Ngày hai mươi tư, tháng sáu, năm Đông Bích thứ tư.
Trăng treo giữa trời, cung đăng sáng rực.
Trong Gia Ninh cung vô cùng náo nhiệt. Phóng tầm mắt nhìn ra bốn
phía, đèn đỏ rượu xanh, ca vũ thái bình. Toàn bộ phi tử mỹ nhân của hậu
cung đều tập trung trong một sảnh đường để tham gia thọ yến lần thứ mười chín của Khương quý nhân – Khương Họa Nguyệt.
Trên ghế chủ thượng, Chiêu Doãn mỉm cười thể hiện rõ tâm trạng vui vẻ hơn ngày thường, thậm chí còn tự tay gắp thức ăn cho người được chúc
thọ, khiến Khương Họa Nguyệt vốn bị lạnh nhạt hơn nửa năm nay mừng khôn
xiết, cảm động đến mức mắt đỏ rưng rưng.
Rượu quá nửa tuần, Điền Cửu bỗng xuất hiện, thì thầm mấy câu gì đó
bên tai đại thái giám La Hoành, khiến sắc mặt ông ta đột ngột biến đổi,
vội vàng tiến lên mật tấu với Chiêu Doãn. Khương Họa Nguyệt thấy vậy,
trái tim nàng chùng xuống, một dự cảm không lành trỗi đậy, nhưng Chiêu
Doãn vẫn yên vị trên ghế, vẻ mặt bình tĩnh, không vui cũng chẳng giận,
La Hoành vẫn nói gì đó, rõ ràng ông ta đang rất lo lắng. Cuối cùng,
Chiêu Doãn giơ một tay lên, ra hiệu cho La Hoành lui ra, ông ta vội nói: “Nhưng hoàng thượng…”.
Chiêu Doãn lại xua xua tay. La Hoành lập tức khom lưng lui ra.
Khương Họa Nguyệt không kìm được hỏi: “Hoàng thượng, có chuyện gì sao?”.
Chiêu Doãn rời mắt khỏi đám ca múa phía trước, y cười với nàng:
“Không có chuyện gì. Tối nay, không gì quan trọng bằng sinh nhật của ái
phi”.
Lúc này, trái tim đang treo lơ lửng của Khương Họa Nguyệt mới rơi
phịch xuống, nàng thở phào, ngọt ngào nói: “Hoàng thượng đối với thần
thiếp thật tốt…”, vừa thì thầm nàng vừa ngả người về phía y. Chiêu Doãn
cũng không cự tuyệt, y đưa tay ôm lấy nàng, cùng dựa vào ghế rồng xem ca múa. Ân sủng rõ ràng như thế, khiến đám phi tử ngồi đấy không khỏi bặm
môi nghiến răng, trong lòng thầm chua xót, không hiểu tại sao chỉ trong
một đêm mà Khương quý nhân lại bắt đầu được sủng ái. Những kẻ hiếu sự
càng không nhịn được nghĩ, tại sao cảnh tượng như thế này mà Hy Hòa phu
nhân và Cơ quy tần không có mặt cơ chứ, nếu hai người bọn họ cũng có
mặt, thì Khương Họa Nguyệt đâu thể một mình chiếm hết vinh quang như vậy được. Nhưng hai người đó, một người nói ngọc thể bất an, còn một người
ba ngày trước đã đến Định Quốc tự bái Phật vẫn chưa về, mãi đến lúc thọ
yến kết thúc cũng chẳng thấy bóng dáng.
Tiệc tàn, Chiêu Doãn đương nhiên cũng ở lại trong Gia Ninh cung,
nhưng vào giờ Dần một khắc, y đột nhiên tỉnh giấc, không làm kinh động
đến Khương Họa Nguyệt. Đang say giấc nồng bên cạnh, khoác áo bước ra
khỏi phòng.
Bên ngoài tĩnh mịch yên ắng, đám cung nhân đều bị đuối đi ngủ cả thị
vệ gác đêm nhận được mệnh lệnh từ trước, nhìn thấy y, cũng chỉ cúi người hành lễ, không phát ra tiếng động nào.
ĐiềnCửu giống như ma trơi trong đêm trăng, lặng lẽ đứng đợi y trong
gió, trên tay cầm một chiếc áo khoác, thấy y bước ra khỏi cửa cung liền
tức tốc chạy tới, khoác áo lên mình y.
Chiêu Doãn vừa đi vừa hỏi: “Người đâu?”.
“Đều đợi ở Bách Ngôn đường”.
“Để các ngươi đợi lâu rồi”.
“Làm nô tài, đợi chủ tử là chuyện đương nhiên. Hơn nữa, chủ tử vì
nhận lời Thục phi nương nương mới không thể đi khỏi được thuộc hạ biết
ạ”.
Chiêu Doãn cười nhạt, vẻ mặt không nhìn ra là vui mừng hay châm biếm, cứ cao sâu không thể nắm bắt như thể, y đến thẳng ngự thư phòng, sau đó rẽ qua cửa ngách, tiến vào một gian mật thất.
Mật thất không có cửa sổ, nhưng lại được bài trí cực kỳ trang nhã,
gồm một chiếc bàn ngọc đài, bên cạnh là tám chiếc ghế tựa êm, trên mỗi
chiếc ghế đều có một người đang ngồi đợi, tuy mỗi người một vẻ, nhưng
đều là những nam tử tài hoa, người lớn tuổi nhất cũng không quá ba mươi, mà người nhỏ tuổi nhất lại chưa đến hai mươi. Cửa mở, tám người lũ lượt đứng dậy khấu đầu bái kiến.
Chiêu Doãn xua tay, rảo bước đến ngồi xuống bên bàn, nói: “Nói đi. Rốt cuộc là chuyện gì?”.
Người mặc chiếc áo dài màu xanh ngọc lam, mặt vuông chữ điền, đường
nékhuôn mặt tuy rất bình thường nhưng đôi mắt sáng và tinh nhanh đến bức người vừa nghe Chiêu Doãn nói xong liền đứng dậy sang sảng tấu: “Hoàng
thượng chúng thuộc hạ vừa nhận được tin mật mới nhất: Năm ngày tới người đăng cơ trong buổi thọ yến của Trình vương không phải là đại hoàng tử
Lân Tố, mà là đế nữ Di Thù. Tất cả đều do một tay Kỳ Úc hầu tác thành”.
Chiêu Doãn hơi chau mày, không nói gì.
Người mặc áo tím, mặt chuột tai dơi, dáng vẻ cay nghiệt, giọng cao
hơn người đầu tiên đứng lên thưa: “Trước đây thuộc hạ đã cảm thấy việc
Kỳ Úc hầu tự mình đến Trình Quốc. Là chuyện vô cùng không ổn. Sau khi
hắn đến đó, quả nhiên phóng túng làm càn, thay đổi càn khôn, phá hoại
toàn bộ kế hoạch mà chúng ta đã dày công suy tính bao năm!”.
Một thiếu niên áo xanh lục chừng mười tám mười chín tuổi lạnh nhạt
nói: “bây giờ thư thế này, thực ra cũng không có gì không tốt”.
“Thế nào gọi là không có gì không tốt?”. Giọng của người áo tím đột
nhiên trở nên gay gắt, quay người thiếu niên áo xanh lục, nói: “Đừng
quên tâm nguyện ban đầu của chúng ta là gì! Đâu phải chỉ mở thêm vài bến cảng, thu thêm ít tiền thuế, kiếm thêm ít bạc đâu! Theo ta thấy, nếu
mục đích ban đầu không đạt được, thì có nghĩa là có tổn thất. Mà có tổn
thất chính là vô cùng không tố”.
Người mặc áo lam gật đầu tán đồng: “Không sai. Di Thù. Xưng đế, bề
ngoài thân thiện với nước ta, nào là mở bến cảng rồi ưu đãi thuế má;
nhưng lại hoàn toàn khác so với kế hoạch lúc đầu của chúng ta. Chúng ta
căn bản không cần tiền tài kỹ thuật bí mật, cái chúng ta cần là ba nước
hỗn loạn, để chúng ta tọa sơn quan hổ đấu làm ngư ông đắc lợi, là lấy
chiến tranh để nuôi đất nước, là xưng hùng bốn bể! Đến nay, Kỳ Úc hầu
làm vậy chẳng phải là khoái đao trảm loạn ma (1) , mau chóng triệt tiêu
tình trạng hỗn loạn vốn có, cứ thế này hai nước Yên, Nghi theo đà sẽ
chiếm lợi thế, thế lực đất nước tất sẽ thịnh vượng, mà Trình quốc cũng
có thời gian nghỉ ngơi hưu dưỡng”.
Một nam tử áo xám chậm rãi mở miệng nói: “Đừng quên, nữ nhân xưng đế, là mối họa lớn”.
Thiếu niên áo xanh lục xen lời một cách thản nhiên: “Xin nhắc các vị
nhớ cho một điểm – Đừng bao giờ coi thường nữ nhân”. Hắn nhếch khóe môi, cười cười: “Đừng coi thường Di Thù Hơn nữa, nàng ta chỉ dựa vào bản
thân đã có thể khiến Kỳ Úc hầu giơ tay viện trợ. Thử hỏi, đổi lại có mấy người trong các vị ngồi đây có thể làm được điều này?”.
Người áo tím cười lạnh: “Cho nên ta mới nói hành động này có vấn đề
về tình về lý, Kỳ úc hầu đều không nên phù trợ Di Thù, nhưng hắn lại
giúp nàng ta. Còn nữa, hắn đã tự ý quyết định mà không hề bẩm báo với
thánh thượng. Rốt cuộc hắn có ý gì?”.
Lời vừa thốt ra khắp phòng im bặt.
Trong bầu không khí im lìm dị thường đó, Chiêu Doãn tiện tay nhấc một chiếc bút lông trên bàn lên nghịch chơi, mọi người đổ dồn ánh mắt vào
y, đợi chờ thái độ của y, nhưng y vẫn không tỏ vẻ gì khác, chỉ khẽ nheo
mắt, nói: “Nói tiếp đi, chớ dừng lại”.
Vậy nên người áo tím đành tiếp tục nói: “Hoàng thượng, thuộc hạ tuyệt đối không có thành kiến với Kỳ Úc hầu. Những việc hắn làm vì hoàng
thượng mấy năm nay cũng thực sự là tận tâm tận lực. Nhưng, chính vì biểu hiện trước đây của hắn quá tốt cho nên hắn ngày càng được ngài coi
trọng, quyền lực ngài trao cho hắn cũng ngày càng lớn. Bốn nước quanh
đây, thiên hạ ai chẳng biết Kỳ Úc hầu đứng đầu quần thần Bích quốc; còn
muôn dân bách tính Bích quốc thì ai chẳng tôn sùng hắn như thần như
thánh chứ. Tuy hắn không nắm quân quyền, nhưng mấy đại danh tướng hiện
nay có người không do hắn đề bạt tiến củ; tuy hắn không can thiệp đến
quan văn, nhưng hai kỳ thi đều do hắn cầm trịch… Trong lúc không ai hay
biết hắn đã có vô số môn nhân; trong lúc không ai h biết, hắn đã ban ơn
đầy nội; và cũng chính trong cái lúc không ai hay biết ấy… hắn đã trở
thành một kẻ vô cùng có thế lực”.
Khóe mắt Chiêu Doãn giật giật mấy cái, nhưng y vẫn im lặng.
Người áo tím hít sâu một hơi, thở dài nói: “Hoàng thượng, lịch sử đã
minh chứng thần tử mà có quyền thế quá lớn danh vọng quá cao, tất sẽ dẫn đến làm phản. Khi một người bị đẩy đến một độ cao nào đó, cho dù bản
chất của hắn đơn thuần đến đâu, lý tưởng của hắn tầm thường đến đâu, thì cũng đều không thể chống nổi hai chữ ‘thời thế’. Nhớ Hán Cao Tổ Lưu
Bang năm xưa chẳng qua chỉ là một tên đình trưởng nhỏ bé, còn bị cha
mắng là “vô lại”, ai có thể nghĩ ngày sau ngài lại thống nhất Trung
Nguyên, thậm chí đánh bại chiến thần Hạng Vũ? Trần Thắng Ngô Quảng vốn
là bần nông nhưng có thể khiến thiên hạ Đại Tần diệt vong; Tống Thái Tố
Triệu Khuông Dẫn cũng chỉ từ một cấm vệ quân thăng một lèo lên thành Ngự tiền Đô kiểm hiệu, cuối cùng khoác hoàng bào đoạt được Hậu Chu… Hoàng
thượng, những chuyện như vậy trong sử sách chúng ta nghe còn ít sao?”.
“Chú ý đến ngôn từ của ngươi”. Nam tử áo xám lạnh lùng nói: “Hạng Vũ
tự kiêu, Tần vương ngu tối, Chu chủ vô năng, há có thể đem ra so sánh
với hoàng thượng của chúng ta?”.
