên phiền cô nương giúp ta đặt quân cờ”.

“Phu nhân nói gì vậy, đó là điều nên làm mà”

“Vậy nếu không ngại, để ta đi trước được chứ?”.

“Đương nhiên là được”.

“Được vậy nước đầu tiên chính là…”. Đỗ Quyên hít sâu một hơi, chậm rãi nói: “Thiên Nguyên”.

Khương Trầm bất giác kinh ngạc.

Giang Vãn Y cùng với dì Mai ra khỏi Tây viện, một trận gió to đột nhiên thổi tới, chiếc ô giấy trong tay bỗng gẫy hai nan, trong phút chốc mưa xối xả rút xuống, chỉ nháy mắt đã làm ưới đẫm áo quần.

“Mưa to quá”. Hắn than.

“Đúng vậy”. Dì Mai đứng đằng sau khe khẽ nói: “Trận mưa tối nay, không tạnh được đâu…”.

Giang Vãn Y nghe giọng điệu lạ lùng của dì Mai, vô thức quay đầu lại nhìn, đúng lúc một tia chớp xé rạch màn đêm, khiến gương mặt bà ta trở nên xanh tối, đường nét vốn hiền lành cũng bị bóng tối làm méo mó biến dạng.

“Ngươi…”. Giang Vãn Y không thể nói hết câu, gáy đột nhiên bị đánh mạnh, hắn liền ngất lăn ra đất.

Tiếng bước chân gấp gáp, từ trái qua phải lại từ phải qua trái, cứ như thế lặp đi lặp lại mấy lần, nhỏ nhẹ rời rạc.

Lông mày Cơ Anh khẽ động, đôi mắt đang nhìn vào trang sách ngước lên, nhìn nơi phát ra tiếng động rồi khẽ than: “Ngươi làm ồn quá, Tiểu Thái”.

Bấy giờ kẻ gây ra tiếng ồn – Tiết Thái mới dừng bước, hắn quay người lại, gương mặt đầy cảnh giác nói: “Có vấn đề”.

“Có vấn đề gì?”. Cơ Anh đưa tay lật một trang sách.

So với vẻ thản nhiên của chàng, Tiết Thái lại lộ rõ vẻ nôn nóng sốt ruột lạ thường: “Nếu tiểu nhân biết là vấn đề gì thì nó đã không còn là vấn đề nữa rồi”. Dứt lời hắn đi đến bên cửa sổ, đẩy cửa sổ ra, gió mưa bên ngoài bỗng chốc rào rào thổi vào làm những trang giấy trên mặt bàn bay tứ tung.

“Ngài ngửi xem!”.

“Ngửi cái gì?”.

“Ngài không cảm thấy mùi hoa này quá nồng sao?”.

Cơ Anh không nhịn được, giơ một tay lên khẽ day day lông mày: “Ta không biết hóa ra ngươi còn ghét cả hoa”.

Tiết Thái hừ một tiếng.

“Khác với ngươi, ta thích hoa”. Cơ Anh quả quyết gập cuốn sách lại, đứng dậy đi đến bên cửa sổ, nhìn ra nhưng cụm hoa vẫn nở trong mưa đêm, ánh mắt dịu dàng: “Ta cảm thấy hoa là một sinh vật vô cùng kỳ diệu. Ban đầu chúng chỉ là những mầm lá bình thường, không có chút đặc điểm nào, cũng không chút thu hút, nhưng một khi bừng nở thì sẽ đẹp đẽ vô ngần, phô rõ sự khác biệt của nó; hơn nữa vẻ đẹp đó lại mau chóng tàn lụi, đó vốn là một điều tiếc nuối nhưng đó kết nên quả ngọt, thứ quan trọng và có giá trị cao hơn…”. Nói đến đây, chàng dừng lại một lát, ánh mắt sâu thăm thẳm tựa mặt hồ tối phủ đầy sương mù trong đêm trăng, khiến người ta không thể nhìn rõ biểu cảm thực sự…

Một lát sau Cơ Anh nhẹ nhàng đóng cửa sổ lại, thấp giọng nói: “Có điều ngươi nói đúng, hoa ở nơi này… thực sự có mùi hơi nồng”.

Ánh mắt Tiết Thái bỗng sáng bừng lên, khẽ hừ nói: “Thật sao? Không ngờ gan của Vệ Ngọc Hành lại to đến vậy”.

“Chắc gì đã là hắn”. Cơ Anh quay lại bàn, dùng ngón tay trỏ gõ nhẹ vào mép bàn, cúi đầu trầm ngâm.

Tiết Thái chớp chớp nhìn chàng bằng đôi mắt to của hắn.

Cơ Anh nghiêng đầu, nhìn thấy vẻ mặt sốt ruột này của hắn, không nhịn được phì cười: “Ngươi đoán xem khi một người lâm vào tình cảnh khó khăn thì sẽ làm thế nào?”.

“Phán đoán xem tình cảnh khó khăn trước mặt rốt cuộc là gì và làm thế nào để thoát ra được”.

“Vậy thì, theo ngươi tỉnh cảnh khó khăn hiện nay là gì?” “Nơi này lạ lùng, không nên ở lâu”. “Lạ lùng như thế nào?”.

Tiết Thái giơ ba ngón tay lên: “Thứ nhất, không thấy thủ vệ của chúng ta đâu, những kẻ canh gác ở bên ngoài sân, căn bản đều lạ mặt; thứ hai, tuy bây giờ đã về đêm nhưng vẫn chưa đến giờ Tuất, về lý mà nói vẫn chưa phải là giờ đi ngủ, nhưng ngoài nơi này của chúng ta những phòng khác đều tối như hũ nút không có ánh đèn; thứ ba, đang đêm mưa gió tầm tã sẽ có rất nhiều âm thanh chúng ta không thể nghe thấy, giữa những hương hoa quá nòng sẽ có rất nhiều thứ chúng ta không thể ngửi được”.

“Ví dụ như?”

“Ví dụ như…”. Tiết Thái bỗng giơ tay trái lên, ống tay áo tụt xuống; hắn xoay lòng bàn tay lại, phía trên có một vệt máu nhàn nhạt. Hắn giải thích: “Tiểu nhân vô ý dính phải khi mở cửa sổ lúc nãy”.

Đồng tử Cơ Anh co lại: “Nếu như ban nãy bên ngoài có một trận chém giết, thì dù mưa to hơn gấp mười lần ta cũng không thể không nghe thấy”.

Tiết Thái cười: “Không sai. Võ công của ngài tuy không thể coi là thượng thừa, nhưng tiểu nhân tin rằng nếu có người động thủ với ngài ở bên ngoài cửa sổ, ngài vẫn có thể cảm nhận được”.

Câu nói này nửa khen nửa không, nửa chê nửa không, Cơ Anh chỉ cười khổ Tiết Thái liền chuyển chủ đề, tiếp tục nói: “Cho nên, tiểu nhân không nói đó là chuyện vừa mới xảy ra”.

Cơ Anh không tỏ thái độ gì.

Tiết Thái tiếp tục phân tích: “Cũng có nghĩa là cho đù đã xảy ra một trận chém giết ở đây cung là phát sinh trước lúc chúng ta đến. Có lẽ vì trận mưa lớn này, cho nên sát thủ không kịp dọn dẹp ổn thỏa, nên đã để vệt máu còn dây lại trên khung cửa”.

Cơ Anh nghe tới đây, nhướng mày nói: “Về căn bản ta đồng ý với phân tích của ngươi, có điều, ta lại có cách nhìn khác về vết máu”.

“Ồ”.

Cơ Anh quay người lại, hướng ra khung cửa sổ, ánh mắt hơi chùng xuống, giọng nói trong phút chốc cũng trở nên chậm và nhỏ lại: “Ta cảm thấy, vệt máu đó không phải sơ suất để lại mà là có người cố ý”.

“Cố ý?” Tiết Thái mở to mắt: “Tại sao?”.

Cơ Anh lấy một tờ giấy trên bàn, trải phẳng ra, mỉm cười chậm rãi nói bốn chữ: “Là để cảnh báo”.

Mưa gió sầm sập đập vào tấm rèm cửa sổ kêu lạch cạch.

Nước đun trên bếp lò đã sôi lục bục, đẩy nắp ấm nảy lên, nhưng hai người ngồi đánh cờ bên cạnh lò hình như hoàn toàn không nghe thấy gì không ai thèm để ý. Hơi nước trắng mờ từ từ bao phủ, khuôn mặt Khương Trầm Ngư chìm trong màn hơi mờ, giống như một pho tượng tạc bằng ngọc.

Nàng cầm một quân cờ, nhưng mãi không nhúc nhích.

Nắp ấm dần dần không nảy lên nữa.

Trong phòng yên ắng vô cùng. Chỉ có tiếng hít thở của hai người nhè nhẹ nhàn nhạt, cực kỳ bình tĩnh.

Một khoảng thời gian dài cứ trôi qua như thế, cuối cùng Khương Trầm Ngư đã cử động, chầm chậm, từng chút từng chút ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn vào Đỗ Quyên phía đối diện. Đỗ Quyên dường như cảm nhận được ánh nhìn của nàng, giãn đôi mày ra, cười nhạt nói: “Cô nương đã nghĩ được nước sau đi thế nào chưa?”.

Khương Trầm Ngư “ừm” một tiếng.

“Vậy tại sao cô nương không đi?”.

Khương Trầm Ngư nhìn nàng ta chằm chằm, một lát sau nàng lắc lắc đầu: “Tiểu nữ không dám”.

Đỗ Quyên lại cười, trong nụ cười có một thứ gì đó đang từ từ lắng kết lại: “Ô, tại sao không dám? Nói ra ta nghe nào. Cô nương sợ thua ư?”.

Khương Trầm Ngư xoa xoa quân cờ, chậm rãi nói: “Nước đầu tiên phu nhân đi là Thiên Nguyên, tiểu nữ là thất kinh. Vì rất ít người khai cuộc như thế, thông thường kỳ thủ dám khai cuộc bằng nước Thiên Nguyên phải có lá gan tày trời, nếu không phải có kỳ nghệ cực cao. Cho nên, tiểu nữ không dám lơ là, cẩn thận từng chút một, nhưng đánh một chặp lại phát hiện ra…”.

