Năm 1771 công nguyên, Càn Long đại đế lên tuổi sáu mươi, cả đất nước vui mừng.
Khi đó, vận mệnh quốc gia hưng thịnh, nhân dân giàu có đông đúc, khúc mắc Mãn – Hán tạm lắng xuống. Nhưng thấy tuổi tác của Càn Long ngày càng cao mà vẫn chưa sắc lập thế tử, các quan cao thấp của triều đình không khỏi thêm mắm dặm muối, lời đồn nổi lên khắp nơi.
Càn Long đại đế trước kia vì nhớ nhung con trai thứ hai của cố hoàng hậu (Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu, Phú Sát Thị) chết yểu nên chưa đưa ra văn thư sắc lập thế tử một cách quang minh chính đại, về sau lại vì cảm thấy các hoàng tử khác thân thể kiện khang, dã tâm đầy mình nên càng không muốn sắc lập. Tuy nhiên, năm tháng không trừ một ai, dù sao tuổi tác đang ngày càng cao, lực bất lòng tâm, Càn Long trước lễ mừng thọ sáu mươi tuổi của mình đã thốt ra hai chữ: Thiện Vị [2].
Mà trong các hoàng tử của Càn Long, có người đã chết, có người đối với việc làm Hoàng Đế không có hứng thú, có người lại sợ mang đến họa sát thân, kính nhi viễn chi [3].
Khi hoàng cung truyền ra hai chữ “Thiện Vị” miệng vàng lời ngọc của Thánh Thượng, gió nổi mây phun, triều đình như xuân chi kinh trập [4], dã tâm và dục vọng thi nhau nổi lên…
[1] lưỡng tình tương duyệt: hai bên đều yêu nhau.
[2] thiện vị: nhường lại ngôi vị.
[3] Kính nhi viễn chi: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp mỉa mai, châm biếm khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó.
[4] xuân chi kinh trập: là một trong 24 tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Sâu nở; trong câu này có ý là những chuyện xấu nổi lên khắp nơi.
“Phó phu nhân muốn dâng hương, người rảnh rỗi hãy tránh đường.”
Khi những tiếng quát lớn vang lên, trước cổng chùa Kim Quang Tự ầm ầm đại loạn, người bán hàng rong vội vã thu thập đồ đạc, dân chúng trên đường chạy thẳng sang hai bên đường trốn tránh.
Các vị sư của Kim Quang Tự cũng vội vàng cười làm lành, mời chúng khách hành hương tạm lánh đi một lát.
Kim Quang Tự là một ngôi chùa lớn trong kinh thành, thường xuyên có phu nhân của quan gia đến thăm viếng. Quan gia nhiều quy củ, nữ quyến không thể dễ dàng đụng chạm với nam tử, vì thế lần nào đến cũng phải xua đuổi tất cả những người xung quanh đi.
Loại chuyện này đối với những người sống gần đây không ai là không biết, chỉ là những người khách hành hương hoặc người đi đường lại không hiểu rõ lắm, thấy vậy liền bực bội, người người như ruồi bọ không đầu bàn tán loạn cả lên.
Trong đám đông có một tiểu cô nương thân thể yếu đuối, không tránh khỏi cảnh bị đám người xô đẩy, ngã thẳng xuống đất.
Một vị thầy bói nổi tiếng đã gặp không biết bao nhiêu đoàn người của quan lớn, nay thấy khí phái của đoàn người đang tiến đến còn lớn hơn nhiều so với những gì lão biết liền không khỏi cảm thấy ngạc nhiên, thấp giọng hỏi: “Phó phu nhân, người nào là Phó phu nhân?”
“Còn phải hỏi? Khí phái rầm trời như vậy, thiên hạ còn có người thứ hai sao?”
“Đương nhiên là chính phu nhân của Phó Tể Tướng đương triều. Phó Tể Tướng là hoàng thân quốc thích, trọng thần của quốc gia, quyền lực nhiều không kể xiết, chạm tay có thể bỏng, ai dám không tránh.”
Khi họ đang nói chuyện, đoàn người đã tiến đến gần, mười mấy người đi đầu hô quát tránh đường, mấy chục người đi sau ôm một cái kiệu lớn, đi trước kiệu còn có một con bạch mã không chút tạp sắc, thần tuấn vô cùng. Ngồi trên bạch mã là một thiếu niên anh tuấn mặc cẩm bào, oai hùng phi phàm, thậm chí từ xa nhìn lại còn khiến người ta hoài nghi đó là một vị thần tiên. Đi theo kiệu có nha hoàn tạp dịch bê trên tay phùng hương, chấp phất, thậm chí còn có cả hoa quả tươi bốn mùa, vàng bạc ngọc ngoạn.
Đoàn người hùng tráng sớm đã khiến người xung quanh sợ hãi, cả đoạn đường không có lấy một tiếng động.
Còn mấy bước chân nữa là đến cổng chùa, đại đa số người đi đường đều đã tránh ra xa vì không muốn đụng chạm vào Phó phu nhân, trước cổng chùa chỉ còn độc một tiểu cô nương đang ngã trên mặt đất, không thể đứng lên, vừa vặn ngăn cản đường đi.
Hào nô đi đầu lập tức quát lớn một tiếng: “Tiểu nha đầu, mau đứng dậy, đừng chặn đường của phu nhân.”