“Được, không nhắc chuyện cổ nhân. Vậy đơn cử Hộ quốc đại tướng Tiết
Hoài mới đây, năm đó đối với tiên đế cũng là lòng son dạ sắt, lên núi
đao xuống biển lửa; đối với đương kim thánh thượng lại càng tận tâm phù
trợ, toàn lực bảo vệ. Kết quả thì thế nào? Lẽ nào chúng ta còn cần một
Tiết Hoài thứ hai?”. Nói đoạn ánh mắt người áo tím sắc như dao lia qua
gương mặt của từng người, vẻ mặt mỗi người một khác.
Thiếu niên áo xanh lục trầm ngâm hơi lâu, ngẩng lên quay lại nhìn
người áo tím nói: “Ngươi nói nhiều như thế, nhưng ta chỉ muốn biết – Từ
trước đến giờ Kỳ Úc hầu đã làm sai điều gì?”.
“Hắn chưa được cho phép đã lén lút đến Trình quốc, là tội thứ nhất;
hắn không màng đến nguyện vọng ban đầu của hoàng thượng, bình định Trình loạn, đó là tội thứ hai; hắn phù trợ một tân vương khôn ngoan, đó là
tội thứ ba. Dựa vào ba tội danh này đủ khép hắn vào tội chết cả trăm
lần”. Nói đến đây, trong mắt người áo tím bỗng lóe lên một ánh nhìn thô
tục, hắn cười lạnh nói: “Nếu ba tội danh này chưa đủ, ta còn có thể chỉ
ra nhiều hơn nữa, còn chưa kể hắn và Thục phi quá thân mật. Theo tin mật thám, từ khi hắn gặp Thục phi đến giờ, hai người dính nhau như hình với bóng”.
Sắc mặt của thiếu niên áo xanh lục hơi nhợt nhạt cuối cùng lặng im.
Tự nghìn xưa, đế vương kỵ nhất chuyện thần tử đám dòm ngó đồ của
mình, hơn nữa, trên danh nghĩa Khương Thục phi đáng lẽ vốn là thê tử của Kỳ Úc hầu, nhưng giữa đường bị một đạo thánh chỉ của hoàng đế cưỡng ép
cướp đi. Trong tình huống này, dụng ý của hoàng thượng hẳn đã rất rõ
ràng, là thần tử thì càng phải tránh né mới phải, nhưng Kỳ Úc hầu vẫn
không né tránh. Thật không biết là hắn quá ngay thẳng không kiêng dè;
hay là cố ý thị uy với hoàng thượng?
Thấy mọi người trầm mặc, người áo tím quay sang, khom người nói với
Chiêu Doãn: “Hoàng thượng, thuộc hạ và Kỳ Úc hầu không hề có tư thù, nói ra nhưng lời công kích này thần cũng không cố ý đối đầu với hầu gia.
Chúng thần chỉ là mưu sĩ của hoàng thượng, chức trách của chúng thần là
vì hoàng thượng mà suy nghĩ sao cho đế thuật chu toàn, phòng trừ hậu họa về sau. Mà sau khi thương thảo, kết quả chúng ta có được chính là quyền thế của Kỳ Úc hầu quá lớn, lớn đến mức có thể ảnh hưởng đến đế vị. Nên, vệc trước mắt là phải làm cho hắn suy yếu đi. Nếu để hắn tiếp tục lớn
mạnh, thì e rằng đến lúc muốn kìm chế hắn cũng không kịp. Hơn nữa, hoàng thượng chỉ sùng ái mình hầu gia, trước mắt tuy không xảy ra mối hiểm
họa lớn nào nhưng sau này khó tránh dẫn đến sự bất mãn của quân thần.
Trời cao giáng mưa, phải chú ý ban đều, nếu chỉ luôn ban cho một chỗ thì mảnh đất đó phì nhiêu, còn chỗ khác sẽ thiếu nước nên cằn khô. Xin
hoàng thượng suy xét cho kỹ”.
Chiêu Doãn vừa chăm chú lại vừa lơ đễnh kẹp cán bút, dùng ngón tay
cái khẽ đẩy, chiếc bút xoay xoay như bay. Giữa các ngón tay, y cứ lặp đi lặp lại như vậy hết lần này đến lần khác.
Người áo tím và áo lam đối mắt nhìn nhau, người áo lam lên tiếng:
“Thuộc hạ biết hoàng thượng yêu quý hầu gia, hầu gia đích thực là nhân
tài trăm năm mới có, chúng thuộc hạ tuyệt đối không có ý ‘đại nhân tài
thì không phải là kẻ thánh thượng có thể chế ngự’. Khi nuôi hổ, nếu ta
cho ăn một cách mù quáng thì không thể khiến con hổ thực sự biết nghe
lời, cách huấn luyện tốt nhất là đan xen giữa việc lúc nào nên thưởng
thịt, lúc nào cần phạt roi. Hoàng thượng đã cho con hổ hầu gia này ăn
quá nhiều thịt, bây giờ là lúc nên phạt vài roi, để hắn nhớ ai mới là
chủ nhân của hắn. Như thế, sau này hắn mới không dám hành sự mà không
thông báo”.
Người áo tím lại bổ sung thêm: “Cũng có nghĩa là, thực ra phù trợ ai
xưng đế không quan trọng, quan trọng là trước khi hành sự hắn phải xin ý chỉ của hoàng thượng. Chỉ khi hoàng thượng đồng ý, hắn mới được phép
thực hiện. Nếu hoàng thượng không đồng ý, hắn tuyệt đối không được
làm!”.
“Cạch” một tiếng, chiếc bút trượt khỏi tay Chiêu Doãn rớt xuống chiếc bàn dài, lăn lông lốc đến tận cuối bàn.
Vừa khéo lăn qua mặt tám vị mưu sĩ ngồi ở đó.
Ánh mắt tám người lóe sáng, đối với tình huống này rất khó để nói rõ
hành động vừa rồi của hoàng thượng là vô tình hay cố ý, trong lòng ai
nấy đều thầm cân nhắc.
Sau đó bọn họ lại nghe thấy một tiếng thở dài nhẹ nhàng thoát ra từ
hai cánh môi cong cong mềm mỏng nhưng ưu mỹ khó tả đó, thánh thượng của
bọn họ, cuối cùng đã thu ánh mắt chiếu trên chiếc bút về, nhìn thẳng vào mọi ngươi, chậm rãi mở miệng: “Một lần cuối cùng”.
Tám người quay sang nhìn nhau.
Chiêu Doãn đứng dậy, dửng dưng lặp lại một lần nữa như đang ra lệnh
với bọn họ, lại như đang tự nói vơi chính mình: “Một lần cuối cùng”. Nói đoạn, rũ áo bỏ đi để lại tám người đang trố mắt nhìn nhau, không hiểu
ra sao.
Đợi khi Chiêu Doãn bước ra khỏi Bách Ngôn đường, lại qua một lúc lâu, mới có một giọng nói e dè cất lên phá vỡ sự im lặng: “Hoàng thượng nói
một lần cuối cùng, là… ý gì?”.
Thiếu niên áo xanh lục lạnh lùng nói: “Ta nghĩ, hoàng thượng muốn
nói, đây là lần cuối cùng người dung túng Kỳ Úc hầu mà không truy cứu”.
Người áo lam nhíu mày: “Cũng có nghĩa là…”.
Người áo tím tiếp lời: “Cũng có nghĩa là, lần sau Kỳ Úc hầu tái phạm cũng là lúc hắn bị hủy diệt”.
Trong nhà, một cây nến bỗng cháy xèo xèo bùng lên hoa nến, khiến ánh
sáng hắt ra sáng bừng trong khoảnh khắc, cũng khiến cho bức hoành phi
“Bách Ngôn đường” bằng gỗ mun treo phía trước sảnh hiện rõ vẻ kỳ dị.
Mà khi đó, Chiêu Doãn đã đi ra hành lang dài bên ngoài. Thư phòng,
ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng hạ huyền(2) treo trên bầu trời, một chú
quạ vừa bay vụt qua, rớt lại hai tiếng kêu “quạ quạ”.
Điền Cửu theo sát phía sau y, nghe thấy vậy bèn búng ngón tay, chú
quạ đen đó kêu lên thảm thiết, rồi từ trên tầng không rơi xuống, cách
chân Chiêu Doãn đúng nửa thước.
“Tiểu nhân sẽ đi xử lý”. Điền Cửu nhanh như tên chạy lên phía trước
định nhặt con quạ, nhưng Chiêu Đoãn bình thản giẫm lên mình con quạ, đi
tiếp. Điền Cửu hơi sững lại, hắn ngước mắt thăm dò thái độ của chủ tử,
dưới ánh trăng gương mặt xanh xao hơn bình thường đó bởi không cười nên
càng có vẻ cao thâm khó đoán.
“Hoàng thượng?”. Hắn cẩn thận dè dặt mở miệng.
Dưới đêm trăng, ngũ quan Chiêu Doãn được nhuộm ánh bạc nhàn nhạt, đôi mắt đen thẫm, ngoài vẻ tuấn mỹ và tà mỵ ra, lại phô bày một vẻ u sầu
khó tả thành lời.
Y cứ ngẩng đầu như thế ngước nhìn vầng trăng trên bầu trời trầm lặng đứng hồi lâu, rồi mới nói sáu chữ: “Trẫm muốn thăm Hy Hòa”.
Bảo Hoa.
Hai chữ đại tự viết bằng Điệp thể(3), khắc trên tấm hoành bằng ngọc
phi thúy bốn góc còn khảm thêm một viên dạ châu lớn bằng mắt rồng, tô
điểm cho cánh cửa cao bằng gỗ tử đàn và bậc thang bằng đá cẩm thạch
trắng ở phía dưới.
Theo cầu thang đi lên, sau bảy tầng hành lang quanh co là tòa nhà
tường bằng lưu ly, sân bằng thủy tinh. Dù đêm đã khuya, nhưng đèn đuốc
vẫn sáng trưng, loáng thoáng tiếng tơ tiếng trúc từ đại sảnh vẳng ra,
nghe không chân thực chút nào. Chiêu Doãn không đi sang phía đó, mà men
theo con đường nhỏ của Bích lâm rẽ ngoặt sang một góc, rồi đi vào hậu
viện. So với sự huyên náo ồn ào của tiền viện, hậu viện lại lặng ngắt
như tờ.
Hai cung nhân ngồi cạnh bậc thềm ở cuối hành lang đang thì thầm to
nhỏ, thấy y xuất hiện đều giật thót kinh sợ, toan khom mình hành lễ thì y đã vén bức rèm voan trắng đi vào trong.
Ánh trăng hắt qua song cửa sổ đang mở, soi rõ căn phòng tối mịch.
Trong ánh trăng tĩnh mịch ấy, một nữ nhân đắp chăn nằm trên giường,
mái tóc đen dài giống như thác nước buông xõa bên gối, nàng nhắm mắt,
hơi thở đều đều. Chiêu Doãn nhẹ bước qua đó. ánh trăng rớt trên mặt Hy
Hòa, rèm mi và chiếc mũi cao của nàng hắt xuống chiếc bóng lờ mờ, ngũ
quan trong lúc say ngủ nhìn bình tĩnh mà hiền hòa.
Chiêu Doãn ngồi xuống cạnh giường, nhìn nàng hồi lâu, trong đáy mắt y dường như có thứ gì đó mở ra biến thành sâu thẳm và mềm yếu. Y giơ ngón tay cẩn thận dè chừng khẽ vuốt ve bờ môi nàng.
Thế là Hy Hòa nhếch khóe môi nhoẻn cười.
Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, rồi cũng cười theo nàng.
“Đừng làm ồn…”. Hy Hòa hơi nghiêng nghiêng đầu nũng nịu.
Chiêu Doãn cúi người xuống hôn nàng, Hy Hòa vừa cười vừa vô ý xua tay, lý nhí nói: “Đừng làm ồn nữa… Tiểu Hồng”.
Động tác của Chiêu Doãn bỗng nhiên sững lại.
Ánh trăng như lụa.
Làn da của mỹ nhân đưới lớp lụa trắng ngần, ngũ quan sáng rõ đẹp đẽ.
Đặc biệt giờ khắc này, nụ cười càng tươi rói, cho dù vẫn đang trong mộng chưa tỉnh, nhưng đầu mày khóe mắt đều hàm chứa vẻ quyến rũ khôn tả, dấy lên sự phong lưu vô tận, đẹp đến khuynh quốc khuynh thành.
Y cứ giữ tư thế cúi lưng như thế một lúc lâu mới chầm chậm ngồi thẳng dậy. Lại lần nữa nhìn Hy Hòa đang nằm trên giường, ánh mắt đầy băng
giá.
Hy Hòa dường như ý thức được điều gì, rèm mi rung rung, nàng ta đã
tỉnh lại. Thấy y, nàng ta có chút ngạc nhiên lại có chút hoang mang:
“Hoàng thượng”‘ 1ời còn chưa dứt, Chiêu Doãn đã giang tay, ôm nàng ta
thật chặt vào trong lòng.
