1. Công chúa tuẫn tiết
Các vị tiên sinh kể chuyện trong trà lầu, phàm những người luống tuổi chắc
hẳn đều từng nghe nói một câu chuyện xảy ra ở quốc đô nước Vệ sáu mươi
bảy năm trước.
Câu chuyện tình tiết thế nào ngày nay không ai nói rõ được, tuy nhiên hết
thảy bình luận cho dù nội dung khác nhau, nhưng phần luận về nhân quả sự việc lại hoàn toàn thống nhất.
Đều nói, Vệ vương những năm trước đắc tội với Trần vương, bốn năm sau Trần
quốc tìm cơ hội thôn tính Vệ quốc. Trần thế tử Tô Dự đích thân xuất
chinh, đánh thẳng vào Vệ vương đô. Vệ vương yếu hèn lựa chọn quy hàng,
công chúa út Diệp Trăn quyết không chịu nhục, trang điểm đẹp đẽ, đứng
trên tường thành đanh thép chỉ trích, trên chỉ trích quốc chủ, dưới chỉ
trích ba quân, sau đó hướng về vương cung bái biệt ba vái, rồi mình ngọc nhảy từ trên tường thành cao trăm trượng xuống, tuẫn tiết cùng Vệ quốc.
Các sử quan gọi cố sự này là truyền kỳ, về sau nhiều bậc đế vương hậu thế
đã phê ngự bút bên lề sách sử, rằng Vệ công chúa Diệp Trăn bộc lộ chút
hào khí cuối cùng của Vệ quốc, xứng là liệt nữ.
Sáu mươi bảy năm Cửu Châu phân phân hợp hợp, hợp hợp phân phân, truyện xưa
lùi vào dĩ vãng, bá tính hồi tưởng lại giống như hồi tưởng giai thoại
truyền kỳ. Còn nghĩa cử tuẫn tiết của Diệp Trăn công chúa mặc dù gây xúc động mãnh liệt, sau khi lược bỏ sắc màu thần thánh và truyền kỳ, lại
không khiến thiên hạ nhớ lâu bằng thiên diễm tình ngang trái của nàng
với Trần thế tử Tô Dự, mặc dù không ai biết thực hư thế nào.
Sử sách Cửu Châu cũng viết về mối tình Tô - Diệp, nhưng không nhiều, chỉ
ghi lại một chuyện nhỏ, kể rằng khi Trần thế tử Tô Dự tiếp nhận quốc ấn
quy hàng của Vệ vương ở triều đường Vệ quốc, đã hỏi lão Vệ vương: “Nghe
đồn Văn Xương công chúa của quý quốc là đệ nhất tài nữ trong thiên hạ,
cầm kỳ thi họa rất mực tinh thông, nhất là tài vẽ tranh sơn thủy, Vệ
công từng so sánh quốc ấn này với công chúa, không biết hôm nay bản cung có được vinh hạnh thỉnh cầu Văn Xương công chúa họa cho một bức chân
dung?”. Văn Xương công chúa chính là phong hiệu của Diệp Trăn đã tuẫn
tiết, với hàm ý văn đức phồn thịnh.
Sử sách chỉ sơ lược vài nét như vậy, những người biết chuyện năm xưa đã
sớm về với cát bụi trong thế tình điên đảo sáu mươi bảy năm. Thiên tình
sử truyền kỳ bi tráng đó cũng bị phủ bụi thời gian. Dân gian tuy truyền
miệng, cũng chẳng qua như đuổi theo cái bóng, không biết thực hư thế
nào. Muốn lần lại câu chuyện này, phải quay về mùa xuân sáu mươi bảy năm trước.
2. Mất nước
Mùa xuân sáu mươi bảy năm trước, khắp dải đất phía bắc Trường Giang Cửu
Châu, suốt nửa năm ròng ông trời không ban cho nửa giọt mưa. Vệ quốc,
một trong những chư hầu của đất Cửu Châu mặc dù ở ngay bên bờ Đoan Hà,
nước cũng chỉ đủ cho muôn dân khỏi chết khát, toàn bộ hoa màu nuôi sống
muôn dân đều chết khô. Không quá hai mùa, nạn đói hoành hành trên toàn
lãnh thổ đại Vệ, quang cảnh vô cùng thê thảm.
Vệ vương nửa đời vô dụng, kinh động bởi trận thiên tai ác hiểm, lần đầu
tiên từ trong đống son phấn hiểu ra, nhanh chóng hạ lệnh quan phủ các
nơi mở kho lương thực, cứu tế muôn dân. Quân vương mặc dù nhất thời anh
minh, nhưng tệ nạn hủ bại thâm căn cố đế từ lâu nhất thời không có cách
nào dẹp được, từng đạo chiếu chỉ đã ban, kho lương đã mở, lương thực đã
chia, vạn thạch lương thực kìn kìn chuyển ra, nhưng đến tay dân chỉ còn
miếng cháo loãng. Muôn dân giương mắt nhìn quan phủ bố thí cho miếng
cháo, không ngờ miếng cháo quả nhiên chỉ được một miếng, không dư một
hạt để làm giống cho vụ sau.
Mắt thấy đã bị tuyệt đường sống, trăm họ đành phải vùng lên. Trăm họ nổi
loạn bất chấp đạo vua tôi, tất phải có cớ, họ nói trời đã lâu không ban
mưa là do Vệ vương vô đức, khiến ông trời phẫn nộ, để dẹp nộ khí của
đấng cao xanh tất phải đuổi Vệ vương vô đức ra khỏi ngôi báu.
Lời đồn lan tới thâm cung vương đô nhanh như gió, Vệ vương choáng váng bàng hoàng bởi lời kết tội của muôn dân, tức tốc thiết triều lệnh cho quần
thần bàn kế dẹp phản. Quần thần quen đạo làm quan, nói vài câu giả dối,
ca tụng thánh chúa anh minh, coi như xong bổn phận.
Chỉ có một cát sĩ (kẻ sĩ tốt) mới tiếp quản chức vụ của thân phụ, chưa có
kinh nghiệm làm quan, thật thà tâu lên: “Thiên hạ đều nói Huệ Nhất tiên
sinh ở Thanh Ngôn tông trên núi Nhạn Hồi là bậc đại trí, nếu mời được
tiên sinh xuống núi, có lẽ sẽ có kế hay, không cần động binh”. Thanh
Ngôn tông là quốc tông của Vệ quốc, cầu phúc cho Vệ quốc, phù hộ cho
quốc mệnh, tông chủ thế hệ này là Huệ Nhất tiên sinh.
Có lẽ số phận đã định khí số của Vệ quốc đã tận, chính trong đêm Vệ vương
phái sứ giả đến quốc tông mời Huệ Nhất, lão tông chủ tuổi hạc bát tuần
đã trút hơi thở cuối cùng. Trước khi tạ thế, Huệ Nhất tiên sinh đã lưu
lại một cẩm nang, trong cẩm nang là một tờ giấy trắng, viết tám chữ theo lối bạch thoại: “Hội minh phương dĩ, đại họa đông lai”(*). Vệ vương cầm cẩm nang nghiền ngẫm suốt một đêm trong thư phòng. Cung nhân ngủ gật
bên ngoài loáng thoáng nghe thấy tiếng nức nở từ thư phòng vẳng ra.
Huệ Nhất phán đoán như thần, vừa qua mồng chín tháng chín, Trần quốc, láng
giềng phía đông dấy binh công phạt Vệ quốc. Lý do là năm trước vào dịp
chư hầu hội minh, Vệ hầu vương lúc đi săn đã cố ý bắn rách một nửa góc
áo Trần hầu vương, Vệ hầu ngang nhiên coi thường quân uy Trần hầu, hạ
nhục Trần quốc. Mười vạn đại quân Trần thế như gió bão, nhất lộ thẳng
tiến, hầu như không gặp trở ngại, chưa đầy hai tháng đại quân đã dàn
hàng bên ngoài vương thành Vệ quốc.
Toàn thiên hạ nhìn nhận cuộc chiến này như một trò cười, mấy mưu sĩ của Trần hầu thậm chí còn đánh cuộc sau lưng, xem lão Vệ hầu vô dụng có thể trụ
được mấy ngày. Trần thế tử Tô Dự đúng lúc đi ngang qua, phe phảy chiếc
quạt bạch ngọc trong tay: “Muộn nhất là giờ ngọ ngày mai”.
Chính ngọ hôm sau, mặt trời lười biếng trốn sau mây đen, hé ra một vòng sáng
trắng, vương đô Vệ quốc giống như chiếc hộp đựng dế chọi treo lơ lửng
trên không.
Giờ ngọ ba khắc, lá cờ hàng trắng quả nhiên kéo lên ở phía đầu thành, từ
khi được thiên tử phong hầu, phúc trạch của Vệ quốc kéo dài tám mươi sáu năm, cuối cùng chấm dứt trong năm đó. Lão quốc vương thân hành rước Tô
Dự vào cung, tông thất, quần thần lớn bé nhất loạt quỳ phục trước triều
đường, họ đều là những thần tử thông tỏ sách thánh hiền, rất hiểu thời
cuộc, chim khôn luôn biết tìm cây tốt nương đậu.