Tiểu cô nương sợ hãi kêu lên một tiếng, bối rối muốn đứng lên, nhưng vừa đứng lên lại tiếp tục té ngã.
Hào nô của Tể Tướng gia bình thường vênh váo tự đắc, nào có kiên nhẫn chờ tiểu cô nương này tự mình đứng lên, lại nhìn nàng ăn mặc bình thường, nghĩ nàng là dân thường liền không chút nghĩ ngợi vung roi lên đánh: “Mau tránh ra, làm chậm trễ thời gian của phu nhân nhà ta, ngươi có thể chịu trách nhiệm được sao?”
Roi còn chưa đánh xuống, tiểu cô nương đã sợ đến mức thét chói tai.
Vị công tử ngồi trên bạch mã vừa nhìn thấy vậy liền nhíu mày, thúc ngựa nhanh chóng đi về phía đó.
Hào nô không để ý đến động tĩnh phía sau, thấy tiểu cô nương này không nghe lời lại càng thêm mất kiên nhẫn, tiếp tục giơ roi muốn dọa nàng. Bỗng, một thanh âm non nớt vang lên: “Người xấu, mau dừng tay!”
Hào nô còn chưa kịp sửng sốt đã thấy một bóng người nho nhỏ vọt đến, mở rộng hai tay ngăn cản trước người tiểu cô nương kia. Y cẩn thận nhìn xuống, là một tiểu cô nương một thân lăng la, trên cổ đeo vòng ngọc, vô cùng thanh tú đáng yêu.
Ánh mắt y bỗng sáng lên, lập tức nhìn ra tiểu cô nương này không phải dân chúng bình thường, cái roi cầm trên tay không thể không hạ xuống.
Trái lại, tiểu cô nương đang ngã dưới đất lại kinh ngạc kêu lên: “Tiểu thư!” Nàng vừa kêu vừa luống cuống tay chân, giãy dụa muốn đứng dậy.
Tiểu cô nương mặc cẩm y quay sang tên hào nô, không hề cảm thấy sợ hãi, khuôn mặt nho nhỏ tràn đầy vẻ phẫn nộ: “Các ngươi là người xấu, không được khi dễ Vận Nhu!”
Hào nô nhíu mày, tuy tiểu cô nương này xuất thân không bình thường, nhưng y là người của phủ Tể Tướng, căn bản không cần quan tâm đến những người bên dưới, nào có rảnh rỗi nói chuyện với một đứa trẻ con.
Tuy không tiện dùng roi đe dọa nhưng y cũng không chút khách khí nào xuống ngựa, định kéo hai tiểu cô nương sang chỗ khác.
“Tránh ra!” Một tiếng quát khẽ vang lên, tên hào nô còn chưa đụng đến bả vai hai tiểu cô nương đã phải dừng lại, cúi người với thiếu niên mặc áo bào trắng ngồi trên lưng ngựa vừa đi đến phía sau y.
☆☆☆
Thôi Vịnh Hạ lần đầu tiên gặp Phúc Khang An vào một ngày ánh nắng mặt trời sáng đến một cách kì lạ.
Năm ấy nàng mười hai tuổi, vừa nhìn đã lập tức để mắt đến thiếu niên kia. Hắn cưỡi bạch mã ngân an, chu anh màu bí, uy vũ như thiên thần. Ánh sáng mặt trời rực rỡ xung quanh, dường như tồn tại chỉ để phụ trợ cho sự uy phong của hắn vậy.
Năm ấy nàng mười hai tuổi, bỗng nhiên hiểu ra, vì sao thuyết thư khi miêu tả những vị anh hùng thiếu niên đều sử dụng kiếm mi tinh mục, hóa ra mày kiếm mắt sáng chân chính lại có thể đẹp đến thế, đẹp như một bức họa, không giống người phàm.
Nàng thấy hắn xoay người, mỉm cười với nàng: “Ngươi là một tiểu cô nương, không nên có lá gan lớn như vậy.”
Khi hắn mỉm cười, phía sau hắn như tỏa ra từng tầng kim quang. Thôi Vịnh Hà mở to mắt, nhất thời có chút hoài nghi, người uy vũ như vậy, thật ra chính là một vị thần tiên thực sự.
☆☆☆
Khi Phúc Khang An gặp Thôi Vịnh Hà, hắn cũng chỉ mới mười tám tuổi. Thân là thiên chi kiêu tử, đã gặp qua vô số trân bảo, mỹ nữ, những chuyện kì lạ mới mẻ, nhưng khi thấy một tiểu cô nương lớn mật như vậy, hắn cũng không nhịn được có chút ngạc nhiên. Tiểu cô nương này hẳn phải là một tiểu thư được nuông chiều mà lớn lên, chưa từng bị người ta mắng mỏ mới đúng, khi bị một nam tử mắng té tát như thế, nàng nên sợ hãi đến mức mặt trắng bệch, hai chân run rẩy. Nhưng kì quái là, nàng vậy mà lại giang hai tay, cản trước mặt người khác, tuy hai chân run rẩy cũng không lùi lại một bước.
Gia đình quan lại nào, nhưng lại có thể dạy dỗ nữ nhi của mình được như thế này?