Đỗ Quyên mỉm cười tiếp lời nàng: “Lại phát hiện ra kỳ nghệ của ta chẳng qua cũng chỉ như thế mà thôi, có lẽ còn chẳng bằng kỳ thủ hạng ba, đúng không?”.

Khương Trầm Ngư thừa nhận bằng sự im lặng.

“Như thế chẳng phải cô nương không cần phải sợ hãi nữa sao? Bởi ván cờ này cô nương đã chắc thắng rồi”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, hạ giọng nói: “Phu nhân kỳ nghệ bình thường, tại sao lại muốn hẹn ta đánh cờ?”.

Đỗ Quyên che miệng cười: “Lẽ nào cô nương chưa từng nghe thấy càng kỳ nghệ bình thường lại càng khao khát tìm người chơi cờ?”.

“Nếu như là người khác, có lẽ là như thế, nhưng là phu nhân”. Khương Trầm Ngư do dự một lát, lại tiếp: “Trước khi ngồi đây, khi nhìn thấy những khóm hoa mà phu nhân trồng đó, tiểu nữ đã nghĩ nếu không phải người thông minh tột đỉnh, cao ngạo mạnh mẽ tột đỉnh, thì sẽ không thể trồng được”.

Đỗ Quyên đáp qua loa: “Cô nương nói thông minh cũng được nhưng chỉ là trồng hoa mà thôi, đâu có thể nói là cao ngạo với mạnh mẽ?”.

Sở dĩ tiểu nữ nói như vậy là chỉ việc phu nhân biết sở trường của mình và biết cách phô diễn sở trường này cho người khác biết, bản chất của hành vi này chính là biểu hiện của sự cao ngạo, mạnh mẽ. Lượng thứ cho tiểu nữ nói thẳng, đôi mắt của phu nhân bị hỏng, nếu đổi lại là người thường, thì tính cách có thể sẽ trở nên hướng nội hoặc thu mình hoặc sợ sệt, dù có dũng cảm đối mặt với cuộc sống, cũng sẽ trở nên tương đối an phận thủ thường. Nhưng phu nhân lại khác, tài trồng hoa cũng phải thách thức ở mức độ khó nhất, hơn nữa còn có thể xếp vào hàng đệ nhất thiên hạ. Nhìn từ phương diện này có thể thấy phu nhân là người hễ quyết định làm việc gì thì nhất định sẽ làm tốt nhất. Mà người có tính cách như phu nhân, tiểu nữ không tin nếu phu nhân thực sự thích cờ lại không chơi cờ giỏi được”.

Nụ cười trên khuôn mặt Đỗ Quyên vụt tắt, nàng ta cụp mắt không trả lời.

Khương Trầm Ngư đặt quân cờ trong tay vào lại chiếc bát, nhân tiện lật nhưng quân cờ khác: “Hơn nữa, bộ cờ này cũng thực sự hơi quá mới. Tiểu nữ tin rằng số lần nó được dùng tuyệt đối không quá ba lần”.

Khóe môi Đỗ Quyên kéo ra thành một đường cong, nửa cười nửa không nói: “Cô nương đoán đúng rồi. Thêm lần này nữa là hai lần ta sử dụng bàn cờ này”.

“Vậy còn lần trước?”. Khương Trầm Ngư kéo dài giọng ra đầy hàm ý. Đỗ Quyên quả nhiên nói tiếp: “Sáng nay, ta sai người ra chợ mua bộ cờ này, sau khi mở hộp, liền mời người đến dạy ta quy tắc cơ bản”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư bỗng thấy kinh hoàng – Đây là lần thứ hai nàng ta đánh cờ! Vốn nàng chỉ cảm thấy kỳ nghệ người này thường thường, nhưng khi biết được chân tướng mọi việc trở nên hoàn toàn khác, nàng tự hỏi, đổi lại là mình, liệu có thể chơi được vậy ngay trong lần thứ hai hay không, đáp án là không thể. Còn Đỗ Quyên đã làm được, xem ra sự thông tuệ của nàng ta vượt xa mình…

Trong lòng nàng chấn động, vì thế giọng nói hơi run run: “Tại sao phu nhân phải học chơi cờ?”.

Đỗ Quyên đáp lại nhanh chóng: “Bởi vì ta nghe nói cô nương biết chơi cờ”.

Khương Trầm Ngư càng không hiểu: “Tại sao tiểu nữ biết chơi cờ phu nhân lại phải học”.

Gương mặt Đỗ Quyên lộ một vẻ vô cùng phức tạp, im lặng một lúc lâu mới ngẩng đầu nhìn thẳng về phía Khương Trầm Ngư, chậm rãi nói bằng một giọng nói rất nghiêm trang: “Bởi vì ta rất muốn mượn cơ hội này để quen biết cô nương. Khương Trầm Ngư, ta muốn quen biết ngươi… đã… rất lâu rất lâu rồi”.

Khương Trầm Ngư hoàn toàn ngây người ra.

“Cảnh báo? Ai muốn cảnh báo chúng ta? Tại sao phải cảnh báo”. Tiết Thái hỏi dồn.

Cơ Anh không trả lời, chàng vừa cầm chiếc bút lông lên bắt đầu viết như múa trên tờ giấy viết ư, vừa hỏi vặn lại: “Lại kiểm tra ngươi, bây giờ đích xác là chúng ta đang gặp nguy hiểm, vậy theo ngươi chúng ta nên làm thế nào?”.

“Phân tích điểm mạnh yếu của bản thân, để tìm cách tự bảo vệ mình”.

“Thế thì, điểm mạnh nhất của chúng ta là gì?”.

Mắt Tiết Thái sáng lóe lên mấy cái: “Đại tướng quân Phan Phương”.

Cơ Anh cười cười.

Tiết Thái quay người nói: “Bây giờ tiểu nhân đi tìm tướng quân! Có tướng quân và Chu Long ở đây, cho dù có mười bảy mười tám thích khách cũng không sợ!”.

Cơ Anh không ngăn cản mà chỉ hờ hững nhìn hắn lao ra ngoài, nhưng ngón tay Tiết Thái vừa chạm vào tay nắm cửa liền đột ngột dừng lại: “Không đúng!”.

Cơ Anh nhướng mày.

“Không đúng…”. Bàn tay Tiết Thái bắt đầu run rẩy, khi quay người trở lại vẻ mặt hắn đã thoáng kinh sợ mất bình tĩnh: “Với chúng ta thì chiếc ô bảo vệ mạnh nhất chính là Phan Phương. Nếu chúng ta có thể nghĩ tới, thì hà cớ gì địch nhân không thể nghĩ tới? Vì thế nếu có người muốn đối phó với chúng ta, bước đầu tiên chính là loại bỏ Phan Phương, chặt đứt cánh tay của chúng ta. Nếu bây giờ thuộc hạ đi tìm Phán phương, e rằng sẽ rơi vào cảnh khốn đốn hơn nữa”.

Nụ cười nơi khóe môi Cơ Anh lại sâu thêm một phần, cho đến lúc này trong đáy mắt mới lộ vẻ tán thưởng.

“Cho nên, bây giờ tìm Phan Phương cũng vô ích, có lẽ chính hắn cũng khó bảo toàn. Vậy nên tìm ai đây? Lẽ nào là… Giang Vãn Y?”.

Cơ Anh vẫn không tỏ thái độ gì, im lặng nhìn Tiết Thái.

Tiết Thái ngẫm nghĩ một lúc, lại lắc đầu: “Hắn cũng không được Y thuật của hắn cao siêu thiên hạ đều biết. Địch nhân cũng không thể để hắn ở lại bên cạnh chúng ta… Chẳng trách mụ vợ của Vệ Ngọc Hành vừa ăn cơm xong đã cấp tốc gọi hắn đi hóa ra là như thế!”

Cơ Anh không khỏi mỉm cười: “Mụ vợ? Ngươi dùng từ càng ngày càng thô tục rồi đấy”

Tiết Thái lườm chàng một cái: “Thô tục thì đã làm sao? Bây giờ tiểu nhân đã là kẻ hạ liện, dùng từ văn vẻ để làm gì? Dẫu sao cũng không thể đỗ trạng nguyên”.

Cơ Anh bắt đầu day lông mày đầy vẻ bất lực. Tiết Thái trừng mắt nhìn hàng: “Mụ vợ! Mụ vợ!”.

“Được rồi được rồi. Mụ vợ”. Cơ Anh lấy tay ra hiệu hắn nói tiếp.

Bấy giờ Tiết Thái mới hài lòng, ngẩng đầu lên tiếp: “Thuộc hạ cảm thấy Vệ Ngọc Hành có vấn đề. Nhớ năm đó, hắn đỗ trạng nguyên vẻ vang biết bao nhiêu, nhưng vì cự tuyệt một nữ nhân dám mặt dày mày dᮠđòi cưới hắn mà bị tả tướng ghi nhận trong lòng, đẩy đến cái xứ rách nát chim chẳng buồn ỉa này…”.

Khi Cơ Anh nghe đến bốn chữ “chim chẳng buồn ỉa”, khóe mắt lại hơi giật giật. Nhưng Tiết Thái căn bản chẳng buồn để ý đến phản ứng của chàng, vẫn thao thao bất tuyệt: “Đại trượng phu sao có thể cam tâm thu mình ở chốn này, suốt ngày xử lý những việc vặt vãnh như nhà đông bị ăn trộm mất con gà, nhà tây bị thiếu con chó? Nam nhi hảo hán là phải chinh chiến sa trường giết giặc lập uy, giáp sắt giáo dài, thiên binh vạn mã, chặt đầu giặc, tắm máu thù, bảo vệ lê dân bách tính, giữ gìn xã tắc non sông…”.

Cơ Anh khẽ than: “Nếu ngươi nói gọn hơn một chút, ta sẽ cho ngươi điểm cao hơn”.

Tiết Thái bước nhanh đến cạnh chàng: “Vậy thì chính là bốn chữ: Khuất (1)tài , Đố kỵ”.

“Đố kỵ ai?”.

“Đố ky với ngài”. Tiết Thái tiến đến trước mặt chàng, hạ thấp giọng, nhưng lại nở nụ cười có vài phần ác ý: “Cho nên, hắn đặt bẫy để hại ngài. Chủ nhân của ta ạ ” .

“Ngươi là ai?”.

Ánh lửa trong chiếc bếp lò nhảy nhót bập bùng mờ mờ tỏ tỏ chiếu lên mày mắt của hai người ngồi đối diện nhau. Nước trong ấm sắp bốc hơi cạn hết, bắt đầu phun khói ra ngoài.