Sau giờ ngọ, mặt trời trốn hẳn sau tầng mây, hoàn toàn không thấy ánh sáng, ông trời hạn hán đã lâu, nay dường như mới mở mắt, đột nhiên rót mấy
giọt mưa. Trần thế tử Tô Dự mình khoác áo lông hạc, tay cầm chiếc quạt
ngà mười hai nan, đường đường đứng bên vương tọa triều đường, tiếp nhận
quốc ấn do lão Vệ vương trình lên, hỏi vài điều về Văn Xương công chúa,
không khác một chữ so với ghi chép của sử quan.
Có điều, thế tử Tô Dự không vinh hạnh có được bút tích của Diệp Trăn, khi
chàng nói câu đó với lão Vệ vương trước triều đường, Diệp Trăn đã trèo
lên tường thành vương cung. Cuộc hội ngộ đầu tiên của Tô Dự và Diệp Trăn có sử liệu để tra cứu là trong buổi chiều đúng ngày Vệ quốc diệt vong,
cách bức thành cao trăm trượng, giữa hai đầu sinh tử.
Chàng thậm chí không nhìn rõ dung nhan khuynh thành của Diệp Trăn như lời đồn đại, mặc dù chàng nghe đồn từ lâu. Nghe nói một trăm ngày sau khi Diệp
Trăn ra đời, Vệ vương chiêm bao thấy một trưởng tăng điên điên khùng
khùng, trưởng tăng phán rằng, mặc dù xuất thân hoàng tộc, nhưng công
chúa là người bạc mệnh vô phúc, vương cung phế khí quá nặng, nếu nuôi
dưỡng trong cung nhất định không thể sống qua mười sáu tuổi.
Nghe đồn Vệ vương tin lời trưởng tăng, ngay từ nhỏ đã gửi nuôi cô trong
Thanh Ngôn tông, quốc tông của Vệ quốc để cầu bình an, thề không gặp lại trước khi công chúa mười sáu tuổi. Lại nghe đồn hai năm trước, vào ngày mừng thọ Vệ vương, Diệp Trăn đã vẽ bức “Sơn cư đồ” làm quà mừng thọ phụ thân, được tân khách trầm trồ thán phục, Vệ vương cả mừng.
Trong màn mưa mênh mang, Tô Dự tay cầm quạt đứng dưới lầu, chợt nhớ tới lời
nói của vương muội Tô Nghi trước lúc chàng xuất chinh: “Nghe đồn Văn
Xương công chúa Vệ quốc vô cùng xinh đẹp, lại trí tuệ tài hoa, là một
giai nhân tài mạo vẹn toàn, huynh xuất chinh lần này khi giương cờ chiến thắng, liệu có đón được Văn Xương công chúa về cung, làm chị dâu của
muội?”. Chiếc váy dài của Diệp Trăn bay phấp phới trên tường thành, đột
nhiên bóng người mảnh dẻ từ trên thành cao trăm trượng lao xuống như một con chim trắng, chiếc váy nhuốm đỏ khi nàng nằm trên đất, trong hàng
quân bên dưới ào lên tiếng khóc than của tướng sĩ Vệ quốc.
Tô Dự nhìn thân hình nhuốm máu phía xa, thẫn thờ hồi lâu mới gập chiếc
quạt trong tay, nói: “Hậu táng theo chế lễ dành cho công chúa”.
Tháng tư, sắc xuân ngập tràn núi rừng, Quân sư phụ
cuối cùng đã trở về sau sáu tháng biệt tăm. Có nghĩa là những vết khâu trên cơ
thể tôi không lâu nữa có thể cắt chỉ.
Sáu tháng nay, toàn thân
tôi bị băng bó kín. Ban đầu, tôi còn có hứng thú nhảy ra ngoài dọa đồng môn.
Nhưng không lâu sau, tôi phát hiện chẳng môn sinh nào sợ hãi khi họ đã bị dọa
một lần. Mà tôi lại không thể nhận ra những ai đã từng bị dọa, những ai chưa.
Vậy là tôi mất hứng đi trêu mọi người.
Hai tháng trôi qua, tôi
đã thấy hơi khó chịu.
Nhiều đồng môn tưởng tôi
không chịu đựng nổi hàng ngày mang cơ thể quấn đầy băng, đi ngâm bốn canh giờ
trong bể thuốc. Thực ra, ngâm thuốc như vậy dưỡng thương rất tốt. Chỉ có điều,
sau khi ngâm, phải giữ nguyên những lớp băng ướt sũng như vậy ngồi chờ cho đến
lúc khô, điều này khiến tôi vô cùng khó chịu. Sự khó chịu càng tăng khi thời
tiết lạnh dần.
Về sau, tôi nghĩ phàm
những anh hùng cái thế, đều phải chấp nhận những thử thách rèn luyện đặc biệt
hà khắc của sư phụ. Quân sư phụ ắt là muốn giúp tôi rèn luyện bản lĩnh, nghị
lực. Vì vậy, dẫu trong những ngày tháng chạp buốt giá căm căm, tôi cũng cắn
răng chịu đựng, quyết không bỏ cuộc, cho dù có thể bị nhiễm thương hàn.
Kiên trì được nửa năm,
qua mấy lần cảm thương hàn, quả nhiên khả năng kháng hàn của tôi tăng lên rõ
rệt. Tôi nói chuyện đó với Quân sư phụ, sư phụ trầm tư giây lát, rồi hóm hỉnh
trả lời: “À... ta quên không bảo con, cạnh nhà tắm có một cái lò có thể giúp
vải băng trên người khô nhanh, ha ha...”.
Quân sư phụ chính là tông
chủ Quân Vu giáo. Quân Vu giáo lập nghiệp trên núi Quân Vu, thuộc địa phận nước
Trần. Nghe nói, ông tổ khai sơn lập giáo không phải họ Quân mà là họ Vương,
xuất thân nghèo khó, cha mẹ đặt tên là Vương Tiểu Nhị(*).
Về sau, Vương Tiểu Nhị
được một bậc cao nhân truyền võ, sau khi thành tài, lập ra giáo phái trên núi
Quân Vu. Nhưng không chiêu mộ được đệ tử tốt, hỏi ra mới biết, khi nghe danh
giáo chủ Quân Vu là Vương Tiểu Nhị, mọi người đều cho rằng đó là lớp dạy nghề
phụ việc, đệ tử học xong sẽ phục vụ trong các quán ăn trên khắp nước.
Vương Tiểu Nhị đành mời
một ông thầy đồ gần đó đổi tên cho. Ông thầy xem xét đại thế thiên hạ, rồi
phán, các họ lớn như Đông Phương, Tây Môn, Nam Quan, Bắc Đường, Thượng Quan, Mộ
Dung đều đã lập giáo phái riêng; Hai họ Đông Quách và Nam Quách mặc dù chưa lập
giáo, song nếu lấy họ này sẽ khó khăn trong việc giải thích lai lịch, chi bằng
lấy ngay tên địa danh, lập giáo phái trên núi Quân Vu, vậy lấy họ Quân Vu, coi
như sáng tạo ra một họ kép mới, họ Quân Vu.
Nhưng lại nghĩ, tạo ra họ
kép phải lập hồ sơ trình quan phủ, thủ tục phức tạp, lại không có người tiến
cử, chi bằng tốt nhất dùng ngay họ “Quân”, vả lại họ này nghe rất khí thế, rất
“quân tử”. Vương Tiểu Nhị thấy có lý, bèn đổi thành họ “Quân” và nghe theo đề
nghị của ông thầy, dựa theo âm cổ dịch trực tiếp hai chữ “Tiểu Nhị” thành Thiếu
Song, tên đầy đủ là Quân Thiếu Song.
Sau khi Vương Tiểu Nhị
đổi tên thành Quân Thiếu Song quả nhiên chiêu mộ được rất nhiều đồ đệ. Từ đó
thanh thế của Quân Vu giáo mạnh dần. Quân sư phụ chính là cháu bảy đời của sư
tổ Quân Thiếu Song.
Từ nhỏ tôi đã biết Quân
sư phụ. Lúc đó tôi còn sống trong Thanh Ngôn tông - quốc tông của nước Vệ. Sư
phụ đầu tiên của tôi là Huệ Nhất, tuổi tuy cao nhưng vẫn tráng kiện, ăn uống
cũng tốt, đến món đậu phộng rang vẫn còn nhai được. Quân sư phụ đưa con trai
đến sống gần Thanh Ngôn tông, ở trong một căn nhà tranh cách núi Nhạn Hồi hai
dặm, thường đến chơi cờ với sư phụ tôi.