Phúc Khang An tuy rất muốn mỉm cười nhưng vẫn oai phong ngồi trên ngựa, mặt mày không đổi sắc: “Ngươi là một tiểu cô nương, không nên có lá gan lớn như vậy.”
Thôi Vịnh Hà cố gắng ngẩng cái đầu nho nhỏ lên nhìn vị quý công tử cao cao tại thượng đó, hừ một tiếng: “Các ngươi là người xấu, khi dễ Vận Nhu. Ta không để ý đến ngươi!”
Lúc này, tiểu cô nương phía sau nàng đã đứng lên, lén lút lôi kéo: “Tiểu thư.”
“Vận Nhu, không phải sợ, có ta ở đây, ta sẽ bảo vệ ngươi.” Thôi Vinh Hà di chuyển thân hình bé nhỏ, cố gắng muốn che chở cho thân thể mềm mại nhỏ nhắn phía sau, đôi mắt đáng yêu hung tợn nhìn Phúc Khang An như thể hắn là một con sói độc ác sắp mở miệng cắn người.
Phúc Khang An không biết nên khóc hay nên cười, nhìn Vận Nhu đứng phía sau nàng, ánh mắt khẽ đổi: “Ngươi là tiểu thư, lại vì một nha hoàn mà dũng cảm ngăn cản trước hai con ngựa?”
Khuôn mặt nhỏ nhắn của Thôi Vịnh Hà nghiêm lại, thở phì phì nói: “Ngươi nói bậy, Vận Nhu là nữ nhi của vú nuôi ta, là tỷ tỷ của ta, nàng không phải nha hoàn đâu, không cho ngươi nói nàng là nha hoàn, không được khi dễ nàng.”
Phúc Khang An như cười mà không cười nhìn tiểu nha đầu lớn mật này: “Ta muốn khi dễ nàng, ngươi định làm gì?”
“Ngươi...” Thôi Vịnh Hà chỉ tay vào Phúc Khang An, nàng còn nhỏ tuổi, không nghĩ ra cách nào có thể dùng được để hàng phục kẻ xấu đẹp trai kia nên liền nổi giận, khuôn mặt đỏ bừng.
Vận Nhu đứng phía sau thấy vậy liền tiến lên, cúi đầu chỉnh đốn trang phục, thi lễ với Phúc Khang An: “Công tử, lão gia nhà ta là một học sĩ, hôm nay mang theo tiểu thư đến cầu Phật. Phu nhân của ta đang dâng hương trong chùa, ta và tiểu thư ra ngoài chơi, ta không cẩn thận té ngã, tiểu thư làm vậy là vì lo lắng cho ta, mong công tử không tức giận.”
Phúc Khang An ngạc nhiên nhìn Vận Nhu. Những nha hoàn thông minh lanh lợi trong phủ hắn không thiếu, nhưng nhỏ tuổi mà có trí tuệ như thế này, khi nói chuyện với hắn lễ nghi chu đáo, còn cố ý biểu lộ thân phận quan gia thì thật sự khó gặp, tiểu cô nương này, thân hình mặc dù nhỏ nhắn mềm mại, nhưng luận về đầu óc, sợ rằng so với vị tiểu thư gan lớn lỗ mãng trước mặt còn thông minh hơn nhiều.
Tuy hắn thấy ngạc nhiên, nhưng tên hào nô phía sau lại không cho là đúng. Những vị quan nhất phẩm trong triều luôn khách khách khí khí với công tử của y chính là những kẻ học sĩ ăn không ngồi rồi, vì thế nhịn không được cười lạnh một tiếng: “Học sĩ cái gì, chỉ là cấp chức suông để an ủi những kẻ đọc sách mà thôi. Vậy mà còn có lá gan khoe khoang trước mặt công tử nhà ta. Công tử nhà ta là cháu ngoại của Thiên tử, con trai của Phó Tể Tướng, các ngươi còn không tránh ra!”
Vận Nhu cười cười, muốn kéo Thôi Vịnh Hà sang một bên.
Ai ngờ Thôi Vịnh Hà nghe hào nô đó làm nhục phụ thân liền lập tức nổi giận: “Phụ thân ta là người của Thôi gia, danh môn chi tử. Từ nhỏ phụ thân đã dạy ta, gia tộc Thôi thị trăm viết thay hương, ai cũng đều có cốt khí của người đọc sách. Mặc kệ ngươi là người nào, chỉ cần ngươi là kẻ xấu, ta sẽ không sợ ngươi. Phụ thân dạy học ở Dục Khánh Cung, ngay cả con của Hoàng Đế cũng là học trò của người, không nghe lời sẽ bị phạt đánh bằng roi. Ta là nữ nhi của phụ thân, sẽ không làm xấu mặt Thôi gia.”
“À, hóa ra phụ thân của ngươi chính là người của Dục Khánh Cung, Thôi...” Phúc Khang An bỗng nhiên bừng tỉnh đại ngộ kêu một tiếng, vừa định nói ra ba chữ Thôi Danh Đình lại bắt gặp ánh mắt sắc bén của tiểu cô nương, bộ dạng như muốn xông lên liều mạng, vì thế bèn sửa lại, “ Hóa ra phụ thân ngươi là Thôi lão sư, vậy mà ta lại không nhớ.”