Khương Trầm Ngư nhìn Đỗ Quyên không chớp mắt: Ban đầu chỉ cảm thấy nữ tử này tương mạo bình thường nhưng có phong thái đẹp, bây giờ nhìn kỹ bất chợt lại thấy có cảm giác quen thuộc như đã từng quen biết. Đôi mắt này, cái mũi, cái miệng này dường như đã từng gặp ở đâu đó.

Uổng cho nàng xưa nay luôn tự phụ về trí nhớ của bản thân chỉ can là sách đã đọc qua, lời từng nghe qua, người từng gặp qua là tuyệt đối không quen. Nhưng bây giờ càng nhìn vị Đỗ Quyên phu nhân này nàng càng thấy quen mắt, nhưng không tài nào nhớ ra nổi.

“Ngươi là ai?”. Khương Trầm Ngư nén giọng hỏi lại một lần nữa. Chuyến này nàng hành động cơ mật, dẫu cho về sau số người biết thân phận thực sự của nàng càng ngày càng nhiều nhưng phu nhân của một thành chủ cỏn con nơi biên ải cũng biết được, thì thật sự quá đáng ngờ. Hơn nữa, vị thành chủ phu nhân này xem ra không chỉ biết “một chút”. May từ rất lâu rất lâu” của nàng ta có ý gì?

Hết nghi ngờ này đến nghi ngờ khác nổi lên trong đầu Khương Trầm Ngư, rõ ràng là một đêm mưa rào lạnh lẽo, nhưng sau lưng nàng mồ hôi chảy ròng ròng ưới đẫm.

Biểu cảm của Đỗ Quyên so với nàng cũng không nhẹ nhõm là bao nhiêu, khóe miệng nàng ta nở một nụ cười có ba phần ngậm ngùi ba phần chần chừ ba phần cô độc và một phần đau thương không thể nói rõ, chậm rãi nói: “Ta? Không phải người trong thiên hạ đều biết ta là ai sao? Một kẻ mù tốt số đựcc gả cho võ trạng nguyên, một người vợ mù vô đức hại chồng đến nỗi uất ức bất đắc chí, một nữ nhân được rất nhiều người hâm mộ cũng bị rất nhiều người ghen ghét”. Khương Trầm Ngư hỏi thẳng: “Tại sao ngươi biết ta?”.

“Ta không chỉ biết ngươi, mà còn biết cha mẹ ngươi, ca ca, tỉ tỉ của ngươi…”. Đỗ Quyên lại cười, ngũ quan nàng ta bình thường, nhưng khi cười lại có phần thanh tú, mũi hơi chun lại, hai lúm đồng tiền bên khóe miệng như ẩn như hiện. Khương Trầm Ngư “a” một tiếng đứng bật dậy, giơ một ngón tay run rẩy chỉ vào mặt nàng ta, kêu lên thất thanh: “Ngươi, ngươi, ngươi là…”.

Đỗ Quyên hơi ngẩng mặt lên, tiện cho nàng nhìn rõ hơn: “Ngươi nhận ra rồi, đúng không?”. Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn nàng ngồi phịch xuống chiếc ghế, sững sờ nhìn gương mặt nàng ta, không thốt nổi nửa lời.

“Nếu như chỉ là đố kỵ, vậy như ngươi nói lá gan của Vệ Ngọc Hành quá lớn rồi”. Im lặng một lúc rất lâu, cuối cùng Cơ Anh mới mở miệng nói vậy.

Tiết Thái nghe xong liền bĩu môi cười: “Đã đến nước này rồi, ngài còn phải tự lừa mình dối người làm gì?”.

Cây bút trong tay Cơ Anh dừng lại, mực rở giọt trên trang giấy đang bắt đầu nhòe đi, giống như sắc đêm ngoài kia, tối tăm mà ẩm ướt. Trong mắt chàng bỗng dấy lên bao nỗi đau thương.

Tiết Thái vừa lạnh lùng nhìn chàng vừa nói: “Chuyến đi đến Trình quốc lần này của hầu gia tiến hành bí mật, lúc sắp về lại đổi ứng cử viên làm Trình vương, khi đó thuộc hạ đã cảm thấy có điểm không ổn. Giờ ngài vừa bước chân lên địa bàn Bích quốc đã bị người ta dòm ngó, theo tình hình trước mắt xem ra đối phương đã giăng bẫy đợi ngài nhảy xuống từ lâu rồi. Vậy ai là người có thể biết hôm nay chúng ta sẽ đến Hồi thành sớm nhất? Ai là người có quyền lực để ra lệnh cho Vệ Ngọc Hành? Hiện tại, ở Bích quốc ai có thể xuống tay với ngài, dám xuống tay với ngài?”.

Cơ Anh nhíu mày, nói: “Đừng nói nữa”.

Tiết Thái vẫn không ngừng, nói càng lúc càng nhanh: “Săn được thỏ rồi thì giết thịt chó săn. Gia tộc lớn mạnh ở Bích quốc không chỉ là một mình Tiết gia…”.

“Ta nói, đủ rồi!”. Cơ Anh quát lên một tiếng rồi nhận ra mình đã thất thố, sững sờ một lúc.

Tiết Thái nhìn chàng với vẻ thông cảm.

Cơ Anh day day lông mày, lắc đầu nói: “Không đâu… Không đâu. Y sẽ không làm vậy đâu”.

“Năm đó, gia gia ta cũng cho rằng y sẽ không làm vậy”. Sự thông cảm trong mắt Tiết Thái nhạt dần, thay vào đó là một sự lạnh lùng như băng giá nghìn năm. Cơ Anh ngẩng đầu lên, rồi lại im lặng đến thất thần, mới lẩm bẩm: “Không đâu. Ta và tổ phụ của ngươi khác nhau, chúng ta… khác nhau”.

Thấy chàng khẳng định như vậy, Tiết Thái bất giác nảy sinh nghi ngờ.

Cơ Anh hít sâu vào một hơi, đưa bút viết tiếp, vừa viết vừa nói: “Bây giờ tranh luận những thứ này chẳng có ý nghĩa gì chân tướng sự tình thế nào, đợi sau rồi hãy nói. Trước tiên, ngươi hãy đưa giúp ta phong thư này”.

“Với tình hình hiện tại, chúng ta còn có thể ra ngoài sao?”.

Cơ Anh gấp lá thư đã viết xong lại, bỏ vào phong bì, rồi đưa đến trước mặt Tiết Thái, chỉ nhìn thấy trên lá thư có hình Bạch Trạch, nét bút vẫn rất đẹp, không hề rối loạn, viết tên một người – Vệ Ngọc Hành.

Khương Trầm Ngư cảm thấy mình như rơi xuống vách đá cheo leo, vì mất trọng lực mà choáng váng không thể nhúc nhích, không thể suy nghĩ, thậm chí không thể hít thở.

Một giọng nói vang lên từ đáy lòng: Đừng nghĩ, Trầm Ngư, đừng nghĩ nữa. Sẽ đau, sẽ rất đau rất đau đấy. Nhưng lại một giọng nói khác đều đều, không cảm xúc, rành mạch đến lạ thường vang lên bên tai: “Ngươi nghĩ ra rồi, đúng không? Họ đều nói trong những đứa con của Khương gia, ngươi là người xuất sắc nhất, thông minh như ngươi, đương nhiên sẽ nghĩ ra”.

Mắt Khương Trầm Ngư bỗng trào lệ, bàn tay nàng nắm chặt, buông lỏng, rồi lại nắm chặt, nhưng vẫn không thể ngăn được sự run rẩy phát ra từ linh hồn mình.

Giọng nói của Đỗ Quyên vẫn vô cùng bình tĩnh: “Lệnh đường thích hoa lan của ta không?”.

Nước mắt rõ ràng đã đâng lên trong mắt, nhưng vẫn ngần ngừ chưa rớt xuống, Khương Trầm Ngư giữ tư thế hơi cúi đầu cứng nhắc đáp: “Rất thích. Nhưng số hoa đó đến nhà ta đều không sống qua nổi mùạ đông năm đó”.

Đỗ Quyên nói: “Điều đó là tất nhiên”.

“Mẫu thân mới biết bao thợ trồng hoa đến đều không ăn thua. Bà cử tưởng là vì bà không có duyên trồng loại hoa này, bây giờ mới biết…”.

Đỗ Quyên thay nàng nói tiếp: “Bây giờ mới biết, sự thực là ta đã chôn độc vào dưới đất trồng hoa. Nếu như hoa của nhà ngươi không chết, thì ta đâu có gì để tiếp tục gửi hoa tới?”.

Mắt Khương Trầm Ngư đỏ hơn: “Mẫu thân luôn muốn có lan cánh cúc”.

“Cho nên ta trồng nó bao nhiêu năm nay, cuối cùng đã thành công. Ngươi có thể mang về cho lão nhân gia”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt Đỗ Quyên: “Ta còn có thể quay về sao?”.

Đỗ Quyên nhếch môi cười: “Nếu không, ngươi tưởng vì sao ngươi ở đây?”.

“Ngươi không có bệnh, nhưng lại sai dì Mai mời Giang Vãn Y khám bệnh cho ngươi, là vì ngươi biết chắc ta nhìn thấy số hoa lan đó sẽ muốn gặp người trồng hoa, mà ta là sư muội của Giang Vãn Y, huynh ấy đi ta đương nhiên cũng đi theo. Sau đó, ngươi lại cố ý đòi ta chơi cờ cùng ngươi, là muốn giữ chân ta ở đây, ta đã ở đây rồi, cũng có nghĩa là…”. Khương Trầm Ngư nói đến đây liền nghẹn ngào: “Những nơi khác đều không an toàn, đúng không?”.

Đỗ Quyên khen ngợi: “Quả nhiên ngươi rất thông minh. Không chỉ thông minh, nghe nói ngươi còn là một mỹ nhân. Vừa thông minh vừa xinh đẹp lại vừa có phúc. Ta ngưỡng mộ ngươi biết bao”.

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, cuối cùng bật ra câu hỏi then chốt nhất: “Vệ Ngọc Hành định làm gì Kỳ Úc hầu?”.

Đỗ Quyên nhướng mày, chậm rãi hỏi ngược lại: “Ngươi nói xem?”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy một tiếng lớn, chói tai, chát chúa, hơn nữa không thể bịt tai, không thể trốn tránh, vì đó là tiếng động phát ra từ bên trong cơ thể nàng.