Lúc sư phụ đưa tôi lên
núi ngắm mặt trời mọc, thường nghỉ lại ở căn nhà đó của Quân sư phụ. Trong nhà
chỉ có một chiếc giường. Mỗi lần tôi và sư phụ đến, bao giờ tôi cũng được dành
cho chiếc giường đó. Ba người còn lại trải chiếu nằm dưới đất. Điều đó khiến
tôi rất khoái trá, vì mỗi lần tới đó, tôi trở thành người đặc biệt.
Sau này, tôi nói chuyện
đó với Quân Vỹ, con trai của Quân sư phụ. Quân Vỹ nói: “Như thế chứng tỏ có lẽ
muội là một công chúa bẩm sinh, chỉ có công chúa mới thích khác người”. Nhưng
tôi không đồng ý với lý giải của Quân Vỹ, công chúa không phải là thích khác
người, mà là quen với sự khác người. Chủ yếu là do không ai dám giống công
chúa. Giữa thích và quen rất khác nhau. Điều này nhiều năm sau khi phải đối
diện với cái chết, tôi mới thấu hiểu sâu sắc.
Quân Vỹ là người am tường
kim cổ, anh ta biết rất rành về lai lịch những thê thiếp của hoàng đế các triều
đại, thậm chí cả những người được hoàng đế ân sủng một đêm, chưa kịp rước về.
Quân Vỹ cho rằng, gia sự
ảnh hưởng quốc sự, quốc sự là việc lớn của thiên hạ, mà gia sự của các bậc đế
vương hầu hết là do hậu cung gây ra. Thực ra, chỉ cần các vị hoàng đế không quá
ham mê nữ sắc, không nạp nhiều phi tần là sẽ không xảy ra chuyện gì. Nhưng
không nạp thêm phi tần thì quả là tàn nhẫn đối với hoàng đế, hoàng đế cảm thấy
không thể tàn nhẫn với bản thân, thế là họ lựa chọn tàn nhẫn với thiên hạ.
Quan điểm của Quân Vỹ là
hòa hợp hậu cung của hoàng đế chính là hòa hợp toàn thiên hạ. Từ đó, cả đời anh
ta tập trung suy nghĩ, làm thế nào để hòa hợp hậu cung của hoàng đế.
Ngoài đại sự cả đời đó,
Quân Vỹ còn có một niềm đam mê khác. Đam mê viết tiểu thuyết. Nhưng Quân sư phụ
rất không tán thành. Bởi lẽ, sư phụ mong muốn con trai sẽ trở thành một kiếm
khách nổi tiếng thiên hạ. Hễ thấy anh ta viết tiểu thuyết là tịch thu bản thảo,
phạt chép kiếm pháp. Thế là anh ta đành văn võ kết hợp, lén viết tiểu thuyết
trong quá trình chép phạt kiếm pháp.
Trong những bản kiếm pháp
Quân Vỹ chép phạt, thỉnh thoảng có đoạn đại loại như: “Mỗi ngày khi mặt trời
chiếu sáng, nàng dùng đôi tay trần cởi từng lớp xiêm y, để tấm thân như men sứ
lõa lồ dưới ánh mặt trời. Đó là nơi cực lạnh, nàng ngồi trên chiếc giường băng
lạnh, phát ra tia sáng trắng lạnh người, lạnh, rất lạnh, vô cùng lạnh, nàng cứ
ngồi khoanh chân như thế, mặt hướng về bắc, lưng quay về nam. Hơi khí vận hành
đủ một vòng viên mãn. Nàng không hề biết, xa xa cách đó mười trượng, phía sau
lớp lớp giậu tường vi mùa đông đang có một đôi mắt đen thẫm lần theo từng tấc
da thịt nàng”.
Thực ra không ai nghĩ, đó
là bốn câu luận về tâm thái trong kiếm pháp: “Lúc trời lạnh nhất, ngồi trên
giường băng, lõa thể mặt hướng về bắc, vận khí đủ một vòng”. Sau này, Quân Vỹ
trở thành kiếm khách giỏi viết tiểu thuyết nhất và tiểu thuyết gia kiếm pháp
cao cường nhất.
Bản thân tôi vì lớn lên
trong Thanh Ngôn tông phái, tông phái quy định đàn ông không được để tóc. Cả
tông môn gần hai ngàn người, trừ tôi tất cả đều là đàn ông. Vì vậy, toàn tông
môn chỉ có mình tôi để tóc dài. Điều này khiến tôi có những lệch lạc trong nhận
thức đầu tiên về giới tính, trong một thời gian dài tôi cho là sự khác biệt lớn
nhất giữa đàn ông và đàn bà là đàn bà thì để tóc dài, đàn ông thì đầu trọc. Thế
là đương nhiên tôi cho rằng Quân sư phụ và Quân Vỹ đều là đàn bà. Cảm giác
tương đồng giới tính khiến tôi trở nên thân thiết với họ.
Rất tự nhiên, sau này tôi
cuối cùng cũng vỡ lẽ, cha con họ đều là đàn ông. Nhưng ý nghĩ họ là đàn bà đã
thâm căn cố đế trong tôi, khiến sau này tôi không thể nào đối xử với Quân Vỹ
theo tình cảm nam nữ. Luôn coi anh ta là chị em của tôi, quan hệ vốn là thanh
mai trúc mã, bị tôi biến thành chỉ thuần thanh mai.
Lúc ba tuổi, vì một cơ
duyên ngẫu nhiên tôi biết mình là công chúa nước Vệ, nhưng tôi thấy chuyện này
cũng rất bình thường. Chủ yếu là do lúc đó tôi chẳng hiểu “công chúa” là gì.
Quân Vỹ lớn hơn tôi một tuổi. Biết hơn tôi một chút, anh ta nói: “Công chúa
thực ra là một tầng lớp đặc quyền”. Tôi hỏi: “Đặc quyền nghĩa là gì?”. Quân Vỹ
trả lời: “Là mọi điều muội muốn đều có thể làm, những điều không thích có thể
không làm”. Nghe Quân Vỹ nói vậy, trưa hôm đó tôi dứt khoát không chịu rửa bát,
buổi tối cũng không giặt quần áo, kết quả tôi bị sư phụ phạt quỳ tới nửa đêm.
Từ đó về sau, tôi thực sự
quên mình là công chúa. Cũng năm đó, sư phụ thấy tôi cũng đã lớn liền dạy tôi
cầm kỳ thi họa. Sư phụ cho rằng, con người ta sống trên đời nên có gì đó để gửi
gắm nỗi lòng.
Nếu cầm kỳ thi họa tôi
đều tinh thông đương nhiên là tốt nhất, coi như đã thành nhân tài. Hoặc nếu chỉ
giỏi một trong tứ tài đó cũng tốt, ít nhất cũng là một chuyên gia. Tôi hỏi sư
phụ: “Ngộ nhỡ sau này con không những không giỏi mà còn hoài nghi ý nghĩa những
thứ phải học đó thì sao?”. Sư phụ trầm ngâm rồi trả lời: “Triết gia, dù gì cũng
là một nhà gì đó...”.
Không biết tại sao, Quân
Vỹ không bái sư phụ tôi làm thầy nhưng lại có thể cùng học với tôi. Sư phụ giải
thích là học thuật vốn không biên giới, không phân biệt sư môn. Quân Vỹ lại bí
mật tiết lộ với tôi, đó là do cha anh ta đã tặng sư phụ mười cây nhân sâm nghìn
tuổi.
Quả nhiên, học thuật là
không biên giới, biên giới quốc gia cũng có thể mua được. Học cùng với Quân Vỹ,
lúc tập viết chữ còn có thể chịu được, nhưng lúc học đàn thì tôi thực sự khó
chịu. Lúc đầu, chúng tôi mỗi người một cây đàn, ngồi đối diện ở hai đầu phòng,
cùng chơi đàn. Hậu quả trực tiếp là ở cái tuổi tôi còn chưa hiểu tại sao dư âm
của nó có thể dai dẳng ba ngày không dứt, điều đầu tiên tôi hiểu là tại sao
tiếng đàn như quỷ ám đó có thể khiến người ta như bị cắn xé, tan nát cõi lòng.
Chúng tôi mỗi người đều
cảm thấy người kia chơi quá tuyệt, làm cho mình đau khổ, lại càng cố tạo ra âm
thanh diệu kỳ khiến người kia càng đau khổ để trả thù. Cây đàn trong ấn tượng
của tôi là một hung khí, không phải nhạc cụ. Điều đó cũng lý giải vì sao tôi
học được cách giết người bằng tiếng đàn mà mãi mãi không học được cách dùng
tiếng đàn để cứu người, đó hoàn toàn là ám ảnh tâm lý Quân Vỹ tạo cho tôi.
Nhưng sau khi tôi học được cách giết người bằng tiếng đàn, muốn dùng tiếng đàn
để cứu người thì tất cả đã chết.