Phúc Khang An là cháu ngoại của Thiên tử, con trai của Phó tướng, được Càn Long đại đế yêu quý, từ nhỏ đã sống trong cung, cùng nhau học hành với các công tử hoàng tộc tại Dục Khánh Cung. Đây là hư vinh mà người ngoại tộc không bao giờ được hưởng.
Các sư phụ của Dục Khánh Cung, vì phải phụ trách dạy người trong Vương tộc nên phần lớn đều là những người có kiến thức uyên thâm, danh thần đương triều. Trong đó, những học sĩ phụ trách việc giúp đỡ họ dạy dỗ đệ tử cũng có rất nhiều. Chỉ là những học sĩ đó, phần lớn chỉ có thể giúp đỡ xem thư, sao chép văn bản, ngay cả tư cách dạy học cũng không có, những hoàng tử thường ngày đi học căn bản sẽ không nhớ rõ họ là ai.
Nếu không phải Thôi Vịnh Hà tự mình nói ra, Phúc Khang An tuyệt đối không thể nhớ đến có một học sĩ tên là Thôi Danh Đình, từng ở Dục Khánh Cung giúp đỡ các sư phụ dạy học.
Nhìn ánh mắt kiên định và khuôn mặt nhỏ nhắn của Thôi Vịnh Hà, có thể thấy địa vị của phụ thân trong lòng nàng có bao nhiêu cao cao tại thượng. Thôi Danh Đình này, chỉ sợ hàng ngày luôn khoe khoang rất nhiều với nữ nhi của mình về việc làm lão sư dạy hoàng tử, nếu phá hoại hình ảnh hoàn mỹ của phụ thân trong lòng nàng, thật sự có chút tàn nhẫn. Khi tâm niệm chuyển động, hắn đã mỉm cười nói ra ba chữ “ Thôi lão sư”.
Thôi Vịnh Hà nghe hắn gọi phụ thân mình là lão sư liền lập tức đắc ý đứng lên, kiêu ngạo ưỡn ngực: “Hóa ra ngươi cũng là đệ tử của phụ thân ta. Ta sẽ về mách phụ thân, bảo phụ thân đánh ngươi, phạt ngươi chép sách, còn...”
“Vịnh Hà, Vịnh Hà!”
Thôi Vịnh Hà nghe tiếng liền vội vàng quay đầu, kêu lớn với một vị phu nhân đang đi ra từ trong chùa: “Mẫu thân, con ở đây.”
Thôi phu nhân đưa nữ nhi cùng đi dâng hương, sau khi dâng hương liền đến sương phòng nghỉ ngơi, bảo nữ nhi ra ngoài chơi. Đến khi nghe tăng nhân báo lại, nói Phó phu nhân cũng đến dâng hương, ái nữ nhà mình còn đang đụng phải Phúc Khang An bên ngoài liền sợ đến mức hồn phi phách tán, nghiêng ngả lảo đảo chạy ra ngoài, ngay cả phong phạm của quan gia cũng đều quên hết, chỉ nóng lòng muốn đi tìm nữ nhi của mình.
Phúc Khang An nhìn thấy Thôi phu nhân lao ra từ trong chùa, trên mặt còn có vô số kinh hoàng và sợ hãi liền xoay người xuống ngựa, tiến lên phía trước vài bước, thi lễ với Thôi phu nhân: “Sư mẫu, đệ tử có lễ.”
Thôi phu nhân nhìn quý công tử cẩm bào ngọc đái, phong nghi như thần trước mặt vậy mà lại gọi mình là sư mẫu liền sững sờ, kinh ngạc nhìn Phúc Khang An, một câu cũng không nói nên lời.
Thôi Vịnh Hà tuổi còn nhỏ, không biết Phúc Khang An là loại người nào, nhưng Thôi phu nhân thì biết, thân phận của vị công tử trước mặt này có bao nhiêu cao quý. Ngay cả Thôi gia thế đại danh môn làm quan trong triều, khi so sánh với hắn cũng là một trời một vực, người như vậy, thế mà lại gọi mình là sư mẫu, làm sao có thể?
Thôi Vịnh Hà như tất cả những tiểu nữ nhi trên thế gian, luôn tin phụ mẫu của mình không gì không làm được, là người vĩ đại nhất thế giới. Nay mẫu thân của nàng đã đứng bên cạnh, nàng đắc ý làm một cái mặt quỷ với Phúc Khang An: “Sợ hãi đi, hừ, mặc kệ ngươi cầu xin mẫu thân ta thế nào, ta cũng sẽ cáo trạng với phụ thân.”
Phúc Khang An nhìn bộ dạng hớn hở của nàng không khỏi cảm thấy buồn cười, thần sắc lại càng trở nên cung kính, tiếp tục thi lễ: “Sư mẫu, tại hạ là Phúc Khang An, từng học tập tại Dục Khánh Cung, được Thôi lão sư dạy dỗ.”
Thôi phu nhân đến lúc này mới hồi phục tinh thần, cảm thấy thụ sủng nhược kinh, bỗng nhiên lại ý thức được việc nam nữ thụ thụ bất thân, vô luận thế nào cũng không dám nhận lễ của Phúc Khang An, liền vội vàng lui sang bên cạnh.
Thôi Vịnh Hà đứng bên cạnh không chút đề phòng, bị đâm ngã.