Hy Hòa vô thức giãy ra, Chiêu Doãn khẽ thả lỏng, nhưng vẫn không
buông tay ra. Hy Hòa không giãy nữa mà lười biếng hỏi: “Đêm nay không
phải là thọ yến của Khương quý nhân sao? Hoàng Thượng không ở chỗ quý
nhân, mà đến chỗ thiếp làm gì?”.
“Trẫm nhớ nàng”.
“Hả?”. Hy Hòa nhướn mày, nếu nói là kinh ngạc chẳng thà nói là châm biếm còn hơn.
Chiêu Doãn lại vùi đầu vao hõm cổ nàng ta, hít sâu một hơi, lầm rầm như thể nói mơ: “Hy Hòa… Hy Hòa… Hy Hòa của trẫm…”.
Làn môi của Hy Hòa khẽ mấp máy dường như muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng vẫn không nói ra.
Nàng có biết lần đầu tiên trẫm thấy nàng là khi nào không?”.
Hy Hòa nhếch miệng: “Lẽ nào không phải cái ngày các cung nữ mới tiến cung đến bái kiến Tiết hoàng hậu sao?”.
Chiêu Doãn lắc đầu: “Không phải. Trước đó trẫm đã thấy nàng rồi, biết nàng rồi”.
Ánh mắt Hy Hòa lóe lên một tia dị sắc, vẻ mặt đột ngột cảnh giác mấy phần.
“Đó là tháng ba tiết xuân còn lạnh, nàng ăn mặc rất phong phanh, mũi
và bàn tay đều đỏ lên vì giá lạnh ngồi giặt quần áo bên hồ, sau đó nàng
lại lấy từ phía sau ra một bình rượu, uống vài ngụm rồi tiếp tục giặt…”. Chiêu Doãn nói đến đây thì thả tay ra, tách mình ra khỏi nàng ta, thấy
vẻ mặt Hy Hòa hoang mang, y lại cười cười, đưa tay vuốt mái tóc nàng
bằng một thái độ dịu dàng vô song, nói: “Khi đó, nàng quá chú tâm giặt
quần áo, hoàn toàn không biết ta vẫn luôn ngồi trong xe ngựa ngắm nàng ở bên đường, bắt đầu từ khi đó, ta đã tự nhủ nhất định phải có được
nàng”.
Gương mặt Hy Hòa bắt đầu biểu lộ vẻ chán ghét.
Còn Chiêu Doãn lại không hề giận dữ trước vẻ mặt của nàng, ngược lại còn cười: “Nàng có biết tại sao không?”.
Hy Hòa không đáp.
Ánh mắt Chiêu Doãn xuyên qua vai nàng nhìn về phía xa, lạnh nhạt nói: “Từ khi trẫm biết ghi nhớ đến nay, cảnh tượng nhìn thấy nhiều nhất
chính là hình ảnh mẹ đang giặt quần áo. Bà xuất thân hèn kém, phụ vương
nhất thời hứng khởi lâm hạnh bà, cuối cùng quên bà. Những cung nữ như bà đối với bà vừa đố kỵ lại vừa mỉa mai, lũ lượt giậu đổ bìm leo, thường
xuyên sai bà đi làm những công việc khổ cực nhất mệt mỏi nhất.Bản tính
bà yếu đuối, hết thảy đều phục tùng, mọi người ném quần áo cho bà, bà
đều ngoan ngoãn đi giặt. Trời lạnh giá rét, đôi bàn tay bà sưng vù như
chiếc bánh bao, nứt toác vô số vết một giọt nước thấm vào mà đau thấu
tận tim gan, để giảm bớt đau đớn bà phải đến trù phòng ăn trộm rượu…”.
Hy Hòa nhìn y chằm chằm, lần này nàng ta hoàn toàn sững sờ.
Từ khi nàng ta vào cung đến nay, hưởng hết ân sủng, có thể nói là
người ở bên Chiêu Doãn nhiều nhất trong hậu cung, nhưng đây là lần đầu
tiên nghe thấy Chiêu Doãn kể lại những chuyện thời thơ ấu của mình.
Bóng trăng che phủ, khuôn mặt Chiêu Doãn vì thế mà không rõ, chỉ có
đôi mắt vừa sâu thẳm lại vừa sáng rỡ, từ khi giấu đi nụ cười gian tà
thường ngày lại để lộ một vẻ bi thương khôn tả.
“Bà uống rượu vào thì trở nên vui vẻ, vừa ca hát vừa giặt quần áo, bà không xinh đẹp nhưng hát rất hay. Mỗi khi ta nghe thấy tiếng hát của
bà, ta cũng sẽ quên đi bao nhiêu bất hạnh mà mẹ con ta đã trải qua. Thế
nhưng, vì mất quá nhiều rượu nên đám đầu bếp phát hiện ra, bọn họ chửi
mắng bà bằng những lời khó nghe nhất thế gian, dùng đồ đạc ném bà, bà
kéo ta chạy trốn thục mạng, ta không biết những đứa trẻ đồng trang lứa
bên ngòai cung sống ra sao, nhưng có lẽ, ta của khi đó cũng chẳng khác
thằng nhỏ ăn mày đầu đường xó chợ là bao nhiêu”.
Hy Hòa thấp giọng nói: “Chẳng trách Hoàng Thượng thích Cơ Hốt đến thế…”.
Chiêu Doãn đảo mắt, nhìn thẳng vào mắt nàng.
Cơ Hốt hát rất hay, không phải vậy sao?”.
Chiêu Doãn nhếch môi khẽ cười, lắc đầu nói: “Không… không, không liên quan đến chuyện đó… Cơ, Cơ Hốt nàng ta… không giống. Nàng ta khác các
nàng…”.
Hy Hòa hừ lạnh một tiếng, lộ vẻ không đồng ý.
Chiêu Doãn nắm chặt tay nàng, tiếp tục nói: “Mùa đông năm ta lên chín tuổi đó, có một sáng, mẹ đi giặt quần áo, còn ta ở trong phòng đợi bà,
đợi mãi đợi mãi, đợi đến khi trời tối . Mịt cũng không thấy bà về. Thế
là ta ra ngoài tìm, mới phát hiện ra bà bị ngất bên hồ, một nửa thân
mình chìm trong nước lạnh giá. Ta nắm tay bà, ra sức lắc, ra sức gọi,
nhưng lắc gọi thế nào bà cũng không tỉnh lại. Ta cảm thấy sợ hãi vô
cùng, sợ bà cứ như thế mà chết, bỏ ta mà đi. Thỉnh thoảng có cung nữ
thái giám đi qua, ta cầu xin họ giúp đỡ, nhưng không ai giúp ta, không
một ai. Cuối cùng không còn cách nào khác, ta phải về nhà kiếm một tấm
ván gỗ và dây thừng, đẩy mẹ ta lên tấm ván gỗ, rồi lấy dây thừng buộc bà lại cho chắc, kéo từng chút từng chút một về nhà. Khoảng cách từ bờ hồ
đến căn nhà nhỏ tổng cộng năm trăm bước chân, ta kéo mất ba tiếng đồng
hồ. Không có trăng sáng, chỉ có ánh đèn lù mù hắt từ phía xa xa lại ta
vừa kéo vừa run rẩy, đến khóc cũng không thể khóc lên nổi”.
“Bà ấy chết rồi ư?”.
Chiêu Đoãn chăm chú nhìn sâu vào đôi mắt Hy Hòa, im lặng một lúc lâu, mới trả lời nàng: “Nếu như nàng nói ngay lúc đó, thì bà ấy chưa chết”.
Hy Hòa mím môi: “Vậy… sau đó sao?”.
“Bà ấy nằm liệt giường suốt mười ngày trời mới ra đi”.
Hy Hòa “à” một tiếng rồi không nói gì nữa.
“Mười ngày đó không một ai đến thăm bà ấy đương nhiên, cũng không có
ai đến thăm ta. Vầng thái dương nhô cao từng chút từng chút một, rồi lại lặn xuống từng chút từng chút một, chiếc bóng cũng từng chút từng chút
một di chuyển men theo khe cửa, rất chậm rất chậm. Ta nhìn những chiếc
bóng đó trong cơn mờ mịt nghĩ rằng tại sao ta lại gặp phải sơ mệnh như
thế ta là một hoàng tử cơ mà, có thân phận cao quý nhất trên đời, tại
sao lại có một tuổi thơ như thế? Tại sao thái tử Thuyên bọn họ có thể
muốn gì được nấy, áo gấm cơm ngọc, còn ta đến đưa mẹ mình về nhà cũng
không có ai giơ tay ra giúp? Tại sao những phi tử khác bị bệnh là có ngự y đến hầu hạ, còn mẹ ta lại ngắc ngoải hơi tàn trên giường suốt mười
ngày, không một ai đến hỏi thăm một câu? Thế gian này lại sao lại bất
công đến vậy? Tại sao phải đối xử với ta và bà ấy như thế? Ta… ta…”.
Chiêu Doãn từ từ nắm chặt tay, giọng nói trong chốc lát trở nên thật
nặng nề: “Ta không cam tâm!”.
Hy Hòa im lặng nhìn y với biểu cảm phức tạp, mãi sau mới nói: “Tại sao hoàng thượng phải nói cho thiếp những chuyện này?”.
“Tại…sao… ư?”. Chiêu Doãn chậm rãi nhắc lại một lần nữa ba chữ đó,
bỗng nụ cười u uất đen tối lại xuắt hiện. Trong lòng Hy Hòa thoáng lo
sợ, mỗi khi Chiêu Doãn cười như vậy nghĩa là có người sắp gặp xui xẻo.
Quả nhiên, câu sau của Chiêu Doãn chính là: “Vài năm sau đó ta biết
được tại saoa lại phải gánh chịu tất cả cảnh ngộ trớ trêu đó, biết được
nguyên nhân thực sự vì sao ta phải sống khổ sở như thế, mà nguyên nhân
đó thực ra lại vô cùng giản đơn, chỉ có hai chữ – nàng muốn biết
không?”. Y đột nhiên kéo cánh tay nàng, khiến cả người nàng bị lôi lại
gần, sau đó nhả từng chữ một trong khoảng cảch gần như gang tấc: “Cơ…
Anh”.
Hy Hòa run rẩy từng cơn.
“Cơ Anh! Là Cơ Anh khiến tuổi thơ của ta bất hạnh như vậy là Cơ Anh
đã cướp đi cuộc đời hạnh phúc đáng nhẽ ta sẽ có! Cho nên, khi ta biết
tất cả đầu mối tội lỗi này đều bắt nguồn từ hắn việc đầu tiên ta làm là
sai người giám sát hắn, xem xem con cưng thực sự của ông trời kia sống
cuộc đời vinh hoa phú quý khác biệt hoàn toàn với ta như thế nào!”.
Chiêu Doãn nói đến đây, mắt bỗng lộ ra vẻ mơ màng, y nhìn nàng đăm đắm,
ánh mắt lần nữa lại trở nên bi thương vô tận: sáu đó, ta… nhìn thấy
nàng. Ta nhìn thấy nàng rồi, à không, trẫm nhìn thấy nàng, Hy Hòa. Ngày
hôm đó, trẫm đã nhìn thấy nàng”.
Vành mắt Hy Hòa đột nhiên đỏ hoe, khàn giọng nói: “Sao Cơ Anh lại có thể có lỗi với hoàng thượng được?”.
Chiêu Doãn không trả lời câu hỏi của nàng nói thẳng toẹt: “Nàng khi
đó đã là tình nhân của Cơ Anh, hơn nữa, khi giặt quần áo nàng lại dùng
cách giống như mẹ ta uống rượu để xua lạnh… Khoảnh khắc đó trẫm cảm thấy vận mệnh bỉ ổi làm sao, cũng đáng thương làm sao. Nó cướp đi của trẫm
một người, rồi trả lại cho trẫm một người. Cho nên, mấy ngày sau, trẫm
tuyên triệu Cơ Tịch vào cung, nói với lão thất phu đó, trẫm muốn tình
nhân của con trai lão”.
Hy Hòa thở hắt ra một hơi lạnh run rẩy hỏi: “Cho nên, ngày hai mươi chín tháng ba, trong rừng hạnh, Cơ Anh…”.
“Ngày hai mươi chín tháng ba, Cơ Anh viết thư hẹn nàng đợi hắn trong
rừng hạnh nhưng mãi mà hắn chẳng xuất hiện Nàng đợi mãi mà không thấy
hắn đến, khi tức giận quay về nhà thì phát hiện cha nàng đã bán nàng cho người khác vì thua bạc. Ngày hôm sau thì nàng vào cung…”.
Cả người Hy Lạp bắt đầu run rẩy dữ dội: “Là hoàng thượng sắp đặt… tất cả những việc đó đều do người sắp đặt?”.