Đó là tiếng trái tim vỡ nát.

“Thuộc hạ không tin Vệ Ngọc Hành sẽ đến vào lúc như thế này”. Tiết Thái không cầm mà nhìn chằm chằm phong thư đó.

Cơ Anh nhướng mày: “Tại sao ngươi không thử xem”.

“Không cần thử cũng biết, chẳng phải rõ ràng lắm sao? Hắn bố trí thiên la địa võng để chuẩn bị giết ngài, sao có thể tự mình đến trước mặt ngài trong thời khắc mấu chốt này, để cho ngài có cơ hội xoay chuyển tình thế?”.

Cơ Anh vẫn kiên trì: “Ngươi cứ đưa đi rồi sẽ biết”.

Tiết Thái hồ nghi nhìn chàng, cuối cùng nhận lấy phong thư, mở cửa bước ra.

Cơ Anh nhìn hắn bước ra ngoài, không biết hắn nói những gì với thủ vệ. Thủ vệ lùi lại một bước thả cho hắn đi, sau đó, bóng dáng nhở bé đó liền biến mất bên ngoài bức tường bao không nhìn thấy đâu nữa. Cơ Anh chớp mắt, đồng tử sâu thăm thẳm như đang nghĩ ngợi điều gì, lại như chẳng nghĩ gì. Cuối cùng, chàng từ từ đứng dậy, xốc lại áo, chắp tay đi đến trước cửa sở, đẩy cửa sổ nhìn ra màn mưa mù thê lương mờ mịt bên ngoài, mở miệng thì thầm: “Vẫn… không muốn tỉnh… giấc mộng lớn này”.

Bỗng một ngọn lửa bùng, trong chớp mắt đốt cháy màn đêm.

Ánh sáng màu đỏ tràn vào cửa sổ mà không hề báo trước, tiếp sau nó âm thanh ồn ào vang lên bên ngoài tường bao ở phía xa, loáng thoáng nghe thấy có một người hét lên: “Cháy rồi…”.

Trái tim của Khương Trầm Ngư bỗng thít chặt lại, cơ thể bật dậy theo bản năng, lao đến bên cửa sổ.

Đẩy cửa sổ ra, chỉ thấy phía Đông đã đỏ rực một góc trời, khói đen cuồn cuộn, vô số tiếng kêu tiếng hét vang lên, rõ ràng cảnh tượng hỗn loạn đến cực điểm, nhưng vì ngăn cách bởi một bức tường mà phân thành hai thế giới.

Khương Trầm Ngư run giọng nói: “Công tử…”.

Đông viện là nơi ở của Cơ Anh.

Bàn tay nàng bất chợt bấu chặt vào mép cừa sổ, nàng túm váy trèo qua cửa sổ chứ chẳng buồn đi lối cửa ra vào, một đôi bàn tay to bè thô ráp bỗng tóm chặt lấy eo nàng, ném nàng trở lại ghế. Nàng còn đang giãy giụa, người đó đưa ngón tay nhanh như chớp điểm vào mấy huyệt đạo của nàng, cơ thể nàng lập tức không thể nhúc nhích.

Người đó chính là dì Mai.

Dì Mai thu tay lại, cung kính nói: “Đắc tội rồi, tam tiểu thư”.

Đỗ Quyên đứng bên cạnh lạnh nhạt nói: “Nếu không muốn bị thương Khương tam tiểu thư nên ngoan ngoãn nghe lời thì hơn”.

“Sao ngươi dám làm thế này! Sao ngươi lại dám làm thế này! Ngươi, ngươi…”. Khương Trầm Ngư tức đến nỗi thở hổn hển, trong đáy mắt tràn ngập nỗi tuyệt vọng: “Cơ Anh chính là rường cột quốc gia, ngươi giết ngài là muốn đầy Bích quốc vào chỗ nào đây?”.

Đỗ Quyên nghe thấy lạnh lùng cười nhạt: “Năm đó mọi người đều cảm thấy Tiết Hoài chính là gốc rễ của nước nhà”.

Tiết Hoài phản quốc, trừ bỏ là chính nghĩa. Nhưng Cơ Anh không phải! Ngươi giết ngài ắt sẽ có vô số tử sĩ báo thù cho ngài, những môn sinh đó của ngài sao có thể chịu để yên? Hà cớ gì ngươi phải gánh tội danh đại nghịch thiên hạ?”.

Đỗ Quyên phá lên cười ha hả: “Thật kỳ lạ, giết Cơ Anh rõ ràng là người khác, ta có tội danh gì mà phải gánh?”.

Khương Trầm Ngư sững sờ.

Đỗ Quyên lười biếng nhíu mày, nhìn chòng chọc vào hướng đối diện – phía nàng bằng cặp mắt vô hồn, không chút ánh sáng, rất nhẹ nhàng, từ tốn nói: “Lẽ nào không phải là tam hoàng từ của Trình quốc, Di Phi bí mật đàm phán với Kỳ Úc hầu không thành, cho nên thẹn quá hóa giận, lật mặt trong phút chốc, cuối cùng cả hai cùng lưỡng bại câu thương sao?”.

Trước đó Khương Trầm Ngư cảm thấy trái tim mình đang vỡ nát, đau đến mức không thế hít thở, nhưng nghe câu nói này xong, trái tim nàng không đau nữa, bởi vì đã hoàn toàn không còn trái tim nữa rồi.

Khi ánh lửa bùng lên, Tiết Thái vẫn chưa đi đến tòa nhà chính, màn mưa đêm trong sân bị luồng ánh sáng đỏ chiếu vào trong nháy mắt trở nên rực rỡ, hắn lập tức quay đầu, liền nhìn thấy phía Đông viện ngọn lửa rừng rực bùng lên giống như một chiếc miệng lớn nuốt trọn toàn bộ khu nhà.

Phản ứng đầu hên của hắn chính là chạy về, nhưng chân trái vừa nhấc liền dừng lại đột ngột, sau đó thì đứng im không nhúc nhích giống như ngây như ngốc nhìn chằm chặp vào ngọn lửa càng cháy càng lớn đó.

Bên cạnh, vô số người cuống quýt chạy qua, lẫn trong đó là một giọng nói quen thuộc: “Có chuyện gì thế?”. Hóa ra là giọng của Vệ Ngọc Hành.

Vệ Ngọc Hành mặt đầy sửng sốt nhìn ngọn lửa lớn bùng lên ở Đông viện, hắn nhấc gấu áo, bước nhanh về phía trước nói: “Lệnh xuống, mau dập lửa, lấy nước cứu người!”.

Tiết Thải không nhúc nhích, im lặng nhìn chằm chằm vào hắn, hắn đi đến bên cạnh tường bao, nhấc thùng nước mà đám người hầu mang tới, hắt vào phía trong sân. Vì hắn dáng cao như ngọc, lại mặc áo tím, cho nên nổi bần bật, cực kỳ bắt mắt glữa đám đông lúc nhúc.

Tiết Thái không kìm được nghĩ: Quá chân thật… Cảnh tượng trước mắt quá chân thật. Giống như một vở kịch đã được diễn tập vô số lần, đạo cụ, diễn viên, thiên thời, địa lợi, đầy đủ tất cả.

“Thành chủ, ngọn lửa này lạ quá!”. Một người hầu thét lên: “Theo lý mà nói, mưa to như thế này, lừa không thể cháy mới đúng, nhưng ngọn lửa này không những không tắt mà còn càng bùng to hơn! Thành chủ, ngài nhìn mà xem bao nhiêu nước hắt vào đều vô ích…”.

“Câm mồm!”. Vệ Ngọc Hành một tay đẩy gã người hầu ra, tiếp tục đón thùng nước trong tay người khác hắt thật mạnh vào trong. Ai ngờ lửa gặp nước lại càng bốc mạnh hơn, còn liếm ngược trở lại suýt nữa thì cháy lan đến chính bản thân hắn.

“Thành chủ cẩn thận!”. Đám người hầu hoảng loạn.

Vệ Ngọc Hành cắn răng, dứt khoát nhấc một thùng nước dội lên người, rồi lại dùng chiếc áo khoác sũng nước bịt mũi, chẳng nói chẳng rằng xông thẳng vào trong đám lửa.

Tất cả mọi người kinh ngạc thất sắc kêu gào: “Thành chủ! Thành chủ…”.

Tiết Thái lạnh lùng đứng bên cạnh nhìn, vẫn không thốt một lời, thò tay vào tay áo, móc lá thư mà Cơ Anh sai hắn chuyển tới Vệ Ngọc Hành ra, chầm chậm mở…

Mưa rơi rào rào, nhanh chóng thấm ưới trang giấy.

Phong thư mở ra, trắng muốt như tuyết, không chút ố bẩn, không có vết mực… Đó là một trang giấy trắng.

Nước mát rót vào trong ấm nước đã bị lửa đun đỏ rực, bốc lên một làn khói trắng. Dì Mat rót nước trong ấm vào chén, sau cùng bưng chén đến trước mặt Khương Trầm Ngư: “Tam tiểu thư, uống trà”.

Khương Trầm Ngư mím môi không mở miệng.

Đỗ Quyên ở bên cạnh nói: “Ta khuyên ngươi ít nhiều cũng nên uống một ngụm, mưa to thế này, hương hoa nồng nặc, ngươi hít vào trong người một số thứ không nên hít, ta lại không muốn làm tổn thương đến ngươi”.

“Ngươi hạ độc bọn ta?”. Khương Trầm Ngư nghe thấy một giọng nói khàn đặc, sau đó mới phát hiện ra đó chính là giọng của mình.

Đỗ Quyên lắc lắc đầu: “Giang Vãn Y là thần y, sao ta có thể múa rìu qua mắt thợ. Có điều có những thứ, ngay đến cả đại phu cũng không có cách gì phòng được”.

“Ngươi đã làm gì?”.

“Ngươi uống xong chén nước này, ta sẽ nói cho ngươi biết”.

Dì Mai lại bưng chén nước kề sát môi Khương Trầm Ngư, mắt nàng đỏ vằn lên, cuối cùng đành há miệng. Dì Mai thuận thế dốc cả chén nước vào miệng nàng.