Thôi phu nhân đang rối bời trong lòng, căn bản không chú ý đến việc nữ nhi nhà mình té ngã, bộ dạng tươi cười liên tục nói: “Công tử quá khách khí rồi, ta làm sao dám nhận?”
Phúc Khang An rũ mắt nhìn Thôi Vịnh Hạ đang ngã dưới đất, nàng mở to mắt, trên mặt là biểu tình cực độ bi thương. Hắn nhíu mày, nhưng cái gì cũng không nói.
Thôi Vịnh Hà ngã không nặng nên không thấy đau, mà dù có đau, nàng cũng không để ý. Hiện tại, nàng chỉ không thể tin được, không thể tin mẫu thân nàng vậy mà lại coi nàng như không khí.
Mẫu thân là người nàng yêu nhất, là tiểu thư khuê các, là một phu nhân có phong độ. Bà vẫn luôn dạy nàng phải ôn nhu hòa thuận, dạy nàng phong phạm khuê môn, vậy vì sao lại có nụ cười khiến người ta không thoải mái như vậy? Vì sao mẫu thân khi trước luôn nói chuyện nhẹ nhàng, điềm đạm, hiện tại lại lắp bắp như một người mặt dày chạy đi vay tiền thân thích?
Vì sao lại như thế? Vì sao mẫu thân lại như thế?
Vận Nhu vô thanh vô tức bước lên phía trước, nâng tiểu cô nương vừa rồi còn vô cùng dũng cảm bảo vệ cho nàng nay lại yếu ớt đến cực điểm đứng dậy, lặng yên đỡ nàng đứng vững.
Thôi phu nhân nói gì, Phúc Khang An không chú ý, cũng không nghe thấy, vì thế duy trì tư thế thi lễ, ánh mắt một mực dõi theo Thôi Vịnh Hà, thẳng đến khi nàng được Vận Nhu nâng dậy mới ngẩng đầu lên, cười nói: “Sư mẫu quá lời rồi. Trước kia Thôi lão sư dạy ta ở Dục Khánh Cung, ta còn muốn đăng môn bái phỏng khi có thời gian.”
“Khang An.” Một thanh âm ôn hòa truyền đến từ phía sau, là kiệu của Phó phu nhân đã đến. Lúc này, Phó phu nhân đang được bốn năm nha đầu đỡ xuống kiệu, mà cổng chùa sớm đã đông nghìn nghịt người của Phó phủ, họ đứng thẳng tắp, không nói một lời, tất cả đều đang đợi mệnh lệnh của nữ chủ nhân.
Khí thế như vậy, sớm đã khiến Thôi phu nhân choáng ngợp. Phong phạm của Thôi môn trong chuyện xưa mà trượng phu kể cho bà, so với khí pháp vương hầu trước mắt thật sự không đáng một đồng.
Phúc Khang An lại mỉm cười: “Ngạch nương, thật khéo, con gặp phu nhân và tiểu thư của Thôi lão sư cùng đi dâng hương.”
“Thôi lão sư?” Ánh mắt hoài nghi của Phó phu nhân rơi xuống Thôi phu nhân. Bà biết tất cả những đại nho, danh thần đương triều, nhưng không nhớ có ai mang họ Thôi cả.
Phúc Khang An nói thêm một câu: “Là Thôi lão sư Thôi Danh Đình, ngạch nương không nhớ rõ sao?”
Phó phu nhân hoàn toàn không biết Thôi Danh Đình là ai nhưng vẫn mỉm cười nhàn nhạt, bình tĩnh nói: “Hóa ra là Thôi tiên sinh, làm sao có thể không nhớ.” Nói xong, bà quay sang gật đầu với Thôi phu nhân, “ Thôi phu nhân có khỏe không?”
Thôi phu nhân bước đến trước mặt Phó phu nhân, luống cuống tay chân vén áo thi lễ: “Thỉnh an phu nhân...”
“Nhi tử của ta được Thôi tiên sinh dạy dỗ nhưng chưa từng cảm tạ, hôm nay gặp phu nhân cũng là có duyên, không bằng chúng ta đi dâng hương, sau đó mời phu nhân đến phủ của ta, ta muốn đáp lễ.”
Thôi phu nhân kích động đến mức giọng nói cũng run rẩy: “Sao có thể làm phiền đến phu nhân?” Ngoài miệng nói như vậy nhưng người càng tiến lại gần, thần sắc cung kính đến cực điểm.
Phó phu nhân cười cười, không tiếp tục mở miệng nữa. Thần sắc Phúc Khang An bình tĩnh, đối với bộ dạng nịnh bợ quá đáng của Thôi phu nhân cũng không có ý kiến.
Ngay cả nha đầu đi theo kiệu của Phó phu nhân cũng mang sắc mặt giống nhau, tất cả cùng bất động, một mực nở nụ cười thong dong ôn hòa, hoàn toàn không để ý đến sự thất thố của Thôi phu nhân.
Các nàng không để ý nhưng Thôi Vịnh Hà lại để ý, nàng tuy tuổi còn nhỏ nhưng cũng tinh tường cảm nhận được mẫu thân kiêu ngạo của mình đang khoe cái xấu ra cho người khác xem. Nàng thấy có chút nhục nhã, không thể nhịn được nữa bèn kêu lên: “Mẫu thân, chúng ta đã bái Bồ Tát xong rồi, về nhà đi thôi.”