Chiêu Doãn dán mắt nhìn nàng ta, không hề chớp mắt: “Đúng”
Hy Hòa không chút nghĩ ngợi vung tay, chiêu Doãn không né tránh, “bốp”
một tiếng, trên gương mặt y lằn năm vết ngón tay.
“Người! Người… người”. Hy Hòa chân trần nhảy xuống giường, tức giận
đến mức gằn như không thở nổi, ôm ngực nói: “Tại sao hoàng thượng phải
làm như thế? Tại sao phải chia cắt ta và Cơ Anh? Tại sao? Chàng rốt cuộc đã cướp của hoàng thượng thứ gì? Không phải chàng là đại công thần phò
trợ hoàng thượng lên ngôi hay sao? Không phải chàng là thần tử mà hoàng
thượng tín nhiệm nhất hay sao? Chàng…”.
Chiêu Doãn lạnh lùng ngắt lời nàng ta: “Nàng nghĩ xem, hắn vì cái gì mới phò tá trẫm thành tân đế?”.
Hy Hòa sững người.
“Nàng nghĩ xem, vì cái gì mà Cơ gia không giúp thái tử Thuyên thế lực mạnh nhất, không giúp Tấn vương vốn có danh vọng, không giúp Hoằng
vương tài trí hơn người, lại chỉ giúp một kẻ không quyền không thế, xuất thân hàn vi, không chút sở trường như ta?”. Mỗi câu hỏi thốt ra, y lại
bước gần Hy Hòa một bước, Hy Hòa bị dồn ép, lùi đến góc tường, cuối cùng không còn chỗ lùi nữa nàng ta thất thanh kêu lên, ngồi thụp xuống đất.
Chiêu Doãn từ trên cao nhìn xuống nàng ta như thế, ánh mắt sắc nhọn
lạnh lẽo như kiếm như băng, giống như hết thảy mũi nhọn sắc bén trên đời này: Chính là vì hắn nợ ta! Hy Hòa, Tiểu Hồng của nàng đã thực sự nợ ta quá nhiều quá nhiều cho nên, ngay cả đến nàng cho ta thì hắn vẫn nợ ta, còn lâu hắn mới trả đủ, mãi mãi không trả đủ”.
Là bao nhiêu năm về trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng gian phòng
tối tăm, chiếu sáng người đỏ mặt mày điên cuồng, soi tỏ y đang gào thét – Nợ ta, nợ ta, cả đời này kiếp này hắn đều nợ ta!
Đầu Cơ Anh vã mồ hôi lạnh, chàng tỉnh dậy.
Tim chàng bỗng nhói đau dữ dội, tựa như bất cứ lúc nào cũng có thể xé rách lồng ngực chui ra cơ thể lại hoàn toàn bất động, giống như đang
chìm trong đầm lầy, không thể nào cựa quậy nổi.
Chàng há to miệng, hít vào thở ra thật sâu, nhưng vẫn không cảm nhận
được sức mạnh của không khí, chỉ cảm thấy bản thân sắp đứt hơi đến nơi.
Chính lúc này có người kéo màn sang một bên, rồi một bàn tay ôm chặt
lấy cánh tay chàng, một bàn tay khác cầm bình thuốc lạnh ngắt áp lên môi chàng, chất lỏng đắng ngắt rót xuống, không khí dường như cũng theo đó
mà tràn vào khoang mũi, cảm giác ngạt thở biến mất trong tích tắc, lúc
này chàng mới có thể thả lỏng người.
Đập vào mắt chàng là khuôn mặt nhỏ nhắn đang mặt chau mày nhíu của Tiết Thái: “Ngài bị bóng đè rồi”.
Cơ Anh thở hổn hền, ánh mắt có chút bải hoải vì cơn đau vừa mới qua đi.
Tiết Thái cắt bình thuốc, đột nhiên lại quay người, hỏi một câu: Tiểu Hồng là ai?”.
“Hử?”. Cơ Anh hơi sững sờ Tiết Thái nhìn chàng: “Ban nãy ngài vừa gọi cái tên này”.
Cơ Anh liếc nhìn xuống, không tỏ thái độ gì, Tiết Thái lại nói: “Đựợc rồi, không cần nói đâu”. Nói đoạn, hắn tiếp tục bước về phía trước. Khi hắn vén bước màn chắn gió(4), Cơ Anh lên tiếng: “Đại Thiên thế giới ,
chúng sinh muôn vàn, có thể nói cái tên là đặc chất bẩm sinh. Khi tất cả mọi người cùng dùng một cái tên giống nhau để gọi người cái tên đó đã
trở thành tượng trưng cho ngươi. Nhưng, luôn có một người vô cùng đặc
biệt với ngươi, vì thế cũng sẽ đùng một cái tên khác để gọi ngươi”. Nói
đến đây, chàng dừng lại một lát, khóe môi khẽ nhếch lên, nở một nụ cười
nhàn nhạt: “Tiểu Hồng chính là cái tên đặc biệt đó của ta ” .
Tiết Thái im lặng nhìn chàng, ánh mắt sáng lấp lánh.
Hàng lông mày Cơ Anh chau lại, kế đó lại duỗi ra, dáng điệu mang theo một chút xấu hổ hiếm gặp, càng lúc càng dịu dàng hơn: “Cách xưng hô này có phải rất cổ quái không?”.
“Không cổ quái!”. Tiết Thái đáp: “Ngài vốn dĩ thích màu đỏ”.
Lần này đến lượt Cơ Anh ngạc nhiên: “Sao ngươi biết?”. Người đời đều
biết Kỳ Úc hầu thích màu trắng, đến thánh thượng cũng ban thưởng cho
chàng Bạch Trạch.
“Trong thọ yến của hữu tướng năm đó, ta hỏi xin ngài chiếc bản chỉ, ngài nhất định không cho. Mà chiếc bản chỉ đó màu đỏ”.
Nụ cười của Cơ Anh nhạt dần, gương mặt trong khoảnh khắc đã nhuốm màu bi thương.
Nơi sâu thẳm của nàng nhĩ bỗng khẽ rung lên, phảng phất như có âm
thanh từ phương xa vọng lại, xa xôi như cách cả một đời. Giọng nói đó
nói: “Ta gọi chàng là gì nhỉ? Ta á, sẽ không gọi chàng là công tử, như
thế nghe xa cách quá; cũng không thể gọi chàng là CơAnh, như thế nghe
binh thường quá; càng không thể gọi chàng là Cơ lang, như thế nghe khoa
trương quá… ta muốn dùng một cái tên khác tất cả mọi người trên thế gian này để gọi chàng, như thế mới chứng minh được, tới chàng, ta cũng khác
với tất cả mọi người trên thế gian này. Đối với chàng, ta khác với mọi
người, đúng không? Tiểu Hồng…của ta”.
“A ha, lông mày của chàng chau lại kìa, khóe mắt cũng nheo lại, chàng không thích cái tên này sao? Tại sao thế? Chàng không thích màu đỏ à?
Nhưng mà, màu đỏ là màu ta thích nhất. Thích nhất nhất đấy. Ta dùng mầu
sắc mà ta thích nhất nhất, để gọi chàng – người mà ta thích nhất nhất,
nghĩ như thế, chàng sẽ chấp nhận được phải không? Tiểu Hồng… của ta”.
“Ta không biết thích một người là cảm giác như thế nào. Nhưng mỗi lần gặp được chàng, trong lòng ta rất ấm áp. Mỗi lần không gặp được chàng,
chỉ cần nhớ đến chàng, là cảm thấy lạnh lẽo biết bao. Quá trình tỉa cây, hái hoa, rao bán vốn khô khan và kéo dài, thế nhưng nghĩ đến dáng hình
của chàng, nghĩ đến những lời chàng đã nói với ta và cả những lời chàng
sắp nói, thời gian đã trôi nhanh hơn, vụt cái đã qua. Thần kỳ biết bao,
tại sao trong sinh mệnh con người, lại xuất hiện kỳ tích nhường này? Rõ
ràng không có gì thay đổi nhưng chỉ vì có thêm một người, từ đây ánh
dương mỗi ngày đều mới mẻ, không khí mỗi ngày đều thơm hương, những
người xa lạ ta gặp đều trở nên thân thiết và dễ nhìn hơn… Chàng có phải
tiên nhân trong truyền thuyết, đến để thi triển phép thuật mầu nhiệm với ta hay không? Mà sao lại khiến ta trở nên vui vẻ và hạnh phúc thế này.
Tiểu Hồng… của ta”.
“Ta thực sự vui vì chàng xuất thân quý tộc, gia thể hiển hách. Ấy,
dường như chàng hơi ngạc nhiên, chàng không vui sao? Hãy nghe ta nói hết đi mà. Ta cảm kích biết bao vì ông trời đã thiên vị cho chàng như thế,
khiến chàng vừa ra đời đã có được một thứ tốt đẹp nhất thế gian – được
các văn sĩ xuất chúng dậy dỗ, được rèn giũa và hun đúc bởi nền văn hóa
thượng lưu tao nhã, giúp chàng có được học thức uyên bác, tầm nhìn sâu
rộng, khiêm nhường cung kính văn nhã độ lượng, chiếm được vị trí cao mà
những kẻ phàm phu tục tử vì thiếu điều kiện nên cả đời cũng không thể
đuổi kịp. Xuất thân của chàng đã tạo thành chàng của hiện tại, cho nên,
bây giờ ta mới có thể gặp được chàng tót vời như thế này, cho nên ta rất vui. Tiểu Hồng… của ta”
“Tiểu Hồng… của ta”.
“Tiểu Hồng… của ta”.
…
Giọng nói đó xoay tròn, quẩn quanh, lặp lại. Hết lần này đến lần
khác, từng từ từng chữ rõ ràng đến thế, mà biểu cảm trên gương mặt của
người nói khi đó lúc nhíu mày lúc nhoẻn cười lúc nhướn mi lúc chớp mắt,
vẫn rõ ràng như thế.
Thế gian này, đau đớn nhất chính là hai chữ “đặc biệt”.
Khi ngươi gặp một người đặc biệt, khi những gì người đó nói với
ngươi, làm cho ngươi đều hoàn toàn khác những người bình thường khác,
thì chắc chắn nàng đã trở thành khắc cốt ghi tâm của người Đặc biệt là,
khi đó, năm đó, còn thơ ngây biết mấy.
Cơ Anh trầm ngâm trong giây lát, khoác áo xuống giường, đẩy cửa ra, bên ngoài đêm lạnh như nước.
“Ánh trăng này chiếu xuống Trình quốc, cũng chiếu xuống Bình quốc”.
Đối diện với câu nói chẳng đầu chẳng cuối của chàng, Tiết Thái không
hề tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ lạnh nhạt tiếp lời: “Nhưng dưới ánh trăng của
Bích quốc, mới có thứ mà chủ nhân nhớ nhung”.
Cơ Anh nghe xong, thái độ lại càng trầm xuống hơn, một lúc sau chàng
mới quay người, nhìn thẳn vào mắt Tiết Thái nói: “Có thứ của ta. Phải
chăng có thứ của ngươi?”.
Tiết Thái cụp mắt, thấp giọng nói: “Nô tài không có thứ gì để nhớ nhung”.
Cơ Anh nhìn hắn đăm đăm một lúc, rồi lần nữa ngẩng đầu nhìn vầng
trăng hạ huyền trên bầu trời, thầm thì: “Không có cũng tốt. Bởi vì một
khi có rồi là không thể cắt đứt nổi. Giống như ta giờ phút này, lại…
muốn về nhà đến thế”.
Chàng ngừng lại một lát, nhắc lại: “Ta muốn về nhà Tiểu Thái”.
Ánh mắt Tiết Thái lóe lên mấy cái, rồi cũng chìm vào tịch liêu.
Ngày mùng một tháng tám.
Trăng đêm như móc câu, ánh sáng mờ tối.
Ánh trăng chiếu xuyên qua khung cửa sổ bằng vải lụa, lọt vào trong
khoang thuyền, soi lên Khương Trầm Ngư đang lấy tay làm gối, mơ màng ngủ ngục trên đống sách vở bừa bãi cuốn mở cuốn gập trên bàn.
Một cuốn sách y thuật bị cánh tay nàng chạm phải, rơi từ trên bàn
xuống, khi chạm đất phát ra tiếng “bộp”. Nàng bỗng choàng tỉnh giấc, dụi dụi mắt rồi khẽ gọi: “Hoài Cẩn?”.
Trong phòng vẫn im lặng như tờ, không có ai trả lời.
Nàng nhìn đồng hồ cát đặt trên bàn, vừa mới qua giờ Sửu lúc nửa đêm
canh ba như thế này, Hoài Cẩn không thể ra ngoài, lẽ nào ngủ say quá,
cho nên không nghe thấy nàng gọi?