Lúc mười tuổi, tôi nhặt
được một con hổ con vừa mở mắt. Con hổ đó theo tôi suốt đời, thể hiện lòng
trung thành tột bậc của một con dã thú. Mặc dù nghĩ lại hồi đó, tôi và Quân Vỹ
nhặt con hổ đó chẳng qua chỉ vì định giết thịt nó. Đúng lúc cha Quân Vỹ bị sư
phụ tôi thuyết phục, quyết làm một người bảo vệ động vật, khiến Quân Vỹ ba
tháng liền không biết tới mùi thịt. Còn tôi sống trong tông phái cũng ít ăn
thịt, đúng lúc chúng tôi thèm thịt nhất.
Sau này, không ăn thịt
con hổ đó hoàn toàn là do chúng tôi thấy có thể nuôi nó lớn hơn chút nữa, như
vậy thịt mới có thể làm được nhiều món khác nhau. Bây giờ nghĩ lại, lúc đó tôi
có thể kìm chế cơn thèm, không giết Tiểu Hoàng đúng là một việc đáng khâm phục.
Tiểu Hoàng là tên con hổ đó. Sau này, khi đã tìm hiểu kỹ tôi phát hiện con hổ
đó thuộc loài hổ quý. Tôi và Quân Vỹ đều rất vui, bởi vì bán nó có thể kiếm
được món tiền to. Nhưng khổ nỗi không tìm được người mua, đành giữ nó lại.
Đến khi chúng tôi tìm
được người mua, thì cả hai đã lớn, chúng tôi cũng dần dần có tiền, không cần
phải trông vào tiền bán hổ nữa. Điều đó khiến chúng tôi không khỏi than thở,
đời người là vậy, con đường phát tài sao mà gian khổ.
Số mệnh đã an bài mỗi lần
tôi gặp chuyện lớn đều chỉ có một mình, hơn nữa còn bị thương. Sư phụ nói, “Con
đã nghe nói chưa, ông trời đặt trọng trách lên vai người nào, trước tiên cũng
đều thử gân cốt người đó...”. Tôi có thể tưởng tượng, trọng trách lớn nhất mà
ông trời có thể đặt lên vai tôi chắc chắc không ngoài khả năng sau khi sư phụ qua
đời, tiếp nhận tông y, trở thành tông chủ. Nhưng về sau, Quân Vỹ lén lấy tông
quy cho tôi xem, trong đó quy định rõ, nữ nhi và phù thủy không được đảm nhận
chức vụ trong quốc tông, thế là giấc mộng của tôi tan thành mây khói.
Nhiều người sau khi vỡ
mộng thường đi vào tà đạo. Dưới chân núi cũng có một thích khách do mưu việc
lớn không thành mà lưu lạc giang hồ, sau chuyển nghề mổ lợn. Lại có nho sinh do
hỏng thi mà chuyển sang viết tiểu thuyết dâm ô, vẽ tranh khiêu dâm. Nhưng trước
sau tôi vẫn cho rằng, mơ mộng và lấy vợ cũng gần như nhau, cái cũ chưa qua, cái
mới sao đến được, hơn nữa cái mới thường tốt hơn cái cũ, mộng cũ tan vỡ là để
xây mộng mới. Đó là việc đáng mừng, có gì đáng chán nản.
Tôi chia sẻ suy nghĩ này
với Quân Vỹ, anh ta cũng cho là có lý. Thế là buổi chiều anh ta hăm hở xuống
núi an ủi Vương Mục Tượng, người đàn ông vừa mất vợ: “Vợ mất thì sớm muộn cũng
có người đàn bà mới đến với anh. Vợ mới chắc chắn tốt hơn vợ cũ. Đó là một việc
đáng mừng. Anh cứ vui lên, việc gì phải đau lòng”. Hậu quả là bị Vương Mục
Tượng vác chổi đuổi đánh, Quân Vỹ không thể giải thích được gì, thậm chí còn
thấy bị tổn thương. Tôi đành an ủi anh ta: “Người đời thường tỏ ra tức giận khi
chân tướng bị bại lộ để che đậy nỗi xấu hổ trong lòng”.
Trong cái đêm giấc mộng
trở thành tông chủ tan vỡ, tôi dự định lúc trời sẩm tối sẽ ra ngoài, vào rừng
bẫy chim để thay đổi tâm trạng, tìm cảm giác mới mẻ, dệt giấc mơ mới, lấy lại
niềm tin. Có thể thấy, tôi thực sự là một người theo chủ nghĩa tích cực.
Ngoài ra, tính cách tích
cực đó còn thể hiện trong cuộc sống riêng tư của tôi. Ví dụ, tôi không bao giờ
hoài nghi, một ngày nào sau này tôi có chồng, chẳng may anh ta mất sớm, tôi sẽ
không ngần ngại thu dọn hành trang ra đi ngay trong đêm anh ta tắt thở, đi tìm
người chồng mới.
Nhưng cho tới cái đêm tôi
bị lây cảm cúm từ Quân sư phụ, vẫn quen cho rằng người chồng tương lai của mình
là Quân Vỹ, thấy anh ta vô tư nhảy nhót trước mặt mình, tôi thầm nghĩ: Ôi trời,
sao mình có thể lập tức đi tìm hạnh phúc mới khi con người này vừa tắt thở?
May mà suy nghĩ đó chỉ
kéo dài đến cái đêm giữa hạ khi tôi mười bốn tuổi, đêm dự định xây lại giấc mơ
đó.
Về cái đêm giữa hạ đó, có
bao nhiêu mỹ tự để mô tả, nhưng chân thực nhất chính là ba chữ: quá tàn nhẫn.
Nghe nói trong đêm giữa hạ, rắn độc đặc biệt trở nên hung dữ. Trong tông môn đã
có ba người bị rắn độc cắn khi đi ra ngoài vào ban đêm, mong những người khác
cảnh giác, phải cẩn thận hơn khi ra ngoài.
Khi còn nhỏ, tôi luôn tin
rằng mình là người đặc biệt, sẽ không giống ba người bất hạnh kia, lần ra ngoài
đó không mang theo hùng hoàng(*). Bây giờ nghĩ lại, ba người trong tông môn
chết vì bị rắn độc chắc cũng nghĩ rằng mình đặc biệt. Con người ta ai cũng cho
rằng mình đặc biệt, thực ra trong mắt người khác chẳng có gì đặc biệt, trong
mắt rắn độc lại càng không có gì đặc biệt.
Có lẽ đối với loài rắn
độc, chỉ có người mang theo hùng hoàng thì mới đặc biệt. Lúc còn nhỏ, chúng ta
thường muốn tỏ ra khác người, lúc trưởng thành lại muốn giống mọi người. Nếu có
thể ngược lại, chẳng phải quá tốt hay sao, chí ít tính mạng của ba người trong
môn phái cũng được bảo toàn, cho dù trở thành người thực vật. Nhưng tôi lại
không mang theo hùng hoàng, rõ ràng rắn độc thấy tôi chẳng có gì đặc biệt
Một con rắn xanh, đuôi
nhỏ, mồm có viền trắng đớp vào chân tôi một cái, chất độc ngấm vào máu truyền
khắp cơ thể. Tôi lảo đảo một lúc, dần dần ngã gục, vào lúc ý thức mơ hồ, cuối
cùng tôi hiểu ra đạo lý tôi đã nói ở trên. Tôi lại còn nhớ đến hai bức tranh vẽ
ngôi cổ tự trong núi mà tôi phải vẽ hai ngày mới xong, không biết đã được bồi
dán chưa, sau khi nhớ lại, cảm thấy chẳng có gì lưu luyến, có thể yên tâm nhắm
mắt, tôi dần dần thanh thản nhắm mắt, rồi không mở ra được nữa .
Đúng lúc đó, có tiếng
giày đạp trên lá khô lạo xạo vẳng lại mỗi lúc một gần, cuối cùng dừng lại bên
tôi, ôm lấy tôi, thoảng ngửi thấy mùi hương mai thanh lạnh, có thể hình dung ra
trong đêm thanh vắng dưới muôn ánh sao sán lạn, hoa mai tháng hai nở đầy các
triền núi.
Lúc tỉnh dậy, cảm thấy
huyết dịch sôi sục trong người, chảy xuống tụ ở vùng bụng, tay sờ lên bụng, từng
trận đau âm ỉ. Gót chân chỗ bị rắn cắn tê cứng, chạm vào vật gì mềm mềm âm ấm,
đầu gối hơi co, bắp chân như bị treo trên không. Toàn thân cảm giác kỳ dị như
vậy, tôi không chịu được, muốn mở mắt xem có chuyện gì. Vừa mở ra, thấy ngay
một cảnh tượng khủng khiếp. Đó là cảnh trong hang núi, tôi nằm trên chiếc
giường đá, dưới ánh trăng bàng bạc, chân phải bị một người đàn ông nắm chặt.
Ngón tay mảnh khảnh, trắng muốt, miệng anh ta ngậm chặt vết thương ở gót chân
tôi. Tôi chỉ nhìn được phía đó, phía bên kia đã bị món tóc xõa che khuất, khiến
tôi chỉ muốn vén tóc anh ta để nhìn cho kỹ. Anh ta không biết tôi đã tỉnh, toàn
thân anh ta y phục đen tuyền, lặng lẽ ngồi cạnh mép giường, miệng vẫn ngậm chặt
gót chân tôi. Ống tay áo dài rộng trùm trên chân tôi, cúi đầu, có thể nhìn thấy
những đường viền hoa văn cùng màu ở cổ tay.