Thôi phu nhân quay lại mắng: “Đừng không hiểu chuyện như vậy, mau tới hành lễ với Phó phu nhân.”
Thôi Vịnh Hà bước lên phía trước nhìn Phó phu nhân, sau đó nghi hoặc hỏi: “Ngươi không phải phu nhân của đại ác bá, đại ác nhân, đại gian thần sao?”
Phúc Khang An giật mình, nhìn về phía Thôi Vịnh Hà.
Người của Phó phủ giận dữ, có người còn bắt đầu xắn tay áo.
Thôi phu nhân sợ tới mức thiếu chút nữa té xỉu, không chút suy nghĩ vung tay tát Thôi Vịnh Hà một cái: “Con nói bậy bạ gì đó?” Sau đó lập tức xoay người, khuôn mặt giận dữ trong nửa khắc đã chuyển sang bộ dạng tươi cười, “ Phu nhân trăm ngàn lần đừng nóng giận, nó còn nhỏ, không hiểu chuyện, trở về ta sẽ giáo huấn nó thật tốt.”
Thôi Vịnh Hà đưa tay vỗ lên khuôn mặt đỏ bừng vì bị đánh, trong mắt có ánh lệ, ủy khuất mà phẫn nộ nhìn mẫu thân rồi lại nhìn sang Phúc Khang An, nhìn Phó phu nhân, thần sắc vẫn quật cường, không hề nhận sai, sợ hãi hay tỏ vẻ hối hận.
Phó phu nhân ngạc nhiên nhìn tiểu cô nương trước mặt, ôn nhu hỏi: “Vì sao lại nói như vậy?”
Thôi Vịnh Hà trước sau như một khẳng định: “Các người rất hung hãn, nơi nơi đuổi người. Trong thuyết thư, thanh quan sẽ không làm như vậy, chỉ có gian thần ác bá mới có thể để thủ hạ cưỡi ngựa đi loạn, tùy tiện đánh người.”
Thôi phu nhân gấp đến nỗi giơ tay lên định tiếp tục đánh, Phúc Khang An không nhịn được đưa tay cản lại, đưa mắt nhìn mẫu thân, thấp giọng gọi một tiếng: “Ngạch nương.”
Phó phu nhân nhìn thấy thần sắc khẩn trương trong mắt hắn, mỉm cười: “Họ làm vậy là vì ta muốn dâng hương, cho nên mới giúp ta đuổi những người rảnh rỗi đi, không cố ý muốn ức hiếp dân chúng.”
Thôi Vịnh Hà ngẩng đầu, lớn tiếng nói: “Mẫu thân ta cũng dâng hương, người không đuổi người khác đi, vì sao khi ngươi dâng hương lại muốn đuổi người khác đi? Vì sao khi ngươi dâng hương, người khác không thể dâng hương, không thể bán hàng này nọ, cũng không thể mua đồ? Ngươi chính là đang ức hiếp dân chúng, chính là ác bá, người xấu, gian thần.”
Phúc Khang An vừa tức vừa vội, mà khuôn mặt của Thôi phu nhân đã xám như tro tàn, hai chân nhũn ra, cơ hồ muốn quỳ xuống cầu xin.
Phó phu nhân nhìn Thôi Vịnh Hà bằng ánh mắt kì quái dị thường, thật lâu sau mới cười nhẹ: “Thôi phu nhân, nữ nhi của ngươi rất giỏi.”
Thôi phu nhân miễn cưỡng nở một nụ cười: “Tiểu cô nương không hiểu chuyện, phát ngôn ngây thơ chất phác, phu nhân trăm ngàn lần đừng tưởng thật.”
Phó phu nhân mỉm cười lắc đầu: “Khó gặp nhất chính là phát ngôn ngây thơ chất phác, không biết bao nhiêu năm không có người nói thật với ta rồi. Nàng nói đúng, ức hiếp dân chúng là ức hiếp dân chúng, không có lí do gì để bào chữa.”
“Phu nhân!” Có một gia nô không kiềm chế được, kêu lên một tiếng.
Ánh mắt Phó phu nhân đảo qua mọi người, ngữ khí bình thản ẩn giấu sự uy nghiêm: “Các ngươi đều đã nghe được. Nàng tuy là một tiểu cô nương nhưng cũng biết cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì là ức hiếp dân chúng. Các ngươi là người lớn lại không suy nghĩ được như vậy, cậy là người của phủ Tể Tướng nên kiêu ngạo, bất tri bất giác xem thường dân chúng, tùy ý làm bậy, vì thế, trong mắt dân chúng, các ngươi từ hào nô biến thành chó dữ. Thuyết thư mặc dù là giả, nhưng đạo lý thì lại là thật, cái nhìn của dân chúng không phân thiện ác, mặc kệ triều chính đại sự cái gì, họ chỉ biết, người tốt với họ chính là thanh quan, kẻ ức hiếp họ chính là gian thần. Các ngươi là môn nhân tướng phủ, đáng ra làm việc phải cẩn thận, khoan dung độ lượng, vậy mà lại để chuyện hôm nay phát sinh, bôi xấu danh dự Tể Tướng. Cho dù quốc pháp tha cho các ngươi, môn pháp của ta cũng không tha cho các ngươi.”
Tất cả hạ nhân đều kêu lên xác nhận.