Khương Trầm Ngư đứng dậy, đi vào gian phòng sau chiếc bình phong,
nhìn thấy Hoài Cẩn đang ngồi trên sàn bên cạnh giường, tựa vào đầu
giường không hề nhúc nhích. Nàng không kìm được bật cười: “Sao lại ngồi
ngủ thế? Hoài Cần, mau tỉnh dậy, lên giường ngủ đi chứ…”. Ngón tay mới
chạm vào bả vai cả người Hòai Cẩn đã đổ ập xuống đất.
Khương Trầm Ngư kinh sợ, còn chưa kịp gọi, cánh tay đã bị tóm chặt,
kế đó trên cổ cũng có cảm giác lạnh 1ẽo, hai cánh tay đã bị bẻ quặt ra
sau lưng, không thể cựa quậy được.
Đồng thời, một giọng nói vô cùng quen thuộc vang lên sát bên tai nàng: “Ngu thị, đã lâu không gặp…”.
Trái tim Khương Trầm Ngư trùng xuống – Là Di Phi.
Ánh đèn trên thư án phía xa chiếu hắt vào khoảng sau lưng nàng, phác
họa nên gương mặt của kẻ đang uy hiếp nàng, lông mày dài đến tóc mai,
mắt tựa hoa đào, khi cười thấy một bên khóe miệng nhếch lên, lộ rõ vẻ tà mị và cay nghiệt, không phải ai khác, chính là tam hoàng tử Di Phi đã
nhảy xuống nước tháo chạy khi nội loạn Trình quốc xảy ra.
Không ngờ gã lại ở trên thuyền của Bích quốc!
Càng không ngờ gã lại ở trên thuyền của mình tiến vào lãnh thổ Bích Quốc!
Gã muốn làm gì?
“Sao? Ngạc nhiên lắm phải không?”. Di Phi cười hì hì: “Di Thù giăng
thiên la địa võng trong đất Trình quốc để bắt ta, nhưng không ngờ ta sớm đã chuồn lên quan thuyền của các nàng xuất cảnh từ lâu. Nàng không muốn biết ta lên thuyền bằng cách nào sao?”
Khương Trầm Ngư cố gắng hết sức để trấn tĩnh bản thân, đáp lại lời
gã: “Ta chỉ thấy lạ là vì ngươi mai phục trên thuyền lâu như thế tại sao trong đêm cuối cùng, khi đã sắp thành công ngươi lại xuất hiện trước
mặt ta?”.
Di Phi cười “ha ha”, cúi đầu xuống sát gần mặt nàng, giọng nói trầm
thấp và mềm mỏng, tựa như thủ thỉ với tình nhân: Khương Trầm Ngư bị kích động đến mức giãy giụa vùng vẫy theo bản năng, Di Phi lập tức gia tăng
lực độ, giữ chặt nàng, trầm giọng quát: “Đừng nhúc nhích! Ta không muốn. thực sự làm nàng đau”.
Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy tầm nhìn bắt đầu mơ hờ, nàng vội vàng chớp mắt để dằn lệ xuống.
“Đúng rồi, như thế mới đúng, ngoan nào, chớ phản kháng. Nếu không,
không chỉ nàng mà đến tì nữ của nàng, còn có tên ám vệ nửa sống nửa chết ở gian bên cạnh, e là cũng không giữ được tính mạng đâu”. Di Phi vừa
nói vừa đưa tay ra rờ rẫm gương mặt nàng, ánh mắt lóe sáng, nói: “Ta đã
nói một dược nữ quên sao có thể có được tài hoa khí độ như nàng? Chỉ là
ta đoán vô số khả năng, nhưng lại không ngờ rằng, hóa ra nàng lại là
hoàng phi của Bích quốc. Tên tiểu tử Chiêu Doãn đó đúng là không biết
thương hoa tiếc ngọc, lại phái nữ nhân của mình đi vào chỗ ra sông vào
chết, xem ra hắn thực sự chẳng quan tâm đến nàng chút nào. Đã không quan tâm đến nàng, ban đầu sao còn phải cướp nàng khỏi tay Cơ Anh chứ?”.
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, xem ra Di Phi ẩn mình trên thuyền mấy
ngày nay, đã điều tra rõ hết thảy mọi điều về nàng. Mà giờ này phút này, bị gã khống chế, bị gã khinh mạn, gã dùng những lời cợt nhả nói ra quá
khứ mà nàng không muốn nhớ lại, nếu nói không kích động, không đau đớn,
hay không phẫn nộ thì đều là giả dối tất. Nhưng nếu tỏ ra nửa phần đau
khổ, thì chẳng phải sẽ thỏa mãn tâm nguyện của tên tiểu nhân này hay
sao.
Khương Trầm Ngư đã quyết ý, tuyệt đối không để Di Phi toại nguyện, vì thế nàng mở to mắt nhìn thẳng đối phương, trên gương mặt trắng bệch
không để lộ bất cứ cảm xúc nào.
Thấy dáng vẻ của nàng, Di Phi lại cười nhạt, thân mật nói: “Thật mạnh mẽ làm sao… có điều, nàng như vậy, thực sự khiến người ta thích đó…”.
Nói đoạn, gã hôn lên gò má nàng, làn môi nhẹ nhàng di chuyển, từng chút
từng chút một, chậm rãi mà dâm đãng tiến lại gần.
Thấy môi gã sắp di chuyển đến môi nàng, cuối cùng Khương Trầm Ngư
đành mở miệng: “Ngươi đã có điều muốn cầu xin ta, vậy thì không được bỡn cợ t t a ” .
Di Phi dừng lại, nheo mắt nói: “Cái gì?”.
Khương Trầm Ngư tiếp tục nhìn chằm chằm về phía trước, bình thản nói
dằn từng từ một: “Nếu không, nỗi sỉ nhục mà ta phải chịu ngày hôm nay
ngày mai ngươi chắc chắn phải trả lại gấp mười gấp trăm lần. Đừng quên
đây là Bích quốc. Mà Bích quốc là địa bàn của Khương gia ta”.
Di Phi nheo mắt nhìn nàng một lúc lâu, cuối cung gã buông tay ra.
Khương Trầm Ngư vội quay người lùi ra sau may bước, nàng tựa vào vách thuyền, cảnh giảc nhìn gã. Hai người cứ mặt đối mặt nhìn nhau rất lâu
rất lâu như thế, Di Phi đột nhiên lại đưa tay ra một cách vô cùng lịch
thiệp, làm tư thế. mời: “Thục phi nương nương, mời ngồi”.
Khương Trầm Ngư lại nhìn gã vài cái, rồi mới kéo một chiếc ghế bên
cạnh và ngồi xuống. Trong ống tay áo, có thể cảm thấy một cách rõ ràng
tay nàng đang không ngừng run lẩy bẩy. Nàng bỗng cảm thấy vừa có chút
chán nản vừa có chút tức giận, làm thân con gái dù cho có thông minh như thế nào, nhưng khi đối diện với kẻ bỉ ổi như thế này, cũng hoàn toàn
thất thế.
Di Phi ngó nàng, thong thả nói: Nhìn điệu bộ của nương nương như là hận không giết được ta vậy”.
“Không, ta không muốn giết ngươi”. Khương Trầm Ngư cố ý ra vẻ lạnh
lùng nói: “Ta chỉ muốn tìm mười bảy, mười tám người tới, làm lại một lần nữa việc mà ngươi vừa làm với ta lên người ngươi”.
“Hả? Vậy thì ta được hưởng thụ quá rồi…”. Lời của Di Phi còn chưa
dứt, Khương Trầm Ngư đã bổ sung: “Tên nào tên ấy mập mạp mũm mĩm trên
hai trăm cân, mười năm không tắm rửa, vừa lăn lộn trong bùn, miệng nhai
tỏi và cá sống…”.
Lông mày Di Phi dựng lên thành một đường cong kỳ dị, gã nhìn nàng, ánh mắt nửa cười nửa không sáng lên.
“Đúng rồi, còn phải toàn là đàn ông”. Nói xong, nàng cũng tự thấy
không chịu nổi, liền bật cười thành tiếng. Còn Di Phi lại không cười,
chăm chú nhìn nàng, nhẹ nhàng nói: Nếu nàng có thể thỏa mãn ước nguyện
của ta, để nàng trút giận như vậy, cũng đâu có gì đáng ngại”.
Khương Trầm Ngư sững người một lát. Trong ánh sáng vàng mờ tối, Di
Phi đứng bên cạnh bức màn dầy và nặng, vận áo vải gai màu xám như một
tên tùy tùng bình thường của Bích quốc, không còn dáng vẻ phong lưu khoa trương khi trước. Mà vứt bỏ cái vẻ bề ngoài cuồng vọng cợt nhả này, thì gã chẳng qua cũng chỉ là một thiếu niên mười chín tuổi gầy gò mà thôi.
Ánh sáng hắt từ sau lưng gã tới, vạch ra một đường gầy guộc.
Khương Trầm Ngư cụp mắt, khẽ giọng than: “Ngươi lên nhầm thuyền và cũng cầu xin nhầm người rồi”.
“Câu này nghĩa là sao?”.
“Đáng nhẽ ngươi không nên lên thuyền của Bích quốc. Nếu ngươi lên
thuyền của Yên quốc, có thể mượn nghìn quân; Nếu ngươi lên thuyền Nghi
quốc có thể vay nghìn vàng; nhưng ngươi lại lên thuyền Bích quốc, thì
chẳng có gì cả. Đó là điều thứ nhất. Phụ thân ta hữu tướng, nhưng trong
tay không nắm thực quyền; ta tuy là đế phi, nhưng không được sủng ái.
Ngươi không đi cầu người khác, lại đến cầu một kẻ không quyền không thế
là ta. Đó là điều thứ hai. Vậy nên tâm nguyện của ngươi sao có thể thỏa
mãn?”.
Di Phi chăm chú nhìn nàng, rất lâu sau mới nở nụ cười nhàn nhạt gã
cũng kéo một chiếc ghế rồi lười nhác ngồi xuống, thong thả nói: “Nương
nương thực sự biết ta muốn cầu xin thứ gì sao?”.
“Hoàng vị?”. Dường như Di Phi nghe thấy câu chuyện hài nực cười nhất
trên đời, gã bật cười ha hả. Khương Trầm Ngư không khỏi cau mày – Cười
như vậy không sợ người ngoài nghe thấy sao? Xem ra không chỉ mình gã, mà ba tên thị vệ võ nghệ cao cường của gã cũng cùng lên thuyền, lúc này
đang canh gác ngoài cửa, thế nên gã mới dám không kiêng nể gì như vậy.
Di Phi vừa cười vừa nói: “Nương nương ơi là nương nương, uống cho
nàng thông minh băng tuyết, lại nhìn nhầm tiểu vương ta. Thứ tiểu vương
ta muốn không phải là hoàng vị, không những không phải là hoàng vị,
ngược lại ta lại muốn lấy hoàng vị làm quà để cầu kiến một người”.
Trong đầu Khương Trầm Ngư đột nhiên vỡ òa ra một đáp án, mà Di Phi
rất nhanh đã nói ra đáp án đó: “Ta muốn nhờ nương nương dẫn mối, để ta
gặp Chiêu Doãn một lần”.
Cát chảy như nước, tia khúc xạ từ chiếc đồng hồ cát ánh lên gương mặt hai người, mờ mờ tỏ tỏ. Trong phòng ngủ, bầu không khí tĩnh mịch, dường như đến tiếng hít thở cũng nhỏ đến mức không thể nghe thấy.
Rõ ràng chỉ trong khoảnh khắc điều cấm kỵ đã được sáng tỏ nhưng khi
xác nhận lại chẳng thể nào khẳng định. Kéo một sợi tóc mà làm lay động
đến toàn thân, trong lòng Khương Trầm Ngư tự vấn: Chuyện này nên hay
không nên giúp; có thể hay không thể giúp?
Tại sao Di Phi muốn tìm Chiêu Doãn, nguyên nhân quá đơn giản: Gã chỉ có thể tìm Chiêu Doãn.
Từ khi Hách Dịch và Chương Hoa ủng hộ Di Thù lên ngôi, liên minh bốn
nước đã được thiết lập.Như thế muốn thuyết phục Hách Dịch và Chương Hoa
thay đổi phe phái, rõ ràng cực kỳ khó khăn. Có thể coi là mắt xích yếu
nhất trong phe đồng minh chính là Bích quốc, nước duy nhất quốc chủ
không tự mình đến Trình quốc. Muốn phá hoại mối liên minh này, thì phải
bắt đầu xuống tay từ đây.
Hơn nữa, so với Hách Dịch và Chương Hoa, Chiêu Doãn hiển nhiên dễ dàng bị thuyết phục hơn nhiều. Bởi vì…
“Nương nương đang nghĩ. .. tại sao? Tại sao ta lại không tìm Nghi
vương giàu nứt đố đổ vách không tìm Yên vương hùng tài thao lược, mà lại chỉ đi tìm Bích vương nền móng còn yếu?” Di Phi giơ một bàn tay lên khẽ vuốt lông mày bên trái của mình, trong nụ cười lại tràn đáy sự châm
biếm: “Đương nhiên là vì… so với hai vị hoàng đế kia, Bích vương tham
lam hơn hẳn”.