“Đúng rồi, như thế mới ngoan”. Đỗ Quyên cũng không úp úp mở mở, thẳng thắn giải thích: “Trên thế gian này có rất nhiều thứ vốn không độc, nhưng kết hợp với nhau lại có thể biến thành không an toàn. Trong bữa tiệc tối, ngoại trừ trong thức ăn ở bàn của ngươi và Giang Vãn Y là không bỏ một loại hương liệu tên là “Ngọc Lộ”, còn những người khác đều ít nhiều nếm phải nó, đặc biệt là Kỳ úc hầu ăn nhiều nhất”.

Mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch, rất vất vả mới nói nên lời: Có Ngọc Lộ, sẽ có Kim Phong, đúng không?”.

“Rất thông minh. Cái gọi là Kim Phong thực ra chính là mùi hương tỏa ra từ phần rễ của hoa súng”. Đỗ Quyên nhướng mày nói: “Kim Phong Ngọc Lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số(2 ). Kỳ úc hầu ăn Ngọc Lộ vào, lại ngửi mùi Kim Phong, e rằng muốn bỏ nhân gian mà đi…”.

Kim Phong Ngọc Lộ hễ tương phùng.

Có lúc bi ai đến cùng cực, lại muốn bật cười.

Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên, nước mắt lại trào ra khỏi tròng mắt theo nụ cười mỉm đó, lặng lẽ rơi xuống.

Đây là lần thứ hai nàng nghe thấy câu nói liên quan đến Cơ Anh này, lần đầu tiên là ở Trình quốc, khi Di Thù mê hoặc Cơ Anh. Công tử và câu nói này thật có duyên… thật có duyên… thật có duyên…

Đầu óc nàng đã hoàn toàn đánh mất sự nhanh nhạy cơ trí thường ngày, nên đành nhắc đi nhắc lại phán đoán vô cớ này hết lần này đến lần khác.

Nàng ngồi đấy nhìn ngọn đèn, nghe tiếng người, liên tưởng đến nam tử áo trắng phấp phới đó, lại nhìn kỹ nữ nhân mỉm cười gần ngay trong gang tấc này, chỉ cảm thấy tất cả của tất cả đều không chân thực.

Không chân thực biết bao.

“Hãy giết ta đi!”. Khương Trầm Ngư nói khẽ bằng một giọng điệu bình tĩnh đến chết chóc.

Nụ cười trên gương mặt Đỗ Quyên nhạt dần! vẻ mặt phức tạp im lặng rất lâu, rồi mới trả lời: “Ngươi biết điều này là không thể”.

“Hãy giết ta đi”. Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu rồi lại chậm rãi thở ra, nói ra hai hếng cuối cùng: “Tỉ tỉ”.

Giấy trắng.

Tiết Thái bất động hồi lâu.

Mưa tầm tã thấm ướt trang giấy trắng, nó không còn cứng cáp nữa mà mềm oặt rũ xuống.

“Thật… là… làm bộ làm tịch…”. Tiết Thái khẽ lầm bầm. Rõ ràng trước đó vẫn viết chữ, sau cùng lại đưa cho hắn một tờ giấy trắng, đúng là nếu luận về giả vờ giả vịt, làm bộ làm tịch, thì trên đời này chẳng ai bì được với Cơ Anh.

Nhân lúc tứ phía hỗn loạn, Tiết Thái vo tròn tờ giấy bỏ vào trong tay áo, vuốt nước mưa trên mặt, quay người đi lẫn vào trong màn mưa, không lâu sau thì biến mất giữa biển người.

Mà cùng lúc đó trong Tây viện, hai người ngồi im lặng đối diện nhau, không ai chịu lên tiếng trước.

Bỗng một người vội vã mở cửa chạy vào, hoảng hốt nói: “Phu nhân phu nhân, không hay rồi không hay rồi!”.

Đỗ Quyên khẽ cau mày: “Chuyện gì”.

“Đông viện bị cháy, thành chủ đã tự mình xông vào biển lửa cứu người”.

Đỗ Quyên “hừ” một tiếng: “Biết ngay là y sẽ làm thế. Dì Mai, dì đi xem, dì biết phải làm thế nào rồi chứ?”.

“Vâng”. Dì Mai cùng với người đó mau chóng rời đi. Cứ thế, trong căn phòng chỉ còn lại hai người: Khương Trầm Ngư và Đỗ Quyên. Đỗ Quyên xoắn một món tóc, cười rất tươi: “Từ lúc nào muội biết đến sự tồn tại của ta?”.

“Mười tuổi”.

“Làm sao biết được?”. Trên gương mặt Đỗ Quyên thoáng chút mỉa mai: “Chuyện xấu xa như thế, lệnh tôn không thể nói thẳng cho muội nghe được, đặc biệt có cả… vị Khương Họa Nguyệt kia”.

Đáy mắt Khương Trầm Ngư nổi lên chút mơ hồ – Đúng thế, rốt cuộc làm sao mà nàng biết được? Thực ra, chẳng phải là luôn không hay biết gì sao?

Tuy những dấu vết đó tản mát trong nhưng mảnh ký ức, nhưng nàng thực sự chưa từng sắp xếp và phân tích chúng. Chỉ là loáng thoáng biết rằng, phụ thân có bí mật, mà bí mật đó ông không chỉ giấu ba huynh muội nàng, giấu mẫu thân, mà còn giấu tất cả mọi người…

Mng một Tết năm nàng lên mười.

Quản gia mang đến một bồn hoa lan, nói là không biết ai đã đặt ở ngoài cửa, nhìn đẹp mắt, lại nhớ ra phu nhân yêu hoa, cho nên mới bưng vào dâng lên. Đương nhiên là mậu thân rất vui vẻ, cảm thấy trời ban báu vật, coi đó là điềm lành. Nhưng đêm đó khi chuyển bồn cho cây hoa, lại đào được một vật tư trong bọc đất, đó là một hòn vô cùng bình thường, phía trên vẽ hai con mắt.

Mẫu thân nhìn thấy tấm tắc kêu lạ, nhưng khi đưa cho phụ thân xem, phụ thân bất ngờ biến sắc.

Đêm đó, đèn trong thư phòng sáng cả đêm, rất nhiều ám vệ ra ra vào vào, bóng dáng phụ thân hắt trên giấy dán cửa sổ đi đi lại lại. Trực giác mách bảo với Khương Trầm Ngư rằng, có chuyện gì đó đã xảy ra. Nhưng phụ thân vẫn luôn thần thần bí bí như thế, vì vậy nên nàng cũng không nghĩ ngợi gì nhiều.

Từ đó về sau, mùng một Tết năm nào bên ngoài cửa phủ cũng xuất hiện một bồn hoa lan, mà người tặng hoa mãi vẫn không lộ diện. Nhắc đến chuyện này, dĩ nhiên mẫu thân nàng chỉ coi đó là một giai thoại, còn thái độ của phụ thân mỗi lần như vậy đều có gì đó gượng gạo.

Chắc chắn ông biết người tặng hoa là ai.

Hơn nữa, ông còn không định nói cho mẫu thân biết đáp án.

Vì thế, Khương Họa Nguyệt còn nói đùa, không chừng phụ thân có tình nhân ở bên ngơài, nên mùng một Tết mỗi năm vị tiều thiếp đó đều sốt sắng tặng quà cho đại nương. Khương Hiếu Thành tỏ vẻ đồng ý với kết luận này. Nhưng Khương Trầm Ngư lại không cho rằng như vậy. Bởi vì, một nam nhân giống như phụ thân nàng, nếu thực lòng muốn nạp thiếp bên ngoài, thì người thiếp đó tuyệt đối sẽ không có cơ hội xuất hiện trước mặt mẫu thân nàng với bất cứ hình thức hay cách thức nào; chứ đừng nói là sau lần đầu tặng quà bị phụ thân biết được, còn có lần thứ hai.

Về sau, khi bắt đầu học y thuật với Giang Vãn Y, lúc tra cứu tư liệu nàng vô tình phát hiện ra sự kỳ lạ của các thành phần dược liệu có mùi rất thơm mà Khương Họa Nguyệt uống, bao gồm hạt cải đầu và hoa cà tím. Theo “Bản thảo cương mục”, hạt cải dầu sắc cùng với sinh địa, bạch thược, đương quy và xuyên khung, uống vào sẽ có tác dụng triệt sản. Cũng tức là sẽ dẫn đến chứng vô sinh. Mà hoa cà tím cũng là thuốc tránh thai.

Tại sao trong phương thuốc chữa chứng vô sinh của Họa Nguyệt, lại có vị thuốc dẫn đến chứng không thể đậu thai?

Phát hiện điểm kỳ lạ này, Khương Trầm Ngư còn chưa kịp tiếp tục tra cứu kỹ hơn thì đã gặp chuyện ở Hồi thành.

Hôm nay, khi nhìn thấy hoa lan trong dịch trạm, trong tâm trí nàng hơi xao động nhưng vẫn chưa liên hệ ba sự kiện với nhau. Nhưng khi Đỗ Quyên nắm tay nàng, nói tặng hoa cho nàng, thì nàng đã bắt đầu lờ mờ cảm thấy có gì đó không đúng. Đến khi đánh cờ, phát hiện nụ cười thẹn thùng của Đỗ Quyên rất quen thuộc vì nàng ta giống mẫu thân của mình đến ba phần thì phong ấn lâu ngày cuối cung đã ầm ầm sụp đổ, ào ào lao ra, đó chính là lời nguyền rủa đối với vận mệnh, sự mỉa mai đối với gia tộc…

Nếu như, Đỗ Quyên chính là người tặng hoa đó;

Nếu như, Đỗ Quyên và phụ thân luôn ngầm liên hệ, vậy thì đó là mối quan hệ như thế nào mới có thể khiến phụ thân ngầm cho phép nàng ta tặng hoa cho mẫu thân hàng năm? Mới tiết lộ tin tức cơ mật Di Phi cũng ở trên thuyền đi sứ cho nàng ta? Và phải là tình cảm như thế nào thì mới khiến cho nàng ta tặng hoa cho phu nhân của hữu tướng hàng năm? Khiến nàng ta khi nhắc đến mẫu thân, lại đầy vẻ khao khát và tình cảm?

Một khả năng nào đó nổi lên trong đầu nàng…

“Tỉ tỉ”.