Lúc này, Phó phu nhân mới quay người lại, ánh mắt đầy thâm ý nhìn Thôi Vinh Hà nhỏ nhỏ, mỉm cười nói với Thôi phu nhân: “Thôi phu nhân, nữ nhi của ngươi thông minh lanh lợi, ngây thơ chất phác vô kỵ, dung mạo thanh tú như vậy, ta thật sự càng nhìn càng yêu. Khó được hợp ý, ngươi lại là sư mẫu của con ta, nếu không ngại, chúng ta có thể bàn chuyện, gả ái nữ của ngươi làm nương tử của con ta, tương lai hai nhà cũng sẽ thường xuyên giao hảo.”
Thôi phu nhân chỉ cảm thấy mình như bị ném lên mây, toàn thân khinh phiêu, hoàn toàn như đang nằm mơ ngơ ngác nhìn Phó phu nhân.
Phúc Khang An thất thanh kêu lên: “Ngạch nương!”
Phó phu nhân như đang nói chuyện về thời tiết, bình thản thong dong mỉm cười nhìn Thôi phu nhân, hỏi thêm một câu: “Phu nhân nghĩ thế nào?”
Thôi phu nhân trợn mắt há mồm, khó khăn nói: “Nữ nhi của ta được phu nhân nâng đỡ, vô cùng vinh sủng, ta...” Đại kinh hỉ trước mắt, nhưng lại làm bà ngay cả nói chuyện cũng không thông.
Phúc Khang An nhìn bộ dạng như thuyền nhỏ không chịu nổi trọng tải nặng của Thôi phu nhân, lúc trước hắn sẽ không để ý, nhưng khi nghĩ dạng người này sẽ làm nhạc mẫu của mình liền bắt đầu cảm thấy đáng sợ, Thôi phu nhân càng ân cần, hắn càng bị dọa đến mức chảy mồ hôi lạnh: “Ngạch nương, người đùa gì vậy, người đã quên Mãn - Hán không thông hôn sao?”
“Chuyện này cũng không có gì, bảo phụ thân con nhờ Hoàng Thượng cử người chuyển tịch cho Thôi gia không phải là được rồi sao.” Phó phu nhân bâng quơ nói, “ Thôi phu nhân thấy thế nào?”
Thôi phu nhân đã kinh hỉ đến mức không nói ra lời, chuyển tịch thật sự là đại vinh sủng, bình thường chỉ có đám hỏi của công thần quốc gia hay hoàng thất mới nhận được ân thưởng như vậy. Một khi chuyển tịch, toàn bộ tộc nhân đều trở thành người Mãn, đãi ngộ tốt hơn nhiều so với người Hán bình thường, quả thật là chuyện tốt, ngay cả nằm mơ cũng muốn không được.
Thôi phu nhân không có khí lực lo lắng đây không phải nằm mơ, chỉ biết nắm chặt may mắn rơi từ trên trời xuống.
“Vâng vâng, có thể được phu nhân yêu thích, được phụng dưỡng công tử chính là đại phúc khí của Vịnh Hà, hết thảy đều theo ý phu nhân.” Vừa nói xong, Thôi phu nhân đã cười như có một vạn đóa hoa mọc trên mặt.
Phúc Khang An vừa tức vừa vội, tất cả phong phạm của quý công tử cái gì đều không bảo trì được nữa, duỗi tay chỉ Thôi Vịnh Hà: “Ngạch nương, người không phải thật sự muốn con kết hôn với tiểu hài tử này chứ!”
Thôi Vịnh Hà mười hai tuổi đã có thể miễn cưỡng hiểu được cái gì là kết hôn, cái gì là đính hôn niên niên kỉ kỉ. Đoạn đối thoại của người lớn càng khiến nàng phẫn nộ, vì sao lại muốn nàng gả cho người này? Tuy rằng hắn đẹp trai, nhưng hắn là người xấu. Ủy khuất cực độ khiến nàng cảm thấy chán ghét, chán ghét nụ cười trên mặt mẫu thân, chán ghét bộ dạng chân tay luống cuống, nịnh bợ nịnh hót của mẫu thân trước mặt Phó phu nhân.
Vì sao mẫu thân lai đột nhiên thay đổi? Trở nên xa lạ như vậy, làm người ta không thích đến như vậy.
Mà lúc này, ngón tay của Phúc Khang An bỗng nhiên chỉ thẳng vào nàng, vì thế ,oán khí tràn ngập rốt cục cũng có lí do trào ra. Chính là tên trứng thối này, là hắn gây chuyện, là hắn khiến mẫu thân mạc danh kỳ diệu biến thành bộ dáng đáng sợ như vậy. Đầu sỏ của hết thảy mọi chuyện đều là hắn! Ta tuyệt đối tuyệt đối tuyệt đối sẽ không gả cho ngươi!
Càng nghĩ càng giận, nàng há miệng, hung hăng cắn vào ngón tay đang chỉ vào mặt nàng một cái.
Phúc Khang An tập võ từ nhỏ, sức lực mạnh mẽ có thể thuần phục cả hổ, lại vạn lần không phòng bị một tiểu cô nương, bị nàng cắn một cái, tay đứt ruột xót, theo bản năng vung tay ra đánh.