Mọi vật xung quanh mờ mờ,
không thể nhìn rõ. Món tóc đen mướt xõa xuống, chạm vào chân tôi. Trộm nghĩ nếu
cả hai không ở tư thế kỳ quặc như vậy, sự hội ngộ giữa một thiếu nữ xinh đẹp và
một chàng công tử hào hoa sẽ bay bổng lãng mạn như nét chữ thảo của nhà đại thư
pháp. Tự nhiên, tôi cảm thấy đang bị người ta cợt nhả, liền thuận thế đạp cho
anh ta một cái. Cú đạp quá mạnh, khiến máu ở chỗ kín trong người ục ra.
Tôi và người đó lần đầu
gặp nhau, tôi đạp anh ta một cái, hậu quả là bật ra máu tháng đầu tiên.
Anh ta đương nhiên không
bị đạp ngã, nhìn thấy tôi ra chân, anh ta lập tức lùi về sau, có thể thấy anh
ta phản ứng rất nhanh. Còn tôi hoàn toàn không nhận ra rút cục anh ta làm thế
nào đang từ tư thế ngồi chuyển sang tư thế đứng. Tôi nheo mắt nhìn anh ta, dưới
ánh trăng màu bạc rọi vào cửa hang, dáng người anh ta to cao thẳng tắp, một
chiếc mặt nạ màu bạc che nửa khuôn mặt bắt đầu từ sống mũi tới trán, phía dưới
là đôi môi mỏng lạnh lùng, hàm dưới là một đường vòng cung tuyệt đẹp.
Một thoáng yên lặng.
Anh ta lau vết máu dính
trên môi, nhếch mép: “Ghê gớm thật, tôi cứu cô, vậy mà cô lấy oán trả ơn”.
Nhưng cơ thể ra quá nhiều
máu khiến tôi hoảng sợ, không thể giải thích được gì, đột nhiên òa khóc. Trong
khi khóc, vùng bụng vận động quá mạnh, khiến váy tôi dần dần ướt hết, máu trào
từng đợt, càng lúc càng nghiêm trọng. Nhưng tồi tệ nhất là, hôm đó tôi mặc váy
trắng. Ánh mắt anh ta bắt đầu hướng vào chiếc váy của tôi, ngập ngừng một lát,
anh ta hỏi: “Nước hồi à?”.
Tôi nức nở: “Cám ơn, tôi
không khát. Nhưng có lẽ tôi bị xuất huyết, sắp chết rồi”.
Anh ta tiếp tục chú ý tới
chiếc váy của tôi, chặc lưỡi một tiếng: “Cô không chết đâu, chỉ là thấy nước
hồi mà thôi”.
Tôi không hiểu: “Nước hồi
là gì?”.
Anh ta lưỡng lự một lát:
“Chuyện này mẹ cô nên nói với cô chứ”.
Tôi nói: “Anh à, tôi
không có mẹ, anh hãy nói với tôi đi”.
Thật khó tưởng tượng, tôi
nhận được toàn bộ kiến thức về “nước hồi” từ một người đàn ông xa lạ. Nhưng
càng khó tưởng tượng nếu sư phụ đích thân nói với tôi là, “Nước hồi chính là tử
cung xuất huyết có quy luật, theo chu kỳ...”. Ngay ông trời cũng cảm thấy như
vậy là làm khó cho một ông lão bảy mươi chín tuổi, nên đã không để cho ông phải
nói.
Anh ta bảo tên anh ta là
Mộ Ngôn. Đương nhiên đó không phải là tên thật. Nếu một người đeo mặt nạ, thì
cái tên tất nhiên cũng sẽ là tên giả, nếu không sẽ mất đi ý nghĩa của việc giấu
mặt.
Tôi nói với anh ta tôi
tên là Quân Phú Quý, hoàn toàn chỉ là do lo sợ, biết đâu con người này là kẻ
thù của cha tôi. Một khi biết tôi là con gái của ông rất có thể hắn sẽ giết tôi
để rửa hận. Trong lịch sử đã có những bi kịch như vậy, rất nhiều công chúa bị
liên lụy, mất mạng, nếu không cũng bị ép gả cho người nào đó, để rồi sống trong
hôn nhân bất hạnh.
Vậy là, chúng tôi ở bốn,
năm ngày trong hang núi, uống nước suối bên ngoài, ăn các loài cá dưới suối.
Tôi không thể về nhà ngay được vì chất độc còn chưa giải hết, bởi vì Mộ Ngôn
cho rằng, đã cứu người phải cứu tới cùng, cũng như tiễn Phật phải tiễn đến tận
Tây Thiên, làm nửa vời không phải là tính cách của anh ta.
Hằng ngày tôi đều phải
uống một loại thuốc, sau đó chích cổ tay lấy ra nửa cốc máu. Khi tôi chích máu,
Mộ Ngôn thường ngồi trên phiến đá trước giường chơi đàn. Đó là một loại đàn bảy
dây, dây được làm bằng tơ tằm, mỗi lần gảy phát ra những âm thanh tròn mượt.
Mỗi lần Mộ Ngôn chơi đàn đều khiến tôi nhớ tới Quân Vỹ và tiếng đàn khiến người
ta chỉ muốn chết ngay cho xong của anh ta. Rồi lại thấy tiếc là anh ta không
được nghe tiếng đàn tuyệt diệu của người ngồi trước mặt tôi, để anh ta xấu hổ
mà tự sát, không dám đầu độc tôi bằng tiếng đàn của mình nữa.
Trong năm ngày, tôi thực
sự rất muốn lật mặt nạ của Mộ Ngôn, để xem rốt cuộc mặt mũi anh ta thế nào.
Nhưng cứ nghĩ tới làm vậy có thể bị anh ta chém chết, lại không dám động đậy.
Cũng chỉ hiếu kỳ mà thôi, có lúc chuyện chẳng liên quan đến mình, nhưng vẫn
muốn làm cho rõ, đúng là bới việc ra làm.
Buổi chiều ngày thứ sáu,
vết thương ở chân tôi cũng đã khá hơn nhiều, có thể đi lại được. Mộ Ngôn dặn
tôi: “Không cần phải chích máu nữa, sáng sớm mai tôi sẽ đưa cô về”.
Không ngờ lại chia tay
nhanh như vậy, quan trọng là tôi vẫn chưa lật được mặt nạ của anh ta, tôi nhất
thời không chịu được, đứng chôn chân tại chỗ. Anh ta hỏi: “Sao, chưa muốn đi
hả?”.
Tôi lắc đầu trả lời:
“Không phải, không phải. Nhưng mà, anh không đi với tôi sao? Cái hang núi này
làm gì có nhiều đồ, anh cũng đâu phải sẽ sống mãi ở đây”.
Anh ta trầm ngâm trả lời:
“Tôi không đi được, tôi phải ở lại đây”.
Tôi nói: “Nhưng anh ở lại
đây làm gì? Anh có một mình, ở lại đây chẳng có ai nói chuyện với anh, chẳng có
ai nghe anh đàn”.
Anh ta gục đầu trên cây
đàn: “Tôi phải đợi một người, e là nếu tôi đi, người tôi cần đợi sẽ không tìm
thấy tôi”.
Tôi lập tức cảm thấy bối
rối, nếu tiếp tục hỏi sợ rằng can thiệp quá sâu vào chuyện riêng tư của anh ta,
nhưng nếu không hỏi sẽ mãi mãi không biết câu trả lời. Tôi nói: “Chuyện
này...”.
Anh ta đứng dậy, cười:
“Nói đến là đến, hôm nay có thể là ngày may mắn”.
Tôi ngẩng đẩu nhìn, cửa
hang có tiếng động. Không biết từ lúc nào, một toán người áo đen, bịt mặt đã
đứng ở đó. Lúc tôi ngước nhìn, họ đã nhất loạt rút binh khí. Động tác cũng đều
tăm tắp như trang phục của họ, có thể thấy đây là một toán quân có kỷ luật.
Điều lạ lùng là động tác của họ giống hệt nhau, từng binh khí sáng loáng rút ra
đều tăm tắp. Đương nhiên, sau này tôi mới biết binh khí của họ mặc dù trông tựa
như lưỡi hái, thực ra gọi là dao quắm. Chỉ khác một chút thôi, lưỡi hái dùng để
cắt lúa, dao quắm dùng để chặt đầu.
Bởi tôi ít khi xuống núi,
chưa từng trải, vừa trông thấy mười mấy lưỡi dao trong tay toán người đứng
thành hàng phía trước đã sợ chết khiếp, Mộ Ngôn đứng chắn đằng trước, tôi lo
lắng hỏi anh ta: “Anh có đệ tử nào không?”.