Khương Trầm Ngư thốt ra hai tiếng ấy bằng tâm trạng tuyệt vọng nhất cùng phong thái bình tĩnh nhất. Trong âm điệu có ba phần thăm dò bảy phần cầu nguyện. Đáng tiếc, kết cuộc cuối cùng là…

Đỗ Quyên không hề phủ nhận. Tại sao…

Tại sao lại để suy nghĩ hoang đường nhất này của nàng trở thành sự thực?

Tại sao lại để nàng biết trước đáp án, rồi lại đi đoán lý do? Giống như giờ này phút này, khi biết rõ thân phận thực sự của Đỗ Quyên rồi, cảm giác nghi hoặc mơ hồ trong đầu Khương Trầm Ngư đã biến thành một lưỡi dao cứng như thép, mỗi câu hỏi đều là một vết thương: Tại sao Đỗ Quyên lại là tỉ tỉ của nàng?

Tại sao tỉ tỉ của nàng lại bị mù?

Tại sao phụ thân chưa bao giờ nhận đứa con gái này?

Tại sao nàng ta lại được gả cho Vệ Ngọc Hành, giờ lại ngồi bày ván cờ ở đây?

Nàng ta muốn gì? Hay là, phụ thân… muốn gì?

Từng lý do trong đó, Khương Trầm Ngư không phải không thể nghĩ ra, mà là không dám. Nàng không dám nghĩ.

Nàng chỉ có thể sững sờ ngây ngốc nhìn Đỗ Quyên gần trong gang tấc, bờ môi run rẩy, ánh mắt lấp lánh lệ, một từ cũng không thốt nên nổi.

Nàng câm lặng, còn Đỗ Quyên lại lên tiếng: “Buồn sao? Trầm Ngư?”. Khương Trầm Ngư không lắc nổi đầu. “Đau lòng sao? Trầm Ngư?”.

Khương Trầm Ngư không nén nổi lòng.

Đỗ Quyên cười nhạt, giọng nói mảnh như tơ, tưng chút từng chút đan vào nhau, mềm mại khẽ khàng, nhưng rất chắc nịch: “Phát hiện mình vô duyên vô cớ có thêm một tỉ tỉ; phát hiện người trong lòng mình tính mạng như chỉ mành treo chuông; phát hiện một âm mưu tày trời thực ra đã bắt đầu được giăng bẫy, chuẩn bị, nung nấu từ rất nhiều năm trước; phát hiện cái thế giới mà ngươi tưởng rằng hạnh phúc, vui vẻ sung sướng thực ra là giả… phát hiện ra tất cả, ngươi có muốn khóc không?”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, không chịu trả lời.

Đỗ Quyên liền tự mình nói tiếp: “Nhưng so với kẻ không biết gì, hưởng phú quý trong mộng là ngươi, ta mới là kẻ có tư cách nhất, có lý do nhất để khóc chứ. Bởi vì, ta là kẻ bị hy sinh, bị vứt bỏ, bị tước đoạt quyền được hạnh phúc rồi lại phải cam tâm tình nguyện để cho người khác lợi dụng…”.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói mềm mỏng: “Ta… có thể không nghe được không? Ta… không muốn nghe”.

Trong thoáng chốc, mặt Đỗ Quyên sầm lại, nghiến răng nói: “Ngươi dựa vào cái gì mà có thể không nghe? Đây là vận mệnh của ta cũng là vận mệnh của Khương gia, ngươi, Khương Trầm Ngư, dựa vào cái gì mà không nghe?”.

Câu nói này giống như một cái bạt tai, đập mạnh vào mặt .Khương Trầm Ngư cả người nàng chao đảo, im lặng trở lại.

Thế là chuyện cũ thối nát trong chớp mắt đã làm vết sẹo vỡ toác chất dịch tanh tưởi màu đen tràn ra khắp nơi, mưa rơi sấm giật bên ngoài cửa sổ, rõ ràng là mùa hạ tháng tám oi bức, nhưng đêm nay lại lạnh đến thấu linh hồn.

Ngày hai mươi tư tháng sáu của mười tám năm về trước, trong nhà của hữu tướng Khương Trọng, Khương phu nhân sau cơn giày vò đau đớn suốt ba ngày trời, cuối cùng đã sinh hạ một cô con gái, nhưng Khương Trọng còn chưa kịp được hưởng niềm vui có con gái cưng đã phát hiện đứa bé này bị mù bẩm sinh.

Sau khi cửa phòng sinh đóng im ỉm suốt một canh giờ, Khương Trọng mới mở cửa bước ra, tuyên bố với bên ngoài con gái vừa chào đời đặt tên là Họa Nguyệt.

“Thừa tướng phu nhân mong đợi đứa trẻ này đã lâu, nếu biết đứa trẻ mình hoài thai sụốt mười tháng trời, đau đớn ròng rã ba ngày mới sinh hạ lại là một đứa bé mù, thì hẳn sẽ đau lòng biết bao nhiêu. Sinh con khó khăn, cơ thể suy nhược khí tức yếu ớt, nếu tiếp tục bị kích thích, e là bà sẽ không chịu được cú sốc này mà qua đời. Cho nên, người vốn cực kỳ yêu vợ như thừa tướng đại nhân đã mua chuộc đám người hầu, bà đỡ có mặt hôm đó, đem đổi lấy một bé gái khỏe mạnh. Đứa bé mù bị đem cho một đôi vợ chồng câm điếc trong một thôn hẻo lánh nuôi. Còn đứa bé khỏe mạnh kia được giữ lại trong phủ, trở thành đại tiểu thư ngồi mát ăn bá vàng”. Giọng điệu của Đỗ Quyên rất bình tĩnh, thậm chí không hề có chút lên xuống nào, nhưng sự mỉa mai tràn ngập gương mặt: “Thừa Tướng đại nhân yêu vợ ông ta làm sao, vì sự an nguy của vợ mà đến đứa con ruột cũng chẳng cần, thật khiến người ta xúc động. Tình yêu vĩ đại quá… chậc chậc châc… ngươi không cảm động ư? Trầm Ngư? Hơi thở của người sao lại gấp gáp như thế? Ngươi đang khóc sao? Thực ra ngươi đâu có gì phải khóc? Ta nghe nói không những người khỏe mạnh mà còn rất xinh đẹp, không những xinh đẹp mà còn rất thông minh, không những thông minh, quan trọng nhất là ngươi còn rất hiếu thuận. Thứ họ muốn chính là một đứa con gái như ngươi đấy. Ngươi là đứa con phù hợp với tất cả mọi điều kiện của Khương gia, cho nên, ngươi không bị đánh tráo, ngươi đâu cần phải khóc”.

Một tia chớp xé trời, soi rõ gương mặt trắng xanh lạnh lùng và méo mó của Đỗ Quyên. Nàng ta vừa cười tự trào như thế, vừa tiếp tục chậm rãi nói với giọng như nước không gợn sóng: “Thuở nhỏ, cha và mẹ nói với ta, trong núi có một nàng tiên hoa, người có duyên nếu có gặp được nàng, cầu ước điều gì cũng sẽ thành sự thực. Cho nên, rõ ràng ta không nhìn thấy gì, nhưng ngày nào cũng chạy vào trong núi, ta luôn hy vọng có thể gặp được nàng tiên hoa ấy cầu xin nàng chữa lành đôi mắt cho ta, chữa lành đôi tai cho cha, chữa lành cổ họng cho mẹ, để cả nhà chúng ta được khỏe mạnh, giống như những người bình thường khác. Ta cứ tìm mãi tìm mãi mà không thấy nàng tiên hoa, nhưng lại học Được rất nhiều thứ, ví như có một số loài hoa phải trồng bằng những cách đặc biệt, có những loài hoa nhìn có vẻ an toàn nhưng thực ra là loài kịch độc. Ta học từng chút từng chút một, sờ mó từng chút từng chút một, cuối cùng, năm mười ba tuổi, chậu hoa lan lớn nhất ta trồng đã bắt đầu nở hoa. Cha mẹ bàn sẽ đem nó tặng cho vị đại ân nhân của họ, ta rất không nỡ nhưng họ vẫn đem đi. Tết đến, họ đi mấy chục dặm đường núi để tặng hoa, rồi lại đi mấy chục dặm đường núi để quay về, tâm trạng rất vui vẻ hào hứng, cảm thấy mình đã báo đáp được vị đại ân nhân đó. Nhưng ngày hôm sau, khi ta còn chưa tỉnh ngủ, đã ngửi thấy mùi máu tanh vấy khắp mọi nơi… Ngươi đang nín thở sao? Ngươi cũng đoán được chuyện gì rồi chứ? Không sai, bồn hoa đó đã gây ra đại họa, vì ta đã vẽ một đôi mắt trên hòn đá rồi vùi vào trong đất để cầu nguyện với thần hoa. Nhưng kẻ có tật giật mình nào đó lại tưởng đó là sự uy hiếp, nên cả quyết sai bọn ám vệ, cha và mẹ ta…”. Nói đến đây, Đỗ Quyên ngừng lại một lát, giọng nói trở nên xa xôi: “Bị giết chết…”.

Đêm đó, đèn trong thư phòng phụ thân sáng cả đêm.

Đêm đó, ám vệ ra ra vào vào.

Đêm đó, Khương Trầm Ngư đã linh cảm được chuyện gì đó đang xảy ra. Chỉ là nàng không thể ngờ rằng, năm năm sau nàng có thể biết được chân tướng, hơn nữa, tận mắt nhìn thấy người bị hại của đêm đó trần thuật chuyện xưa trước mặt mình.

“Họ là những người rất chân chất, ngày nào cũng dậy từ lúc gà gáy, cày cuốc dệt vải, đợi mùa thu hoạch, lấy ít ngũ cốc, rau dưa đi chợ đổi lấy thịt. Người vợ có lần bị sốt, để khám bệnh nên phải mượn vay ít tiền của nhà thợ săn, nhưng không thể trả được. Lúc ấy, đại ân nhân lại tặng cho họ một cô con gái, còn cho họ một thỏi bạc mười lượng. Họ trả được nợ, mua đủ thuốc chữa được bệnh cho người vợ. Họ cảm thấy cuộc đời mình bắt đầu có được hạnh phúc từ khi ấy, họ vô cùng cảm kích vị đại ân nhân ấy, cho nên thành tâm dưỡng dục đứa con gái bị mù lòa, không chút máu mủ kia, gắp miếng thịt duy nhất trên bàn ăn vào bát đứa bé, dùng chút vải bông mới còn lại may quần áo cho nó họ không biết chữ, nhưng lại biết đạy dỗ đứa trẻ làm người phải lương thiện, phải khoan dung, phải biết cảm ơn, cứ như thế ngày qua ngày đã nuôi đứa bé khôn lớn. Bọn họ nghe nói phu nhân của đại ân nhân thích hoa lan, bèn đem hoa lan mà con gái trồng được đi tặng…”.