Tham lam.
Không sai, chính là từ này.
Nhớ lại vị quân vương thiếu niên luôn cười híp mắt nhưng nụ cười
không toát lên từ đáy mắt đó, Khương Trầm Ngư bất giác thấy ớn lạnh.
“Từ năm ngóai, Bích vương đã âm thầm liên hệ với đại ca của ta, nói
sẽ giúp huynh ấy xưng đế và tặng kèm các đồ vật quý hiếm như sắt bát
sắc. Chẳng ngờ tên ca ca bất tài của ta lại đem kế hoạch nói cho Di Thùà tặng sơ sắt đó cho Di Thù”.
Khương Trầm Ngư nhớ đến đầu ngọn thương bị Phan Phương đánh gãy.
“Đại ca ta vẫn luôn tưởng rằng Di Thù thực lòng muốn giúp huynh ấy,
cho nên cái gì cũng dựa vào ả, kết quả lại bị Di Thù lợi dụng, cùng với
Kỳ Úc hầu tài trí giỏi giang đó của ả mưu tính cướp thế lực, đoạt ngai
vàng của huynh ấy. Nếu như ta đoán không nhầm, hành động lần này của Kỳ
Úc hầu, Bích vương không được báo trước”.
Trái tim Khương Trầm Ngư từ từ chìm xuống: Kỳ thực nàng cũng lờ mờ
đoán được khả năng này, nhưng thấy Cơ Anh trước sau vẫn có sẵn chủ kiến
như không có chuyện gì xảy ra, nên cũng tạm gác lo lắng, nhưng bây giờ
lại bị Di Phi cố ý khơi ra, bỗng cảm thấy áp lực nặng nề ập đến.
Di Phi chớp mắt: “Cho nên, nương nương cảm thấy còn có người nào có
thể dễ dàng gây chuyện hơn vị đế vương đang Phẫn nộ này? Và có người nào có thể dễ dàng thuyết phục hơn vị đế vương tham lam này?”.
Khương Trầm Ngư mặt mày trắng bệch, trầm giọng nói: “Nhưng ngươi đựa vào cái gì mà cho rằng ta sẽ giúp ngươi?”.
Di Phi không trả lời ngay, gã thu lại nụ cười, chăm chú nhìn nàng với vẻ buồn bã.
Khương Trầm Ngư tiếp tục: “Như ngươi nói lúc trước, Kỳ Úc hầu là ý
trung nhân của ta, tại sao ta phải giúp ngươi để khiến hoàng thượng vì
chuyện Trình quốc đột ngột đổi chủ mà trút giận lên người trong lòng
ta?”.
Đồng tử trong mắt Di Phi bắt đầu co lại, rất lâu sau gã mới nói: “Những lời như vậy mà nàng cũng dám nói ra…”.
“Có gì mà ta không dám?”. Khương Trầm Ngư nhìn gã chằm chằm, cười
lạnh: “Ngươi cho rằng vì cái gì mà ta không chịu ngoan ngoãn làm hoàng
phi, mà lại làm một mưu sĩ có thể bị hi sinh bất cứ lúc nào? Ngươi cho
rằng vì cái gì mà ta phải dùng tấm thân nhi nữ yếu đuối này bất chấp
lành ít dữ nhiều nhảy vào vòng xoay chính trị? Ngươi cho rằng vì cái gì
mà lúc này ta phải chịu sự đối đãi vô lễ khinh bạc như thế này của ngươi ở nơi đây?”.
Di Phi nheo mắt, nén giọng xuống cực thấp cực chậm, dường như từng chữ từng chữ đều lọt qua từng kẽ răng: “Là vì Cơ Anh?”.
Khương Trầm Ngư không hề do dự đáp: “Đúng thế! Cho nên, ta sẽ không
dẫn mối giúp ngươi, ta sẽ không làm bất cứ chuyện gì tốn hại đến Cơ Anh! Hãy nghe cho rõ, ta, tuyệt đối, không làm”.
Ánh mắt Di Phi liếc nhìn Hoài Cẩn nằm dưới đất.
Khương Trầm Ngư lập tức bổ sung thêm: “Dù cho ngươi có dùng tính mạng của thị nữ thân cận và ám vệ của ta để uy hiếp ta cũng vô dụng. Bọn họ
nếu chết vì ta, ta cũng lắm cũng sẽ lấy mạng đền cho họ, nhưng chuyện
không thể làm, ta vĩnh viễn sẽ không làm”.
Nét mặt Di Phi trở nên cổ quái, vì quá phức tạp mà khó có thể hiểu
được, gã dán mắt nhìn nàng, rất lâu sau vẫn không nói năng gì.
Trong bóng sáng, thiếu nữ ngồi trên ghế mày mắt như tranh vẽ, hàng mi đen rợp, ánh mắt sáng trong, khóe miệng mím chặt yếu đuối mà kiên
cường, giọng như một viên dạ minh châu phát sáng lấp lánh.
Đồng tử trong mắt Di Phi từ nhạt chuyển sang đậm, cuối cùng gã khẽ
thở dài một tiếng: “Nàng tên là Khương Trầm Ngư, là Trầm Ngư trong “trầm ngư lạc nhạn’?”.
“Chẳng phải ngươi đã biết rồi sao?”.
“Nàng chào đời vào giờ Thìn ba khắc ngày Bính Sửu tháng Canh Tí, năm nay mới mười lăm tuổi”.
Khương Trầm Ngư cảm thấy câu hỏi của gã rất kỳ quặc, không khỏi có ý đề phòng: “Rốt cuộc ngươi muốn nói gì?”.
Di Phi lấy tay vuốt mày, hơi hơi cúi đầu, cười rung cả vai, vừa cười
vừa lắc đầu than rằng: “Nhân sinh như một ván cờ, quả nhiên không sai
chút nào. Mùa xuân năm ngoái, ta từng gặp cha nàng ở Tân Châu, Cầm Tửu
hiến kế cho ta hãy xin cưới con gái của ông ta, lúc đó ta cao ngạo,
không chịu đồng ý, sớm biết người sẽ gặp là nàng…”. Nói đến đây, giọng
gã thấp dần, thấp đến mức không nghe thấy gì nữa.
Mặt Khương Trầm Ngư đỏ bừng như phát sốt, một mặt cố nhiên là nàng
không ngờ giữa mình và Di Phi có một mối liên quan sâu xa đến vậy, một
mặt bị chấn động vì sự thực phụ thân nàng và Di Phi từng ngầm qua lại
với nhau. Nghĩ lại thái độ của phụ thân từ khi nàng đi sứ đến nay, rõ
ràng thân là thần tử của Bích quốc, nhưng lại không theo hoàng thượng
phù chính Lân Tố, cũng không theo Cơ Anh giúp đỡ Di Thù, sao lại có thể
đặt mình ngoài cuộc không hề đếm xỉa như vậy chứ. Ngẫm lại, chẳng lẽ Phụ thân chọn tam hoàng tử Di Phi sao? Mà trước đây Di Phi không chỉ âm
thầm giành được sự ủng hộ của Nghi quốc, mà cũng đã thỏa thuận được điều kiện nào đó với phụ thân nàng rồi chăng?
Hết câu hỏi này đến câu hỏi khác bật ra trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy đáng sợ, nàng nắm chặt tay lại, cảm giác có một nỗi bất an trào
dâng trong lòng – Vận mệnh lớn mạnh như thế, phức tạp như thế, khiến
người ta kinh hãi như thế…
Khương Trầm Ngư cụp mi, cắt giọng nói pha lẫn chút mỏi mệt: “Cho nên, sở dĩ ngươi có thể thuận lợi ẩn nấp trên thuyền của chúng ta, đều là
nhờ phụ thân ta âm thầm giúp đỡ”.
“Ha ha”. Di Phi chỉ cười, nhưng nụ cười đó không nghi ngờ gì nữa đã xác minh tất cả.
“Cho nên, ngươi điều tra thân phận thực sự của ta, trong đêm khuya
khoắt đến tìm ta, bảo ta đưa ngươi đến gặp Chiêu Doãn, vì đoán chắc rằng ta sẽ không thể chối từ?”.
“Ha ha”.
“Nếu như ta từ chối, việc phụ thân ta và ngươi ngầm liên hệ với nhau
sẽ bị phơi bày hoàng thượng biết được chắc chắn sẽ nổi giận, đến lúc đó
Khương gia chúng ta sẽ là Tiết gia thứ hai?”.
Khương Trầm Ngư túm chặt ống tay áo của mình, chất lụa mềm mại biến
dạng trở nên nhàu nhĩ dưới ngón tay nàng: “Phụ thân ta xưa nay hành sự
luôn luôn thận trọng, nhưng lại để lại nhược điểm lớn như thế này cho
ngươi… Xem ra, đây không chỉ là ý của ngươi, mà cũng 1à ý của ông ấy
chăng?”.
Lần này, Di Phi không cười nữa. Gã im lặng nhìn nàng, ánh mắt dìu dịu mang lẫn chút xót thương.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư đờ đẫn rớt xuống đất, ván nền bằng gỗ cây
dữu(5) bóng loáng bị bóng râm che phủ, giống như cuộc đời của nàng, rõ
ràng mong mỏi ánh sáng đến tột độ nhưng lại đủ thứ níu kéo, kìm chân,
không thể giải thoát.
Phụ thân của nàng nhìn tưởng nhu nhược, ngu tối vô năng.
Nhưng một người vô năng thực sự sao có thể trở thành hữu tướng của
Bích quốc suốt bảy năm? Trong quãng thời gian đó trải qua một loạt sóng
gió tiên đế băng hà, thái tử chết trận, Chiêu Doãn đoạt ngôi, Tiết gia
diệt môn, nhìn tưởng như không hề làm gì, nhưng trước sau luôn yên ổn.
Một người vô năng sao có thể bí mật huấn luyện nhiều ám vệ đến thế, ngấm ngầm bố trí thế lực đến tận các nước khác?
Phụ thân của nàng kỳ thực lợi hại hơn những gì nàng thấy, nàng biết và nàng tưởng tượng.
Lợi hại đến mức lúc này phải dùng một người ngoài để ép nàng đưa ra lựa chọn.
Hễ nghĩ đến điểm này, trái tim nàng lại đau đến mức không thể kìm nén nổi.
Việc làm của phụ thân không nghi ngờ gì nữa là muốn đối đầu với Cơ
gia, cho nên, ông đang ép nàng, ép nàng vứt bỏ công tử, toàn tâm toàn ý
bảo vệ gia tộc.
“Ngàynày…”. Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói u uất: “Quả nhiên đến rồi…”.
Ta sợ công tử lấy ta, không biết là hoa hay là phúc. Nỗi lo từ rất
lâu về trước đó, theo thời gian đã lắng kết thành lời nguyền, biến thành kiếp nạn khắc cốt ghi tâm đã đến ngay trước mắt rồi?
Bởi vì ta là con gái của Khương gia.
Nàng họ Khương, tên gọi Khương Trầm Ngư.
Một khi hai nhà nảy sinh xung đột, ta sợ, ta sẽ hi sinh công tử, lựa chọn nhà mẹ đẻ.
Một lời thành sấm truyền.
Vận mệnh.
Vận mệnh lớn mạnh, phức tạp và khiến người ta sợ hãi như thế.
Vầng thái dương từ trên mặt biển xé tầng mây nhô lên, bình minh đến trong nháy mắt, rực rỡ chói lòa.
Khương Trầm Ngư đứng ở mũi thuyền, chăm chú ngắn bình minh như một ngọn lửa đỏ, ánh sáng trong đôi mắt như ánh nắng sớm.
“Tiểu thư, về phòng nhé”. Hoài Cẩn nói.
Khương Trầm Ngư mở miệng, giọng nàng mơ mơ hồ hồ như nói mơ: “Ta từng không hiểu tại sao phu tử nói trong mệnh của ta thiếu ngọc, sẽ thành
thương tổn lớn. Ta ngỡ liên quan đến bát tự, đến ngũ hành. Nhưng ngọc
không phải kim loại không phải đá, thiếu hay không thiếu thì có quan hệ
gì? Không ngờ… thật không ngờ…”.
Tiểu thư…”.
“Hoài Cẩn, rõ ràng ta đã có em và Ác Du, tại sao vẫn còn vô duyên với ngọc?
“Tiểu thư…”.
“Rõ ràng không phải tin số mệnh. Nhưng, e rằng ta thực sự bị nguyền rủa cũng không chừng”.
“Tiểu thư…”. Bộ dạng của Hoài Cần như chực khóc đến nơi.
Khương Trầm Ngư quay người, nhìn thẳng vào nàng ta, bỗng mỉm cười,
sau đó lại nhẹ nhàng nắm chặt tay nàng ta nói: “Cho dù thế nào, ta đã có ba mươi sáu ngày này. Ta phải… cảm tạ ba mươi sáu ngày này. Trong ba
mươi sáu ngày này, ta rất vui. Thực sự, thực sự rất vui”.