Anh ta chưa kịp trả lời,
mười mấy con dao đã vung lên. Anh ta đẩy tôi ra, vọt người lên, chỉ thấy bóng
áo choàng đen tung hoành giữa ánh dao sáng loáng, khiến tôi hoa mắt.
Động tác của anh ta nhanh
như chớp, tôi không dám chớp mắt, cũng chỉ thỉnh thoảng nhìn rõ một hai động
tác. Ví như, từ đằng sau chộp cổ tay một người áo đen, kéo người đó quay nửa
vòng, thanh đao trên tay lập tức chém đứt cổ người áo đen phía sau định đâm anh
ta, máu tươi phun ra. Anh ta còn kịp né sang một bên tránh tia máu vọt.
Trong chốc lát, toán áo
đen gần chục người, bị anh ta giải quyết chỉ còn hai, ba. Cuối cùng khi cảnh
tượng khủng khiếp sắp trôi qua thì một lưỡi dao phi thẳng về phía tôi.
Sư phụ tôi cả đời ghét
nhất ẩu đả, chưa bao giờ dạy tôi những miếng võ hộ thân. Mắt thấy con dao đang
vù vù lao tới, sắp cắm vào cổ họng mình, tôi kinh hãi đứng im. Quả là một tình huống
ghê rợn. Thử tưởng tượng, nếu lúc đó tôi sợ nhũn người, đổ sụp xuống, lưỡi dao
thẳng đường phi tới bay qua đầu tôi, vậy là tôi có thể tránh được. Nhưng toàn
thân tôi cứng đờ, mặc dù sợ đứng tim, chân tôi cũng không khụy xuống, trở thành
tấm bia sống
Đúng lúc tôi tưởng mình
chết chắc, bất chợt một màu đen tuyền trùm lên tôi, giống như mây tan, trời
nắng sau cơn mưa, bầu trời từ trên cao ép xuống, chân tôi cuối cùng mềm nhũn
khụy xuống dưới bóng đen ấy.
Mộ Ngôn kéo tôi vào lòng,
tung người vọt lên không đá nhẹ, lưỡi dao kia bay vút trở lại. “Phập!”. Tiếng
dao cắm gọn vào da thịt, một người áo đen kinh hoàng lao về phía tôi, phía
dưới, chỗ bụng anh ta một chuôi dao thò ra, con dao vừa rồi đã cắm trúng bụng
anh ta, sâu lút tới chuôi. Anh ta từ từ quỵ xuống. Thiện ác cuối cùng đã được
trả, thiên đạo luân hồi, người áo đen đó rõ ràng không thể tin thiên đạo có thể
luân hồi nhanh như vậy.
Một cảnh chết chóc, Mộ
Ngôn nói: “Không hiểu tiểu đệ bất tài của ta hàng ngày dạy các ngươi thế nào.
Nếu là ngươi, ta sẽ giết cô gái ngay khi vừa bước vào hang này, trước tiên phải
khiến đối phương bối rối. Cũng may cuối cùng ngươi cũng tỉnh ngộ, nhưng đã
muộn”. Người áo đen đó chưa chết hẳn, đồng tử giãn dần, líu lưỡi nói:
“Ngươi...”.
Mộ Ngôn cười nhạt: “Hắn
tưởng ta không biết gì sao, e là hắn quá coi thường đại ca này rồi!”.
Người đó không nói gì
nữa, chỉ cúi đầu, tay run run giơ lên, xem ra anh ta muốn rút con dao khỏi
bụng. Mộ Ngôn lấy tay bịt mắt tôi, trong động vang lên một tiếng rên khủng
khiếp, tôi hỏi: “Anh ta làm gì vậy?”.
Mộ Ngôn trả lời: “Nước
Trần có truyền thuyết, người chết nếu mang hung khí trong người, kiếp sau sẽ
vẫn phải theo nghề võ”.
Tôi nói: “Vậy có phải anh
ta thích làm văn nhân?”.
Mộ Ngôn buông tay nói:
“Có thể người ta chỉ thích làm dân thường”.
Rất nhiều năm trước, tôi
luôn tin rằng, con người ta không thể vô duyên cớ làm việc gì đó, mọi việc phải
hỏi rõ nguyên do. Ví dụ, đầu bếp nấu cho tôi món ăn tôi không thích, tôi sẽ
chạy đi hỏi đầu bếp, tại sao không làm món khoai tây chiên, tại sao, tại sao,
tại sao??? Hỏi một hồi như vậy, thông thường, ngay ngày hôm sau trên bàn ăn của
tôi sẽ xuất hiện món khoai tây chiên. Điều này dạy cho tôi tầm quan trọng của
hiểu biết, phải có hiểu biết mới hạnh phúc và ngược lại. Từ lúc mười bốn tuổi
đến mười bảy tuổi, trong ba năm, tôi đã nhiều lần hồi tưởng suy nghĩ tại sao
mình lại thích Mộ Ngôn. Kết luận là bởi vì chàng đã cứu tôi hai lần trong vòng
bảy ngày, khi chúng tôi chẳng quen biết nhau.
Quân Vỹ cho rằng, không
phải tôi thích thật sự, chỉ là tôi tưởng vậy thôi, còn nếu thích thực sự không
cần lý do, không phải hỏi tại sao. Nhưng tôi lại thấy, lý do thích một người,
giống như móng của ngôi lầu, trên đời không có ngôi lầu nào không có móng, cũng
không có yêu thích không có nguyên do.
Tình cảm của tôi đối với
Mộ Ngôn được xây dựng trên nền móng hai lần chàng cứu tính mạng tôi, cũng có
thể nói, trên đời này ngoài tính mệnh của tôi, không có gì quan trọng, thuần
túy hơn. Quân Vỹ không thể hiểu logic của tôi, chủ yếu là vì bản thân anh ta
không có logic.
Chịu ơn người ta một, báo
đáp người ta mười, giờ chịu ơn người ta mười rồi thì không gì có thể báo đáp
được, mà đạo lý ở đời, nếu không có gì để báo đáp, người ta thường đem thân báo
đáp. Nếu lúc ấy tôi ý thức được rằng, tình cảm của mình đã manh nha, tôi đã
thầm thích chàng ngay từ khi chàng ra tay cứu mạng, nhất định tôi sẽ hứa trao
gửi thân mình cho chàng. Nhưng chính lúc bàn tay chàng rời khỏi mắt tôi, trái
tim tôi đã đập thình thịch, nhưng tôi không hiểu tại sao.
Tôi hỏi chàng: “Tại sao
vừa rồi anh cứu tôi?”.
Chàng nói: “Cô mới chỉ là
đứa trẻ, phàm là nam nhi không thể thấy chết không cứu”.
Tôi nói: “Nếu tôi đã lớn
rồi thì sao?”.
Chàng quay người kéo tôi
vào trong hang, cười: “Vậy thì càng không thể không cứu”.
Tôi vốn có cơ hội tuyệt
vời nhưng tôi lại không nắm lấy, khốn khổ hơn, lúc sắp mất cơ hội, tôi vẫn
không biết, tôi chỉ ngây ra nhìn nụ cười nửa miệng của chàng. Tôi bảo chàng:
“Tôi chẳng biết trả ơn anh thế nào, tôi tặng anh một bức tranh được không, tôi
vẽ cũng được, anh muốn tôi vẽ gì tặng anh?”.
Lúc đó, ánh sáng trong
hang đang đẹp, chàng nghiêng đầu nhìn tôi: “Sao?”.
Dáng nghiêng đầu và giọng
nói mới tuyệt làm sao.
Tôi bất ngờ bị mê hoặc,
không nén nổi ý nghĩ muốn thể hiện một chút với chàng. Tôi tìm khắp nơi, nhưng
trong hang chẳng có cái bút nào. Mặc dù có thể đốt cây, lấy than để vẽ, có thể
vẽ tranh than trên giấy bồi. Nhưng trước đó mấy ngày, để tiện tôi đã cắt chúng
thành những mảnh bằng bàn tay, cùng lắm chỉ có thể vẽ trứng gà, muốn vẽ người e
rất khó.
Mộ Ngôn thấy tôi lúi húi
tìm kiếm mãi, tay cầm nắm giấy nhỏ không biết làm gì, hình như hiểu ra, chàng
đưa cho tôi một cành cây, nói: “Dùng cái này đi, nếu cô thực sự muốn vẽ tranh
tặng tôi, vẽ trên đất cũng được”.
Tôi cầm cành cây ngẫm
nghĩ một lát, run run bắt đầu nét đầu tiên. Nhưng giống như một nghệ nhân thêu
tài hoa, dù khéo léo đến mấy cũng không thể thể dùng que sắt tạo ra hoa văn
trên vải, tôi cũng bối rối như họ.
Tôi vốn định vẽ tư phong
trác việt của Mộ Ngôn khi tung người vọt lên, tay không quật ngã hai tên áo
đen. Vẽ xong, chàng ngắm nghía hồi lâu rồi nói: “Cô vẽ gì vậy? Trông như con
khỉ trèo cây hái đào, lại giống như con gấu chó đang cố với tổ ong...”. Ấn
tượng lúc đó tôi để lại cho Mộ Ngôn là như vậy, một cô gái tự cho là mình vẽ
rất được, lại vẽ chàng giống hệt như một con khỉ hái quả và con gấu chó trèo
cây.