Đôi mắt của Đỗ Quyên không chớp lấy một cái, hai đồng tử to tròn, không chút ánh sáng lại lạ lùng đến nhường ấy: “Điều mỉa mai nhất là họ thậm chí còn chẳng biết đại ân nhân thực sự là ai, cứ một mực cho rằng đó chỉ là một người làm nào đó trong tướng phủ”.

Nước mắt Khương Trầm Ngư lăn xuống lã chã.

Có lúc mềm mại cũng là một thanh đao, không đánh mà thắng.

Đặc biệt là dùng thái độ như không có gì xảy ra, dùng giọng nói bình tĩnh nhất để thuật lại sự thực tàn nhẫn nhất.

Đến nàng nghe còn thấy xé nát tâm can như vậy, thật không dám tưởng tượng Đỗ Quyên năm mười ba tuổi phải đối diện với bi kịch máu tươi đầm đìa đó như thế nào. “Sau đấy, vị thừa tướng tài giỏi đó xuất hiện, nói với đứa bé gái rằng nó vốn là con gái của ông ta, nói ông ta vì bất đắc dĩ thế nào mới phải vứt bỏ nó, nói bao năm nay ông ta luôn hối hận, nói tuy rằng ông ta không thể cho nó đanh phận thiên kim tướng phủ, nhưng nguyện chăm sóc cho cuộc sống từ đây về sau của nó… Ông ta nói rất khéo léo, cảm động, tình sâu như biển. Đứa con gái nhỏ vừa nghe vừa khóc, cuối cùng khóc mệt đến nỗi ngủ thiếp đi, khi nó thức dậy, phát hiện thừa tướng đại nhân đã thức cạnh bên giường của nó suốt một ngày một đêm. Đứa con gái nhỏ xúc động trước tình yêu của người cha vĩ đại liền ôm chặt ông ta, gào lên một tiếng – phụ thân”.

Bảo nàng phản ứng thế nào? Và có thể phản ứng thế nào? Đỗ Quyên nói đến đây bèn bật cười ha hả: “Vòng vèo mười ba năm, cuối cùng cốt nhục đã nhận nhau, cảm động làm sao. Đáng thương thay cho tiếng gọi “phụ thân” đó của ta, đáng thương thay cho song thân dưỡng dục ta, thi thể trên bùn đất vẫn còn chưa lạnh, vong linh trên trời của họ phải mở to mắt mà nhìn con gái mà mình vất vả nuôi nấng dạy dỗ ngã vào vòng tay của hung thủ, nối mối thiên luân”.

Khương Trầm Ngư tiếp tục khóc, nước mắt giống như trào thẳng ra từ hai hốc mắt, nức nở không hề kiềm chế. Rõ ràng đã đoán ra được: Sở dĩ phụ thân phải đánh tráo trưởng nữ, dụng ý thực sự chưa chắc đã là sợ mẫu thân đau lòng, mà là nếu như trưởng nữ bị mù thì sẽ không thể gả cho đế vương vào cung làm phi, cho nên đổi lại là một bé gái xinh đẹp, sẽ thuận lợi đưa nó tiến cung. Cũng rành rành nghe ra rằng: Sở dĩ Đỗ Quyên gọi ông ta một hếng “phụ thân”, cũng không phải cảm động vì cha con tương phùng, mà là nén cơn hận để mưu đồ báo thù. Trong bi kịch này, hai người đều diễn kịch, ta lừa ngươi gạt, khiến hai chữ “tình thân” mình đầy thương tích như thế.

Bảo nàng phản ứng thế nào? Và có thể phản ứng thế nào?

Tiếng cười của Đỗ Quyên dần ngừng lại, rồi lại nói với ngữ điệu như nước lặng không gợn sóng: “Thừa tướng nhận lại con gái, bắt đầu đốc tâm dạy dỗ nó. Con gái thông minh đến không ngờ, học gì cũng rất nhanh. Ba tháng sau, thừa tướng gả con gái cho người ta. Thừa tướng nói, người đó nghi đung tuấn mỹ, uy vũ phi phàm. Thừa tướng nói, người đó võ nghệ siêu quần, tương lai ắt sẽ thành nghiệp lớn. Thừa tướng nói, người đó thành thực dịu dàng, sẽ đối tốt với nó… Ông ta nói rất nhiều rất nhiều, sau cùng con gái nói: “Phụ thân, con sẽ lấy. Nếu cha muốn con lấy, con sẽ lấy”. Cứ thế, nó lấy chồng, hai tháng sau, người đó thi đỗ võ trạng nguyên, nhất thời vui sướng phấn chấn, quả nhiên tiền đồ vô lượng”.

Thương thay cho Khương Trầm Ngư nghe đến đây, đến thở dài cũng không dám – Vốn cho rằng phụ thân hạ lệnh giết đôi vợ chồng câm điếc, giữ lại cái mạng của con gái, coi như là còn niệm chút tình thân, nhưng bây giờ ngẫm ra lại là vì năm đó nhìn trúng Vệ Ngọc Hành vẫn còn ở thuở hàn vi, vì muốn lôi kéo hắn nên mau mau chóng chóng gả con gái của mình cho hắn. Còn Vệ Ngọc Hành sở dĩ có thể đỗ võ trạng nguyên, e là cũng có sự giúp đỡ ngấm ngầm của phụ thân.

“Đáng tiếc người tính không bằng trời tính. Thừa tướng những tưởng mình có thêm một cánh tay, nhưng chẳng ngờ vẻ đẹp trời sinh của con rể lại bị con gái của tả tướng gia nhìn trúng. Thừa tướng sao chịu để con vịt đã dâng đến tận miệng còn bị người khác cướp mất một nửa? Vì thế, chỉ thị cho con rể không đồng ý. Như thế đã đắc tội với tả tướng, con rể bị biếm chức, ông ta cũng không thể lộ điện bảo vệ, mà chỉ nói với con rể và con gái rằng, trước tiên cứ đến biên thành đợi vài năm, thời cơ chín muồi, ắt sẽ vinh quang quay về. Đỗ Quyên vuốt ve mái tóc đài của mình, bỗng ngậm ngùi nói: “Chờ liền bốn mùa xuân thu”.

Bốn năm.

Phải quyết tâm như thế nào mới có thể khiến một người thân thể yếu ớt không thể sống lâu ở nơi ẩm ướt, mạo hiểm tính mệnh cư trú tại Hồi thành suốt bốn năm trời?

Và phải có dã tâm thế nào mới có thể khiến nàng ta nén nhịn nỗi ấm ức oán hận âm thầm che giấu tài năng?

Rõ ràng là cùng dòng máu, thậm chí là cùng có trí tuệ thông minh như nhau, nhưng chỉ vì nàng ta bị mù, dáng vẻ không đủ xinh đẹp, là đã mất đi tư cách có được hạnh phúc…

Nàng tự hỏi, nếu đổi lại là mình, sẽ phải làm thế nào?

Khương Trầm Ngư không dám nói mình sẽ không oán hận, càng không dám nói mình sẽ không báo thù. Vì thế, đối diện với Đỗ Quyên nhìn tưởng như bình thản nhưng từng câu từng chữ thốt ra đều bức người trước mặt, nàng chỉ có thể khóc.

Buồn nỗi buồn của nàng ta. Đau nỗi đau của nàng ta.

Chuyện xấu của gia tộc là như thế.

Khương Họa Nguyệt tiến cung, bản thân nàng tiến cung và Đỗ Quyên không tiến cung. Họ thực ra đều giống nhau.

“Ta rất muốn nhìn ngươi…”. Đỗ Quyên khẽ nói: “Những chuyện có liên quan đến ngươi ta đã được nghe suốt năm năm nay, biết càng nhiều lại càng tò mò. Đến nay cuối cùng ta đã đợi được cơ hội gặp ngươi, nhưng cũng là cơ hội… hại ngươi”.

Khương Trầm Ngư đột nhiên lóe lên một tia hy vọng, chẳng kịp nghĩ ngợi liền đi vòng qua chiếc bàn, lập tức quỳ xuống dưới chân Đỗ Quyên, nắm chặt tay của nàng ta, đau đớn cầu xin: Tha cho công tử, có được không?”.

Rèm mi của Đỗ Quyên run run.

“Tỉ tỉ, tỉ tỉ, cầu xin tỉ đó! Tha cho công tử, muội cầu xin tỉ”. Nàng bắt đầu dập đầu.

Đỗ Quyên không ngăn nàng chỉ thấp giọng than: “Tại sao người thông minh như ngươi lại hỏi một câu ngu xuẩn như thế?”.

“Muội không hỏi, muội cầu xin! Tỉ tỉ…”. Khương Trầm Ngư giữ chặt hai tay nàng ta, tóm rất chặt rất chặt, giống như đùng toàn bộ sức lực của cả cuộc đời: Muội không còn cách nào khác. Hơn nữa, điều quan trọng nhất là muội biết tỉ có thể làm được. Tỉ tỉ, tỉ tỉ…”.

Đỗ Quyên lạnh nhạt nói: “Nếu ngươi cho rằng ta vì chống đối thừa tướng, cho nên muốn giết hại Cơ Anh, sau đó đổ cho Di Phi kẻ mà phụ thân đại nhân ngầm phù trợ, phá hoại kế hoạch của ông ta thì ngươi sai rồi”.

Khương Trầm Ngư cứng đờ người.

“Ngươi còn không hiểu sao?”. Đỗ Quyên nhẹ nhàng nắm tay nàng, trong động tác hàm chứa biết bao thương xót: “Người muốn giết Cơ Anh chính là hoàng thượng…”.

Mắt Khương Trầm Ngư trong chốc lát mở lớn đến cực đại.

“Còn phụ thân chẳng qua chỉ góp tay thuận nước đẩy thuyền, làm động tác cuối cùng mà thôi…”.

Tiếng cuối cùng thong thả kết thúc, trong căn phòng im lặng như tờ. Chỉ có mưa bên ngoài cửa sổ, rào rào rào rào, ngọn lửa ở Đông viện phía xa chiếu đỏ cả bầu trời.