“Tiểu thư…”.
Khương Trầm Ngư quay người nhìn biển lớn xán lạn không chớp mắt, rành rọt nói: “Hoài Cẩn, em nhìn xem, ánh dương đẹp làm sao”.
Ánh dương đẹp làm sao.
Thế nhưng, lần này nó không mang đến những ngày tháng hi vọng. Mà sẽ mang tới sự hủy điệt thiêu đốt hết thảy.
Một tia sét rạch ngang bầu trời, những đám mây đen kịt đột ngột rách
toang, hắt ra một ha sáng màu đỏ đậm, ngay sau đó trời đổ mưa như trút
nước.
KhươngTrầm Ngư vén rèm ngẩng đầu nhìn ra xa, Hoài Cẩn phía sau nói:
“Bầu trời trên biển thật là kỳ lạ, ban sớm còn nắng hừng chiếu rọi, bây
giờ đã mưa tới tấp rồi”.
Bờ sông phía xa xa có một người áo xanh ô đỏ đứng xúm lại, trông cực
kỳ bắt mắt. Khương Trầm Ngư liếc nhìn họ một cái rồi quay người lấy
quyển trục trên bàn, Hoài Cẩn vội vàng tiến lên phía trước giúp nàng giở quyền trục ra, bên trong là một bức địa đồ của Bích quốc.
Hoài Cẩn nhìn tấm địa đồ một cách đò xét, nói: “Chúng ta sắp đến Hồi
thành rồi. Thành chủ của Hồi thành bây giờ là Vệ Ngọc Hành”.
“Vệ Ngọc Hành?”.
Hoài Cẩn che miệng cười nói: “Tiểu thư không nhớ sao? Hắn là võ trạng nguyên gây chấn động đế đô năm năm về trước đó. ‘Há đâu cam chịu khuất
quyền thế, Kết tóc se tơ chẳng chia lìa’, chính là nói đến hắn”.
Khương Trầm Ngư “à” một tiếng bỗng nhiên nhớ ra.
Năm năm trước, Vệ Ngọc Hành mười tám tuổi tài hoa đương thịnh, giành
được ngôi võ trạng nguyên năm Gia Bình thứ hai mươi sáu. Khi cùng văn
trạng nguyên triều kiến thiên tử, bá quan văn võ đều kinh ngạc: Hắn mặc
áo tim, mũ cao giáp bạc, mắt phượng thân rồng, nổi bật đến mức khiến cho toàn bộ đám thư sinh văn nhược xung quanh đều thất sắc lu mờ.
Năm đó trong ngự hoa viên, nụ ngọc hoa quỳnh đều bung cánh nở, cảnh
sắc tươi sáng như tuyết, nhưng lại không sánh được với nụ cười của hắn.
Con gái độc nhất của tả tướng gia Tuyên Lưu vừa gặp hắn đã đem 1òng
ngưỡng mộ. Tả tướng liền khẩn cầu tiên đế với hắn làm con rể. Ai ngờ
trước Cầm Dương điện, Vệ Ngọc Hành lại khước từ, nguyên nhân chỉ có năm
chữ – đã có vợ Đỗ Quyên.
Tuyên Lưu si mê hắn, nguyện lấy thân phận thiên kim tiểu thư tôn quý
để hai gái chung một chồng, nhưng ngày hôm sau, khi Vệ Ngọc Hành dìu
người vợ kết tóc se tơ của hắn là Đỗ Quyên tấn kiến thánh thượng, tất cả mọi người nhìn nữ nhân đó thì không thốt lên nổi nửa lời.
Bởi vì…
Nàng ta là một người mù.
Hoàng đế Hành Xu than rằng: “Bạn lúc nghèo hèn chẳng thể quên, vợ lúc tao khang không thể phụ. Thôi, thôi, thôi”.
Ba tiếng “thôi” này đã cắt đứt hoàn toàn si niệm của thiên kim tả
tướng, trở thành một giai thoại tình chồng vợ lúc nghèo hèn còn bền vững hơn vàng đá. Nhưng cũng vì thế mà để lại mầm họa khiến Vệ Ngọc Hành
thất ý chốn quan trường sau này. Trong cuộc tranh ngôi giữa thái tử
Thuyên và Chiêu Doãn, tả tướng tìm được một cái cớ để ép hắn rời đế đô,
từ đó về sau, Vệ Ngọc Hành không còn quay lại đế đô được nữa.
Không thể không thừa nhận, càng là những nhân vật đình đám, muốn nổi
danh thiên hạ thì không thể thiếu được hai chữ “địa lợi”. Bởi vì thế, Vệ Ngọc Hành rời khỏi đế đô tuy anh tài vẫn còn đó, nghĩa dũng vẫn y
nguyên, nhưng không thể nào làm được chuyện lớn. Lâu dần, mọi người quên mất còn có một người như vậy… Khương Trầm Ngư nghĩ đến đây không khỏi
có chút nuối tiếc, mong sự tiếc nuối của nàng, thuyền đã vào gần đến bờ, từ từ cập bến.
Trên bờ sông, theo tiếng hô hiệu lệnh, tiếng nhạc đón khách của Hồi
thành vang lên, thật khác với những địa phương khác, trong thứ nhạc này
tràn ngập màu sắc trang nghiêm và thê lương.
Một người đứng ra khỏi hàng, nhìn con thuyền cập bến đất mẹ, liền
bước lên phía trước một bước, ôm quyền thi lễ nói: “Vệ Ngọc Hành của Hồi thành cung nghênh chư vị đại sứ”.
Màn mưa mờ mịt, ô đỏ xoay tròn, nam tư dưới ô ngẩng đầu lên, nhướn
mày, giống như có một luồng ánh sáng rớt xuống khuôn mặt hắn, trong nháy mắt trở thành vĩnh hằng.
Mưa lớn vẫn rơi rào rào, xung quanh tứ phía, chim chóc im bặt.
Áo tím giáp bạc, độc nhất vô nhị.
Thời gian năm năm, mấy độ xuân thu, hoạn lộ mờ mịt tiền đồ tối tăm, nhưng không hề làm phong độ của hắn giảm đi phân lượng nào.
Hắn cầm một chiếc ô đỏ tắm trong mưa rào, thái độ lãnh đạm giống như một vị khách đứng ngoài cuộc.
Giây lát sau, một tiếng cười khe khẽ thong thả cất 1ên, Cơ Anh bước ra phía trước, đáp lễ: “Đã làm Ngọc Công vất vả rồi”.
Mấy chữ này giống như một chiếc khóa thần kỳ, trong khoảnh khắc sự
yên ắng được hóa giải, sự ngượng ngùng tiêu tan, thần trí của tất cả mọi người cũng quay trở lại.
Cơ Anh giới thiệu bọn Giang Vãn Y và Phan Phương với Vệ Ngọc Hành,
mọi người bắt đầu lục tục xuống thuyền, theo sau đội ngũ đón khách tiến
về phía dịch quán.
Mưa tuôn xối xả, đường trong thành lầy lội cực kỳ khó đi bánh xe
thỉnh thoảng lại lọt xuống bùn, qua mấy hồi trắc trở, khi đến dịch quán, chân người nào người nấy bê bết toàn bùn là bùn.
Hoài Cẩn không kìm được than khẽ: “Xem ra mấy năm nay Ngọc Công quả nhiên đã sa sút nhiều…”.
Khương Trầm Ngư nhíu mày: “Nói thế nghĩa là sao?”.
“Tiểu thư nhìn kiến trúc trong thành mà xem, phần lớn đều là nhà cửa
xây dựng hơn mười năm, cũ kỹ đến mức không tả nổi. Đường đi lại lầy lội
khó đi như thế có thể thấy về phương diện kiến thiết, không phải không
làm, mà là không có tiền để làm”.
“Sao em biết số tiền đó không phải đã bị hắn tham ô? Theo ta biết,
mỗi năm quốc khố đều cấp tiền trợ giúp xây dựng cho các thành”.
Hoài Cẩn lắc đầu đáp: “Không đâu! Ngọc Công tuyệt đối không tham ô!
Một người,chính trực thà đắc tội với tả tương chứ tuyệt đối không vứt bỏ người vợ mù của mình không thể làm cái chuyện bẩn thỉu như tham ô
được!”.
KhươngTrầm Ngư thấy vẻ nghiêm tức hiếm thấy của Hoài Cẩn, bèn cười
cười không nói tiếp nữa, mà theo đám người đi vào trong dịch quán. Dịch
quán chẳng qua chỉ là một dãy nhà ngói, tương đối cũ kỹ, may mà được
quét dọn rất sạch sẽ, trong sân còn trống rất nhiều loại cây cỏ, xanh
tốt um tùm, tắm mưa mà nở, khiến khung cảnh trở nên rạng rỡ hơn hẳn.
Khi Khương Trầm Ngư đi qua một hàng cây trong đó, nàng khẽ “ồ” một tiếng.
Giang Vãn Y ngoái đầu lại hỏi: “Sao thế?”.
“Lán cánh cúc”.
Lời vừa thốt ra, không chỉ Giang Vãn Y mà cả đám Cơ Anh và Tiết Thái phía trước cũng lần lượt quay đầu lại.
Lan cánh cúc là một loài quý hiếm trong họ nhà lan, vì cánh hoa giống cánh hoa cúc nên có tên gọi như vậy. Cây hoa trong sân lúc này màu sắc
càng thuần túy cánh hoa nở bung, nở hơn hai mươi cánh, cực kỳ hiếm thấy, đã quý lại còn hiếm hơn!
Giang Vãn Y không kìm được hơi quỳ xuống ve vuốt một chiếc lá hoa,
trong mắt tràn ngập sự kinh ngạc, than: “Loài hoa này xưa nay đều nở vào hết cuối đông đầu xuân, mà bây giờ đang là mùa hạ…”.
“Không chỉ như thế”. Khương Trầm Ngư giơ tay ra chỉ: “Nhìn xem, bên kia còn có hoa súng”.
Trong đầm phía không xa, mấy bông súng tím nở rộ, màu sắc rực rỡ, cực kỳ diễm lệ, nhụy vàng óng ả, từ nhụy đến cánh sắc tím càng lúc càng
đậm, cuối cùng chuyển hẳn thành tím biếc.
Lan cánh cúc, hoa súng, bình thường có thể gặp được một trong số
chúng đã là may mắn, lúc này lại có thể thấy ở cùng một nơi, hơn nữa lại còn mọc trước căn nhà ngói xấu xí này, chẳng phải sẽ khiến những người
đi đường có nằm mơ cũng không ngờ rằng, cách họ một bức tường lại là nỗi nối tiếc cả đời sao.
Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Thợ làm vườn ở đây là ai?”.
Vệ Ngọc Hành quay người lại, lạnh nhạt đáp: Hoa cỏ chốn này đều do một tay nội tử trống”.
Một tràng xuýt xoa vang lên, ai cũng biết thê tử của hắn là một người mù, nhưng nàng ta lại có thể trồng được loại hoa hiếm cớ mà ơi thợ giỏi phải sầu não vì không trồng nổi, sao có thể không khiến người ta sững
sờ kinh ngạc?
“vậy phu nhân bây giờ ở đâu? Có thể cho phép ta bái kiến được
không?”. Khương Trầm Ngư giải thích: “Là như thế này, sắp đến ngày sinh
nhật của gia mẫu, người rất yêu hoa lan, nếu có thể học được cách trồng
loài hoa này…”.
Hai hàng lông mày Vệ Ngọc Hành hơi nhíu lại một chút, hắn thấp giọng đáp: “Bệnh nằm trên giường, không hẹn gặp khách”
“Vậy à”. Khương Trầm Ngư khó giấu vẻ thất vọng, đành lùi ra sau mấy bước, hòa lẫn vào trong đám người.
Ánh mắt Cơ Anh dừng lại trên người nàng một lát rồi quay người bước tiếp, đoàn người lại chầm chậm bước vào nhà.
Tiệc trong nhà đã được bày biện sẵn, mọi người lần lượt ngồi vào bàn, theo lệ Khương Trầm Ngư vẫn ngồi bên cạnh Giang Vãn Y, Giang Vãn Y thấy nàng cúi đầu chau mày ra chiều buồn bã không vui, bèn ghiêng người qua
thì thầm: Ta tìm cơ hội khám bệnh cho Vệ phu nhân, rồi sẽ đưa muội đi
cùng”.
Khương Trầm Ngư nghe xong liền ngẩng đầu mỉm cười.
Bên kia, Vệ Ngọc Hành rót đầy chén rượu, nâng chén mời Cơ Anh: “Hầu
gia đường xa quay về, Ngọc Hành thay mặt các sơn thành chốn biên cương
mời hầu gia một chén”.