Đánh vào giữa không trung, Phúc Khang An lại đột nhiên ý thức được đối phương chỉ là một tiểu cô nương mềm yếu, chắc chắn không chịu nổi một quyền của hắn, vì thế, quyền chưởng đột ngột dừng lại. Nhìn ánh mắt ôm vạn nỗi nghẹn khuất của Thôi Vịnh Hà, hắn cảm thấy vừa bất đắc dĩ, vừa dở khóc dở cười.
Thôi phu nhân sợ tới mức quát lớn một tiếng, đẩy Thôi Vịnh Hà ra, một bên giơ tay muốn đánh nàng, một bên xoay người liên tiếp cúi đầu xin lỗi Phúc Khang An.
Thôi Vịnh Hà nhìn bộ dạng khúm núm của mẫu thân, trong lòng khó chịu không nói nên lời, mặc cho mẫu thân kéo nàng muốn nàng quỳ xuống xin lỗi, nàng cũng không hề mở miệng, nước mắt ủy khuất vô thanh vô tức chảy xuống.
Phó phu nhân hoàn toàn không giận, ngược lại còn cười thất thanh: “Quả nhiên là một tiểu nha đầu lớn mật, ta chính là thích dũng khí của nàng, có thể giúp ta quản giáo hỗn thế ma vương này.”
Phúc Khang An nhìn dấu răng trên ngón tay mình, chỉ cảm thấy người xui xẻo nhất trời đất chính là mình: “Ngạch nương, bất luận người nói thế nào, con tuyệt đối không cưới tiểu nha đầu này đâu.”
Không đợi Phó phu nhân trả lời, Thôi Vịnh Hà đã lớn tiếng kêu: “Mẫu thân, mặc kệ người nói thế nào, con cũng tuyệt đối không gả cho đại phôi đản này đâu.”
Phúc Khang An nhìn sang tiểu cô nương đột nhiên có lập trường hoàn toàn giống mình, không biết nên khóc hay nên cười.
Phó phu nhân hình như càng cảm thấy thú vị, nhẹ nhàng đưa tay lấy xuống trên chuỗi vòng cổ một viên minh châu: “Trong khoảng thời gian ngắn như vậy cũng không thể không có bằng chứng, đây là đông châu cực phẩm mà Hoàng Hậu nương nương ban cho ta, coi như là vật đính ước.”
Thôi phu nhân vươn hai tay, cung kính nhận lấy.
Phúc Khang An thấy viên đông châu rơi vào tay Thôi phu nhân, coi như chính mắt nhìn rõ tương lai của mình, kêu thảm thiết một tiếng: “Ngạch nương, người đang đùa gì vậy! Nhìn thuận mắt một tiểu hài tử, sau đó liền dùng một viên minh châu thay con đính hôn?”
Phó phu nhân như cười mà không cười liếc hắn một cái: “Trước kia ta thường được giảng chuyện xưa[1] mà cổ nhân truyền lại, nhớ có một vị thi nhân nổi danh người Hán, một ngày cũng gặp được một tiểu cô nương, dù chưa trưởng thành nhưng đáng yêu phi thường, vì thế liền lập tức đưa một hạt châu cho mẫu thân của cô nương ấy, ước định tương lai sẽ nên vợ nên chồng. Điển cố phong nhã như vậy được tái hiện trên người con, con nên vui vẻ lên mới đúng.”
Nói xong những lời này, cũng không thèm nhìn đến sắc mặt thê thảm của Phúc Khang An, Phó phu nhân lôi kéo Thôi phu nhân: “Đi thôi, chúng ta cùng đi dâng hương.”
“Ngạch nương!” Phúc Khang An rên rỉ.
Phó phu nhân vờ như không nghe thấy, thản nhiên đi về phía trước.
“Mẫu thân!” Thôi Vịnh Hà liều mạng muốn thoát khỏi tay mẫu thân.
Thôi phu nhân một tay nắm chặt nữ nhi vừa được một bước lên trời, vẻ mặt tươi cười, mãn nhãn nóng bỏng, nhắm mắt theo đuôi Phó phu nhân.
Hai vị mẫu thân cứ như vậy, hoàn toàn không để ý tới ý kiến của con cái, dễ dàng định ra chuyện hôn nhân, chỉ chừa lại hai người trực tiếp bị hại đang không ngừng phát ra những tiếng động kháng nghị trong vô vọng...
“Con không muốn cưới nàng!”
“Con sẽ không gả cho hắn!”
[1] Chuyện xưa là nói đến bài thơ “Tiết Phụ Ngâm”, tác giả Trương Tịch:
Quân tri thiếp hữu phu
Tặng thiếp song minh châu,
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi
Lương nhân trì kích Minh Quang lý
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt
Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử
Hoàn quân minh châu song lệ thùy
Hận bất tương phùng vị giá thì.
Dịch nghĩa:
Chàng biết em đã có chồng
Tặng em đôi hạt châu sáng
Cảm động trước tình đeo đẳng của chàng
Em buộc vào áo lụa hồng
Nhà em có lầu cao bên vườn hoa
Chồng em cầm kích túc trực trong điện Minh Quang
Vẫn biết lòng chàng trong sáng như mặt trời, mặt trăng
(Nhưng) em đã thề cùng sống chết với chồng
Trả lại chàng hạt châu sáng, hai hàng nước mắt ròng ròng
Ân hận rằng không thể gặp nhau lúc chưa chồng.”