Cung đăng sáng rực như ban ngày.

“Hoàng thượng giá…”, chữ “đáo” còn chưa phát ra khỏi miệng, thái giám phụ trách thông báo đã bị đôi hài màu vàng nhạt đá ngã lăn ra đất, thiên từ thiếu niên rảo bước vào trong, đằng sau, một hàng thị vệ nơm nớp lo lắng đi theo, đến cửa thì đừng lại. Chỉ có đại thái giám La Hoành kéo tấm thân núc ních theo sát phía sau, đi vào phòng mé bên của ngự thư Phòng, còn chưa đóng cửa lại đã nghe thấy chủ tử cười lạnh một tiếng, trầm giọng nói: “Các ngươi giỏi quá, to gan quá, phải không? Làm giỏi quá, đúng không?”.

Trong Bách Ngôn đường, ánh nến nhảy nhót, tám người bên bàn, mỗi người một vẻ mặt.

Chiêu Doãn vứt phịch tờ mật báo trong tay xuống bàn, cuốn sách nhỏ vạch một đường cong dài, bay ra tứ phía.

Uy nghi thiên tử nhất thời khiến mọi người kinh sợ. Trong chốc lát, giữa căn phòng im ặng chỉ có hếng hít thở vang lên. Hồi lâu sau, người áo tím ngồi cuối cùng chầm chậm đứng dậy, lặng lẽ lượm từng trang giấy lại, xếp ngay ngắn rồi cung kính đặt lại lên bàn.

Chiêu Doãn phẩy tay áo, quyển mật báo lại lần nữa rới xuống đất.

Người áo tím không dám ho he, lại lần nữa khom lưng nhặt quyển sách lên, đặt lại vị trí ban đầu.

Chiêu Doãn phẩy tay áo lần thứ hai, quyển mật báo va vào trán của người áo tím, ngươi áo tím van giữ tư thế khom lưng, mặc cho những trang giấy rơi vào mặt mình, từng trang từng trang rớt xuống đất.

“Nhặt đi”. Khóe miệng Chiêu Doãn kéo thành một nụ cười nhưng ánh mắt vẫn lạnh như băng: “Nhặt tiếp cho trẫm xem!”.

Trong nháy mắt, bầu không khí trong căn phòng lạnh lẽo như một hầm băng, bảy người còn lại ai cũng cúi gằm, lo lắng vạn phần.

Người áo tím quỳ sụp, không dám nói gì, chỉ phủ phục trên mặt đất, đáng vẻ cực kỳ nghe lời. Nhưng Chiêu Doãn nhìn thấy lại càng tức thêm, cười lạnh nói: “Sao không nói gì? Câm rồi à? Trẫm nuôi các ngươi bao nhiêu năm, các ngươi báo đáp trẫm như thế này à? Hả? Dám không đếm xỉa đến ý chỉ của trẫm tự lộng hành à? Các ngươi đang ép trẫm phải không? Các ngươi dám ép trẫm phải không?”. Nói đến đây giận quá bèn giơ chân đạp vào lưng người áo tím, người áo tím rên rỉ một tiếng trong cổ họng, mồ hôi lạnh trên trán trong chốc lát tứa ra như tắm.

La Hoành đứng bên cạnh không kìm được lên tiếng khuyên nhủ: “Hoàng thượng, bây giờ hoàng thượng nổi giận cũng không giải quyết được gì, chi bằng mau chóng nghĩ cách nên bổ cứu như thế nào…”.

Chiêu Doãn sầm sì nói: “Bổ cứu? Không sai, phải bổ cứu cẩn thận. Ta không cần biết tám người các ngươi dùng cách gì, lập tức dừng kế hoạch ám sát. Nếu Cơ Anh mất một sợi lông tơ thì tám người các ngươi sẽ phải bồi táng cho hắn!”.

Lúc này, không chỉ người áo tím, mà cả bảy người kia đều nhìn nhau, rồi đồng loạt rũ áo quỳ xuống.

Chiêu Doãn nhướn mày, gằn giọng quát: “Thế nào? Các ngươi thị uy với trẫm phải không?”.

Thiếu niên áo xanh lục quỳ ở hàng đầu ngẩng đầu lên, vẻ mặt nghiêm trang, chậm rãi đáp: “Xin hoàng thượng bớt giận, nghe chúng thần giải thích”.

Được ngươi giải thích, trẫm sẽ nghe xem, là lý do cao siêu gì mà khiến các ngươi dám làm chuyện gan to tày trời, đại nghịch bất đạo này”. Chiêu Doãn vén áo bào, ngồi xuống ghế.

Mọi người thấy tình thế đã dịu đi, bấy giờ mới thở phào một hơi, toàn bộ đều mong ngóng nhìn thiếu niên áo xanh lục, thiếu niên áo xanh lục hít vào một hơi thật sâu, rồi móc ra một quyển sổ từ trong tay áo đưa cho La Hoành, La Hoành giơ tay đón lấy trình cho Chiêu Doãn xem. Chiêu Doãn vốn chỉ hờ hững lật giở, nhưng khi đọc nội đung bên trong thì mặt đột nhiên biến sắc.

Thiếu niên áo xanh lục bấy giờ mới chậm rãi giải thích: “Đây là so sánh thu chi của quốc khố năm nay và năm Gia Bình thứ hai mươi bảy. Tiên đế trong thời gian tại vị, bình định Giang Lý, Yển Sơn, đất đai thu về, khiến đân số nước ta vượt ngưỡng bảy mươi triệu người, khi đó số bạc trong quốc khố là hai trăm mười triệu lạng. Đến nay xem lại, dân số không hề tăng thêm, chiến sự không phát sinh, nhưng hiện nay quốc khố chỉ còn lại tám triệu lạng. Vậy tiền đi đâu?”.

Mấy câu ngắn ngủi, giống như một tia sét giữa trời quang vang vọng rất lâu trong gian mật thất.

Chiêu Doãn đường như thực sự bị sét đánh trúng, để lộ vẻ mặt đầy mâu thuẫn.

Thiếu niên áo xanh lục lại rút từ trong tay áo ra một cuốn sổ khác giơ cao quá đầu.

Chiêu Doãn liếc y một cái, lạnh nhạt nói: “Trẫm không đọc có gì cứ nói ra đ i “.

Thiếu niên áo xanh lục mở cuốn sổ ra, đọc to: “Đồ Bích năm thứ nhất, cửu khanh bãi miễn thất khanh, các thần tử mới đều xuất thân từ hai tộc Cơ, Tiết; Đồ Bích năm thứ hai, đô úy tướng quân thay đổi, thăng cấp cho ba mươi bảy người, đều là môn sinh của Kỳ Úc hầu; Đồ Bích năm thứ ba, Cơ thị phụng chỉ xây dựng đê điều, chi phí tốn kém một khoản lớn; Đồ Bích năm thứ tư, chiến dịch phạt Tiết, Cơ tộc lại một tay sắp xếp… Tiền của quốc khố, đều vì những khoản chi này khoản chi kia mà ‘vô tình’ trở nên trống rỗng”.

Người áo tím dập đầu xuống đất, mặt mày đẫm lệ, nói: “Hoàng thượng! Tiết thị lộng quyền làm phản, nhưng tịch thu gia sản cũng không quá ba triệu lạng bạc; còn Cơ thị nhìn tưởng như kín đáo, kỳ thực mới là tham ô vơ vét, loạn chính họa quốc! Chúng nắm quyền mới chưa đầy bốn năm đã thành như vậy nếu để lâu ngày, thì sẽ thế nào? Loài độc trùng này không trừ bỏ, xương tủy của Bích quốc sẽ bị gặm nhấm hết!”.

Chiêu Doãn lim dim đôi mắt phượng hẹp dài, lạnh lùng nói: “Các ngươi nói Cơ Anh tham ô ư?”.

Người áo tím tâu: “Cơ Anh không tham ô, không có nghĩa là cả Cơ gia không tham ô; Cơ gia tham nhũng lớn đã thành đại họa. Nhưng chỉ cần Cơ Anh còn Cơ gia tuyệt đối không thể bị lung lay, cho nên, muốn trừ bỏ Cơ gia, thi phải trừ bỏ Cơ Anh trước tiên!”.

Người mặc áo màu lam bỗng xen lời vào: “Bản thân Cơ Anh cũng chưa chắc đã thanh bạch! Nhìn đồ hắn ăn mặc tiêu xài đều là hàng thượng phẩm. Nghe nói, hắn may một chiếc áo bào, phải cần tới bảy mươi hai thợ dệt, mất ba tháng ròng rã để thêu hoa ở vạt áo, cổ áo, nhìn thì không có gì đặc biệt mà kỳ thực càn khôn vô tận. Còn một món hắn ăn, cho dù là món đạm bạc bình thường nhất, cũng cần tới mấy chục loại dược liệu trân quý…”.

“Đủ rồi!”. Chiêu Doãn sầm mặt.

Người áo lam lập tức ngoan ngoãn ngậm miệng lại.

Thiếu niên áo xanh lục nói: “Nói những điều này cũng chẳng ích gì. Việc cần làm trước mắt là làm thế nào để bổ sung quốc khố? Mùa hạ sắp đến gần, nếu lúc đó lũ lụt tám triệu lượng có thể chống đỡ không? Năm nay hạn hán hoành hành, nếu mất mùa thì quốc khố cứu tế ra sao? Khi sự tồn tại của một gia tộc đã làm nguy hại đến kinh tế dân sinh, vậy tại sao không thể triệt trừ nó? Quốc gia quan trọng hay là thần tử yêu quý quan trọng? Hoàng thượng, đối diện với những con số kinh tâm động phách này, xin người suy xét cho kỹ!”. Nói đoạn, cúi đầu sát đất, dập đầu thật mạnh ba cái.

Bảy người còn lại đồng thanh hô vang: “Cúi mong hoàng thượng suy xét cho kỹ!”.

Đối diện với các mưu sĩ nhất loạt quỳ xuống đất, ánh mắt Chiêu Doãn lộ vẻ tịch liêu. Y ngồi giữa quần thần mà giống như đang chìm đắm trong thế giới của riêng mình, không cười, không nói, không nhúc nhích.

Chú thích: (1) Có tài năng mà không phát huy được.

(2) Xem chú thích ở tập một.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.