“Ngọc Công, mời”. Cơ Anh đáp lễ, uống cạn chén rượu, hai hàng lông
mày khẽ động, khẽ tới mức gần như không thấy được nhưng trong nháy mắt
sắc mặt lại bình thường tươi cười nói: “Cách biệt may nắm, cây hải đường mà Ngọc Công, đích thân trồng trong Hàn Du viện năm đó đã cao hơn hai
trượng rồi”
Gương mặt vốn thừa nghiêm trang, thiếu thoải mái của Vệ Ngọc Hành vì
câu nói đó mà tươi tỉnh lên ít nhiều, ngậm ngùi nói: “Vốn dĩ lúc mua là
một cây bệnh, tất cả mọi người đều nói nó không sống nổi”.
“Ta vẫn nhớ vì cái cây này mà Ngôn Ông đánh cược với ngươi…”.
“Ha ha! Ngôn Duệ là đệ nhất trí giả đời nay, học rộng hiểu nhiều,
kiến thức phi phàm, những sự vật mà ông ta đã nhận định không bao giờ
sai. Đáng tiếc, ông ta thật không thể nào ngờ…”.
“Ông ta không thể nào ngờ rằng, không chỉ có một vị võ trạng nguyên
yêu hoa như tính mạng, mà vị võ trạng nguyên này còn có một vị thê tử
tinh thông trồng hoa. Được sự chuyên tâm chăm chút của hai người, cây
hải đường đó đã sống được”.
“Đúng thế…”. Vệ Ngọc Hành nói, mắt nhìn ra xa, hắn vốn dĩ dung mạo
anh tuấn phi phàm, lúc này hàng lông mày giãn ra, ánh mắt dịu dàng, hơi
tươi cười, trông lại càng phong độ ung dung: “Ngôn Ông thua cược, ở nhà
hạ quan nửa năm đem hết sáng tác lúc bình sinh của ông ta khắc vào thẻ
tre. Lúc rời kinh, tất cả mọi thứ đều vứt bỏ, duy chỉ có sổ sách này là
hạ quan không nỡ vứt, đành thuê một chiếc xe trâu thồ đi, vì thế mà chậm tới Hồi thành mất mười ngày… Nội tử đến nay vẫn . Còn giữ những cuốn
thẻ tre này, ngày ngày sờ để đọc”.
Cơ Anh nhíu mày nói: “Nếu là ta, rề rà hơn mười tháng ta cũng phải
mang theo, số thẻ tre Ông Lão tự tay khắc, e là trong thiên hạ chỉ có
một bộ này… Hai năm trước, sau khi ông ta gác bút viễn du, tất cả mọi
người đều mất liên lạc với ông ta, cũng không có tác phẩm mới nào ra
đời, thật là khiến vô số người mỏi mắt trông ngóng, luyến tiếc thở dài”.
“Gác bút?”. Vệ Ngọc Hành kinh ngạc.
“Ừ”.
“Tại sao?”.
Cơ Anh im lặng một lát, mới cúi nhìn, đáp: “Nghe nói có liên quan đến đệ tử của ông ta là Diệp Nhiễm, nhưng nguyên do thực sự trong đó lại
không thể nào biết được”.
Ebook: Mèo
Nguồn: Ebook Fun&Free
Nghe đến cái tên Diệp Nhiễm, Khương Trầm Ngư hơi ngạc nhiên. Điệp
Nhiễm chính là phụ thân của Hy Hòa phu nhân, tuy là đồ đệ của Ngôn Duệ,
nhưng lại là kẻ bất tài nhất, suốt ngày say sưa túy lúy, mơ màng sống
qua ngày. Đối với tên đồ đệ này, Ngôn Duệ hẳn cũng kỳ chán ghét, sao lại vì hắn mà gác bút? Thật ngoài sức tưởng tượng…
Vệ Ngọc Hành lại không hề kinh ngạc, chỉ lầm rầm nói một câu: “Diệp Nhiễm… ông ta khỏe không?”.
“Diệp Công…”, giọng Cơ Anh trở nên trầm thấp: “Đã về cõi tiên năm ngoái rồi”.
Ánh mắt Vệ Ngọc Hành thoáng chốc trở nên mịt mờ, im lặng một lúc lâu mới trấn tĩnh trở lại, nói: “Cũng tốt”.
Trong lòng Khương Trầm Ngư hết đỗi tò mò, chỉ mong hai người đó nói
chuyện nhiều thêm một chút, ai ngờ Vệ Ngọc Hành lại không nói cặn kẽ,
chỉ vẫy tay dặn dò người hầu bưng đồ ăn lên.
Đồ ăn bng lên rất đơn giản, gồm hai món chay hai món mặn, các sứ thần đi đường đã quen được tiếp đãi ê hề rượu thịt nay nhìn thấy bàn tiệc
tổng cộng có bốn món chính, không khỏi có chút kinh ngạc – Hồi thành
thực sự đã nghèo nàn đến mức này sao?
Vệ Ngọc Hành lại chẳng hề mảy may xấu hổ, rất bình tĩnh nói: “Đây đều là những món nội tử cẩn thận tuyển chọn, hầu gia nếm thử xem có vừa
miệng hay không?”.
“Được”. Cơ Anh cầm đũa. Mọi người thấy vậy cũng lần lượt động đũa,
đúng là không ăn thì không biết thế nào, nhưng vừa đưa vào miệng là
khiến người ta giật mình. Những món ăn nhìn thì bình thường, nhưng vào
miệng thì thơm lừng, ngon không tả xiết.
Vệ Ngọc Hành giới thiệu: “Món măng tre hun khói này làm từ loại măng
xanh như ngọc bích của núi Tảo Xuân nổi tiếng nhất bản thành. Cách chế
biến không khó, vào tiết khai xuân hàng năm lên núi hái măng, sau bưởi
trưa thì dùng khói lửa hun, rồi đào hố chôn, đến mùa hạ mới đào lên nấu
lại lần nữa mới có thể giữ nguyên hương vị, giòn bùi thơm ngon”.
Cơ Anh khen ngợi: “Ngon”.
“Món thứ hai là Ngư Hương Gia Long, cách chế biến tương đối phức tạp, cà tím rửa sạch, khía hai bên rồi xiên vào xiên tre, đem ngâm trong một loại nước điều chế đặc biệt, một khắc sau lấy ra phơi khô, lăn qua bột
chiên giòn, rồi chiên dầu đến khi quả cà được định hình thì vớt ra, đợi
dầu sôi trở lại, lại bỏ vào chiên sơ một lần nữa đến khi ngoài giòn
trong mềm thì rút bỏ chiếc xiên tre. Cuối cùng còn phải điều chế loại
nước ướp cá (6) trộn hạt điều rồi rưới nước sốt lên quả cà. Lúc này mới
được coi là thực sự hoàn thành”.
Cơ Anh cười nói: “Xem ra Ngọc Công không chỉ thích hoa, mà còn nghiên cứu khá kỹ về ẩm thực”.
“Hai món còn lại là cá hấp, canh rau thập cẩm Uyên Ương, tiểu quan
không cần phải nói thêm tránh bị chê cười”. Lần này Vệ Ngọc Hành giải
thích xong xuôi, trong chốc lát mọi người đã thay đổi hẳn cách nhìn về
hắn, những món ăn tưởng chừng như sơ sài thô lậu, lập tức trở thành
những sơn hào hải vị hiếm có. Cá thịt ngày nào cũng ăn, nhưng những món
mỹ vị đẳng cấp này, cũng giống như các loài kỳ hoa dị thảo bên ngoài,
đều trân quý hiếm gặp. Trong một lúc tiếng khen ngợi tấm tắc nổi lên rào rào, mọi người ngon miệng nên ăn rất hào hứng.
Trong lòng Khương Trầm Ngư lại hiểu rất rõ rằng, vị Ngọc Công này rõ
ràng là “đùng sự đặc biệt mới mẻ để giành phần thắng”. Hắn làm như thế
không ngoài hai lý đo, nếu không phải cố ý làm theo sở thích của Cơ Anh
để lấy lòng thượng cấp; thì là đã thực sự cùng đường bí lối, không hề dư dả, nên chỉ có thể đánh vào mùi vị của thức ăn. Hơn nữa mọi người ở
trên thuyền chòng chành lắc lư suốt một tháng, không được ăn hoa quả rau xanh tươi ngon, nên càng thấy những món ăn như thế này ngon miệng hơn.
Theo nàng thấy, khả năng thứ hai cao hơn khả năng thứ nhất.
Vừa nghĩ đến đây, nàng không kìm được thở dài – Nếu năm đó hắn không
từ chối hôn ước, thì bây giờ e rằng thành tựu còn hơn cả Phan Phương.
Rồi nàng liếc mắt nhìn hoa cỏ bên ngoài cùng những món ăn bày trên bàn,
nàng lại cảm thấy, cưới được người vợ như thế, người chồng còn mong gì
hơn?
Vị phu nhân Đỗ Quyên đó thực sự có chỗ hơn người…
Bữa tiệc tẩy trần đã kết thúc trong bầu không khí vui vẻ và an lành,
đám người hầu của Vệ phủ đang định dẫn mọi người đến phòng dành cho
khách để nghỉ ngơi, Giang Vãn Y khẽ kéo tay áo của Khương Trầm Ngư, nói
với Vệ Ngọc Hành: “Tại hạ cũng hiểu sơ sơ y thuật, nếu như không chê,
liệu có thể khám cho tôn phu nhân hay không?”.
Vệ Ngọc Hành sững ra một lát, mới nói: “Y thuật của hầu gia tuyệt
đỉnh thiên hạ, Ngọc Hành cũng đã nghe tiếng, chỉ có điều nội tử tuy bệnh đã lâu, nhưng cũng không có gì đáng ngại, không dám phiền đến kim thể
của hầu gia…”.
Khương Trầm Ngư thầm kinh ngạc: Phải biết rằng Giang Vãn Y nay đã
mang thân phận tôn quý khác xưa, tuy bản thân hắn không muốn làm phách
ra vẻ, nhưng muốn được hắn đích thân chẩn bị phải xếp vào hàng vương hầu khanh tướng mới được. Chỉ là phu nhân của một chủ thành nhỏ nơi biên
ải, nếu không phải là cơ duyên tình cờ, thì sao có thể mời được hắn,
chẳng ngờ một kẻ xưa nay vốn yêu vợ như Vệ Ngọc Hành lại chẳng buồn nghĩ ngợi mà đã từ chối chuyện tốt từ trên trời rơi xuống này. Hiển nhiên
Giang Vãn Y còn sửng sốt hơn cả nàng, hắn nói với vẻ không hiểu: “Không
phiền, là ta tiện thể mà thôi…”.
“Vẫn xin được đa tạ mỹ ý của hầu gia, thực sự không cần đâu…”
lúc này, một bà lão mặc áo xám chạc ngũ tuần rảo bước đi tới vừa đi vừa nói: “Bên đó là Đông Bích hầu Giang đại nhân”.
Vệ Ngọc Hành nhìn thay bà lão, sắc mặt hơi biến đổi: “Dì Mai, sao dì tới đây?”.
Bà lão được gọi là dì Mai đó vội vã đến trước mặt GiangVãn Y, thi lễ nói: phu nhân nhà ta mời Giang đại nhân”.
Giang Vãn Y nhíu mày: “phu nhân nhà bà?”.
Vệ Ngọc Hành cười khổ đáp: “Chính là nội tử”.
“Giáng đại nhân, mời đi bên này”. Dì Mai khom người làm tư thế mời.
Giang Vãn Y nhìn Vệ Ngọc Hành Vệ Ngọc Hành lộ vẻ bất đắc dĩ, cuối
cùng lui một bước nhỏ, thế là Giang Vãn Y đưa mắt ra hiệu với Khương
Trầm Ngư, xách hòm thuốc đứng dậy.
Khương Trầm Ngư theo hắn ra khỏi phòng khách, trong lòng lại càng
đong đầy mối nghi hoặc. Vệ Ngọc Hành mấy lần từ chối rõ ràng là không
muốn Giang Vãn Y thăm bệnh cho phu nhân, chẳng ngờ Đỗ Quyên lại tự mình
sai người hầu đến mời.
Thú vị.
Xem ra, đêm nay ở lại Hồi Thành còn có thể chứng kiến được rất nhiều chuyện hay ho đây…
Chú thích: (1) Câu thành ngữ mang ý nghĩa là giải quyết đứt
khoát, giải quyết nhanh gọn, giống như lút nhanh đao chém đứt mớ đay rối vậy.
(2) Trăng hạ huyền là trăng sau ngày rằm.
(3) Điệp thể. Một thể chữ thư pháp tạo hình xòe sang hai bên như cánh bướm.
(4) Viết tắt của “Tam Thiên Đại Thiên thế giới”, là thuật ngữ
phật giáo, thường được hiểu với nghĩa là một thế giới có phạm vi rất
rộng lớn.
(5) Họ cây cam, quýt.
(6) Nguyên văn “ngư hương tương trấp”, là một loại gia vị chuyên để ướp cá của Trung Quốc.