Bây giờ tôi đã có thể
dùng cây vẽ lên đất những nhân vật sinh động như thật, nhưng cuối cùng chẳng có
cách nào sửa lại ấn tượng của Mộ Ngôn đối với tôi. Quân Vỹ nói: “Có thể người
ta cảm thấy muội vẽ một vật có thể giống bất cứ vật gì, như vậy là rất có tài”.
Quân Vỹ có suy nghĩ như
vậy cho thấy anh ta có tư duy của một kiếm khách. Nhưng vẽ tranh và dụng kiếm
khác nhau ở chỗ, khi anh dụng kiếm, trong mắt mọi người, có thể là bất kỳ chiêu
nào, đó chính là kiếm thuật xuất chúng. Còn vẽ tranh, nếu vẽ một vật mà người
xem lại nhìn thành vật khác thì bức tranh đó chắc chắn không bán được.
Tôi và Mộ Ngôn do số phận
run rủi, sống cùng nhau gần sáu ngày. Đêm thứ sáu, trong khi tôi ngủ, chàng rời
hang núi. Tôi đợi chàng bốn ngày trong hang. Nhưng chàng không quay lại. Bốn
ngày sau tôi buộc phải ra đi, chỉ vì lúc đó đang là mùa hạ, thi thể những người
áo đen đang bắt đầu phân hủy, ruồi nhặng bu đầy, bốc mùi hôi thối khủng khiếp.
Nếu tôi và chàng gặp nhau
vào mùa đông, lúc tôi vẫn mơ hồ không hiểu thế sự, nhất định tôi sẽ tiếp tục
chờ đợi cho tới khi tôi tìm ra nguyên do tôi đợi chàng. Tìm ra rồi, tôi lại có
lý do đợi tiếp, đợi cho tới ngày chàng quay trở lại, hoặc vĩnh viễn không trở
lại, nhưng đó lại là chuyện khác.
Nhưng thực tế, tôi đã sớm
bỏ đi, mang theo nỗi buồn vô tận. Lúc đi tôi vẫn nghĩ đợi chàng bốn ngày là để
chính thức cáo biệt chàng. Hiển nhiên, đó là một cách nghĩ quá đơn thuần, tôi
đã sớm giải phóng tâm hồn để yêu Mộ Ngôn, nhưng lại không thể đồng thời giải
phóng trí tuệ để nhận thức rằng mình đang yêu chàng. Đó chính là nguyên nhân
tôi để mất chàng.
Lúc tôi ra khỏi hang núi,
đi được một đoạn xa, quay đầu nhìn lại mới phát hiện, hang này ở phía sau núi
Nhạn Hồi.
Hai năm sau đó, núi Nhạn
Hồi trở thành nơi tôi thường lui tới. Mà sau khi bị Quân Vỹ bắt đọc cuốn tiểu
thuyết diễm tình anh ta mới sáng tác, cuối cùng tôi đã hiểu ra tại sao thỉnh
thoảng tôi lại nhớ về Mộ Ngôn, tại sao khi chẳng có việc gì cũng đi ra sau núi
lang thang một mình. Thì ra tôi giống nhân vật nữ trong tiểu thuyết, tình yêu
đã manh nha. Điểm khác nhau duy nhất giữa nhân vật nữ trong truyện và tôi ở
chỗ, khi tình cảm nảy nở, cô gái ấy rất hiểu tình lang. Còn tôi khi tôi âm thầm
thích Mộ Ngôn, tôi không hề biết chàng ở đâu, chàng bao nhiêu tuổi, có nhà, có
ngựa không, nhà và ngựa là trả góp hay trả một lần, song thân có còn, chàng có
sống chung với họ…
Từ khi biết mình yêu Mộ
Ngôn, tôi vẫn tìm chàng, nhưng bặt vô âm tín, dường như trên đời chưa hề tồn
tại con người này, thậm chí tôi còn dựa vào quan hệ của gia tộc để tìm, nhưng
cũng không thấy.
Tôi vẫn nghĩ chàng là
người nước Trần, nhưng vào thời đại mà thay đổi quốc tịch còn dễ hơn thay đổi
đàn bà thì có thể hôm nay chàng là người nước Trần, ngày mai có thể là thần dân
nước Vệ của tôi. Tóm lại, ý nghĩ tìm kiếm chàng từ quốc tịch là không thể thực
hiện được. Nhưng ngoài thông tin chàng là người nước Trần, tôi không có bất kỳ
manh mối nào khác. Bây giờ nghĩ lại thời thiếu nữ tuổi mười lăm, mười sáu đẹp
nhất của tôi đều nhanh chóng trôi qua trong bôn ba tìm kiếm, nhưng vẫn vô vọng,
khiến tôi đến lúc chết vẫn khắc khoải tiếc nuối.
Rừng phong sau núi đã hai
lần ngả vàng sắc thu, tôi sống đến năm mười sáu tuổi. Tương truyền trước mười
sáu tuổi tôi không được phép sống trong cảnh xa hoa nhung lụa, nếu không sẽ bị
chết yểu. Do đó, phụ vương gửi tôi tới Thanh Ngôn tông, hy vọng có thể tránh
được kiếp họa đó. Tôi có thể yên ổn sống qua tuổi mười sáu, mọi người đều rất
phấn khởi, cảm thấy từ nay không phải lo lắng nữa. Ngày hôm sau, lập tức có sứ
giả tới đón tôi trở về vương cung.
Lúc sắp ra đi, tôi và
Quân Vỹ đều rơi lệ, tôi giao chú hổ Tiểu Hoàng cho anh ta chăm sóc. Vì Tiểu
Hoàng cần rừng núi, mà Vệ vương cung là một cái lồng son. Lúc đó, Quân sư phụ
không biết tại sao lại rời Quân Vu giáo đến ẩn cư ở gần Thanh Ngôn tông, đã đưa
Quân Vỹ bái tổ quy tông, và tiếp nhận ngôi vị Quân Vu giáo tông chủ, có nghĩa
là với địa vị đó Quân Vỹ đã có đủ tiền có thể nuôi được Tiểu Hoàng. Tôi và Quân
Vỹ hẹn nhau, mỗi tháng anh ta sẽ đưa Tiểu Hoàng đến thăm tôi, lộ phí anh ta tự
lo.
Phụ vương phong cho tôi là
Văn Xương công chúa, để chứng tỏ tôi là vị công chúa có học thức nhất Vệ vương
cung. Nhưng thường ngày sư phụ vẫn chê tôi, mặc dù tôi đã theo học mười bốn năm
nhưng mới chỉ học được một phần năm học vấn của sư phụ. Xem ra, trình độ văn
hóa của tôi như vậy đã được coi là tương đối cao, chứng tỏ người xung quanh hầu
như không có văn hóa.
Trên tôi còn có ba ca ca
và mười bốn tỷ tỷ. Bọn họ đều là con của những phi tần trong hậu cung của phụ
vương. Ba ca ca rất có hứng thú, đại ca hứng thú với thơ phú, nhị ca hứng thú
với mỹ nhân, tam ca hứng thú với đàn ông. Tóm lại không một ai có hứng thú trị
quốc bình thiên hạ.
Phụ vương mỗi lần nhìn
thấy họ đều ngao ngán, chỉ có những lúc trở về hậu cung vui đùa với tân phi mới
cảm thấy được an ủi. Lúc mới về vương cung, cảm giác duy nhất của tôi là, trong
thời đại loạn, chư hầu phân tranh, quần hùng tranh bá, một quốc gia đã mục rỗng
từ trong ra ngoài lại có thể tồn tại đến hôm nay thật đáng kinh ngạc.
Giả sử tôi không phải
người nước Vệ, tôi sẽ khuyên bản triều thôn tính nước Vệ, bởi thực sự nước Vệ
rất dễ thôn tính.
Trước nay tôi không tin
vào giấc mơ của phụ vương và vị trưởng tăng trong giấc mơ mơ đó. Giả sử sinh
mệnh con người bị chi phối bởi một thế lực hư vô, thì thế lực hư vô đó ít nhất
cũng có sức mạnh thể hiện ra một cách cụ thể, ví như tín ngưỡng, quyền lực, chứ
không phải là một giấc mơ. Số mệnh đã định tôi phải chết yểu, chuyện này quả
thật muốn tránh cũng không thể.
Tôi chết vào một ngày
đông hàn năm mười bảy tuổi.
Năm đó, nước Vệ xảy ra
đại hạn, từ thành Hàn Hà phía bắc tới thành Ẩn Kê phía nam, người chết đói đầy
đồng, dân không có gì ăn, cả vương quốc như chiếc bánh nướng vàng khè để trên
bờ Đoan Hà chờ có người nhận ra đến lấy đi. Ngày hôm đó, mười vạn đại quân Trần
đã đứng ngoài kinh đô, chiến giáp đen sì, binh đao sáng loáng, họ đến thôn tính
nước Vệ, kết thúc nền thống trị tám mươi sáu năm của họ Diệp trên đất Vệ.
Sư phụ tạ thế hai tháng
trước đó, lúc lâm chung sư phụ cũng không nghĩ ra cách nào cứu nước Vệ. Tôi là
đệ tử đích truyền của ông, điều này có nghĩa, tư duy của thầy trò cùng một
mạch, sư phụ đã không có cách gì, tôi càng không có.
Lúc mới trở về vương
cung, tự nghĩ đó là bổn phận của mình, tôi dành thời gian viết tờ biểu “Gián Vệ
công thư”, trình lên triều đình, bày tỏ suy nghĩ của mình đối với chính thể
hiện tại, phản hồi duy nhất nhận được là, phụ vương xoa đầu tôi nói, chữ con
rất đẹp, sau đó ra lệnh giam lỏng tôi.
Chỉ vì nước Vệ là một
quốc gia nằm ở bên rìa đại lục, làn gió chính trị ở vương đô của thiên tử thổi
triền miên trên mảnh đất khai phá hàng trăm năm, nhưng dẫu thổi tám mươi sáu
năm cũng không tới được nước Vệ, mặc dù ở vương đô đã có phụ nữ làm quan, nhưng
phụ nữ nước Vệ chưa bao giờ được tham chính, hơn nữa đất nước chúng tôi có phân
công rõ ràng đàn ông cày ruộng, đàn bà dệt vải, khiến phụ nữ chỉ có hai chức
năng, dệt vải và sinh con.
Khi đã sắp mất nước, cuối
cùng phụ vương cũng muốn nghe kiến nghị của tôi, nhưng lúc đó tôi đã chẳng còn
kiến nghị gì hết, chỉ có một kiến nghị duy nhất là mọi người nên tranh thủ ăn
nhiều đồ ăn ngon, đến khi mất nước, tất cả cùng tuẫn tiết, thế là tôi lại bị
phụ vương giam lỏng.
Ông vuốt râu, run run
trách tôi: “Tuy lớn lên ở nơi sơn dã, nhưng thân là công chúa, con không có
chút tình cảm nào với xã tắc ư?”.
Sau lần răn dạy ấy, tin
đồn tôi là người vô cảm lan truyền khắp vương thất. Các ca ca, tỷ tỷ đều than
thở: “Trăn Nhi, muội đọc nhiều sách như vậy, nhưng lại không hiểu đạo lý sách
răn dạy, muội lạnh lùng, vô cảm. Phụ vương đã thương nhầm muội rồi”.
Điều này đúng là khó
tưởng tượng, khi cần nghiêm túc họ lại không nghiêm túc, đến khi xảy ra kết cục
tất yếu, họ lại giả bộ nghiêm túc, nếu có thể duy trì sự nghiêm túc giả dối đó
đến phút cuối cùng, cũng coi như đáng khóc, đáng ca ngợi. Nhưng rõ ràng họ
không làm được bổn phận của vương tộc. Theo tôi, vương tộc và đất nước là một,
khi nước mất, vương tộc cũng tiêu vong.
Mùng bảy tháng mười một,
bầu trời ảm đạm thê lương.
Chưa đến ba ngày bị quân
Trần vây thành, phụ vương đã quyết định đầu hàng, chưa có nước nào sự diệt vong
lại diễn ra lặng lẽ như nước Vệ. Những ghi chép trong thư tịch cổ về cảnh tượng
ngày tàn của các quốc gia cổ đại như hoàng đế tự thiêu, quần thần treo cổ,
vương tử, công chúa bỏ trốn, tất cả đều không xảy ra. Chỉ có phụ nữ tỏ ra hoảng
loạn nhất thời, bởi vì sau khi mất nước, họ không thể sống suộc sống vương giả
như trước, nhưng nếu bỏ trốn khỏi vương cung, nếu không bôn ba vất vả thì không
thể sinh tồn, huống hồ vương cung hoàn toàn không hỗn loạn. Tất cả vẫn bình yên
quy củ, hoàn toàn không cần thiết bỏ trốn. Họ đắn đo cân nhắc, cuối cùng quyết
định chờ đợi.
Sau khi nội giám truyền
tin mới nhất, tôi mặc bộ quần áo đẹp nhất từ trước tới nay. Tương truyền đó là
bộ áo lông được dệt từ lông của tám mươi mốt con hạc, trắng muốt, nhược điểm
duy nhất là quá giống tang phục, cho nên bình thường khó có cơ hội mặc nó.
Giờ ngọ ba khắc, lá cờ
hàng màu trắng rủ trên nóc thành lầu, trời có mưa nhỏ.
Nước Vệ hạn hán đã lâu,
cơn hạn châm ngòi cho cái chết của vương quốc này, khi vương quốc diệt vong lại
có mưa tống tiễn.
Tôi bước lên thành lầu mà
không gặp trở ngại nào. Ba vạn tướng sĩ trong thành đều cởi giáp buông giáo,
màu sắc của binh khí xem ra ảm đạm hơn vài phần so với quân Trần. Binh khí là
sự tiếp nối của sĩ khí, nước mất nhà tan, lại không thể quyết chiến một trận,
khiến tướng sĩ sống dở chết dở, mà gươm đao thì đã chết hẳn. Bức tường thành
cao sừng sững như vậy, quốc vương cho rằng, tường thành cao mang ấn tượng kiên
cố chắc chắn, cao là biểu tượng của sức mạnh. Nhưng sức mạnh đầy ấn tượng như
vậy không địch nổi một câu nói, không địch nổi lời nói của đương kim hoàng
thượng Vệ quốc: “Chúng ta đầu hàng”.
Phóng tầm mắt ra xa, đất
đai Vệ quốc mênh mông, từ đường chân trời mây đen ùn ùn kéo đến, mưa nhỏ như
sợi tơ uốn éo trong gió vương trên mặt binh sĩ nước Trần trong hàng quân nghiêm
chỉnh đứng ngoài thành. Tôi nhìn lần cuối quốc thổ dưới chân mình, đó vốn là
vùng đất phì nhiêu, nơi thần dân nước Vệ bao đời an cư lạc nghiệp.
Có tiếng bước chân loạng
choạng phía sau, giọng phụ vương khản đặc: “Trăn Nhi, con định làm gì?”.
Chỉ sau một đêm, phụ
vương đã già đi trông thấy. Tuy đã có tuổi nhưng do bồi bổ tốt, trước đây chúng
tôi vẫn giả bộ cho rằng ông vẫn còn rất trẻ. Nhưng lúc này, cũng không thể giả
bộ được nữa.
Thực ra tôi không có gì
để nói, sự thể đã như vậy, nói cũng vô ích. Phụ vương được một thái giám dìu
đi, suy sụp như sắp đổ quỵ. Tôi thầm sắp xếp ý nghĩ trong đầu, nói với phụ
vương: “Phụ vương còn nhớ Thanh Ngôn tông chủ, sư phụ Huệ Nhất của con chứ?”.
Ông chầm chậm gật đầu.
Gió thổi ù ù, vạt áo bay
phần phật, chỉ cần hơi phân tâm là không thể nào nghe rõ, buộc phải nói to.
Người bó chặt trong áo choàng lông hạc trắng muốt, tôi trịnh trọng nói: “Sư phụ
đã dạy Diệp Trăn đại nghĩa của vương tộc, thường răn rằng vương tộc là tôn
nghiêm của xã tắc, tôn nghiêm của vương tộc chính là tôn nghiêm của xã tắc,
không thể bị chà đạp. Nhưng khi dâng biểu đầu hàng, phụ vương có coi mình là
tôn nghiêm của xã tắc? Nếu Diệp Trăn là vua một nước, chắc chắn sẽ không đầu
hàng, khiến xã tắc chịu đại nhục. Phụ vương có thể cho rằng làm như vậy là
tránh cho trăm họ nước Vệ thoát khỏi họa binh đao, nhưng hôm nay quân Trần đã ở
ngoài kinh đô, suốt dọc đường từ bờ Đoan Hà đến kinh đô, quân Trần đã giẫm lên
xương cốt thần dân nước Vệ chúng ta, ba vạn quân sĩ trong thành nhất tề cởi
giáp đầu hàng, làm sao xứng với muôn dân đã bỏ mạng vì xã tắc? Bây giờ, những
người ở đây đều không phải là nam nhi của nước Vệ, những người đó đã yên nghỉ
nơi chín suối. Mặc dù Diệp Trăn từ nhỏ sống trên núi nhưng vẫn mang trong người
dòng máu hoàng tộc, đại biểu cho tôn nghiêm của xã tắc, phụ vương dẫn cả tông
thất đầu hàng nước Trần, nhưng Diệp Trăn quyết không thể. Nếu Diệp Trăn chỉ là
một thảo dân, hôm nay dưới vó ngựa quân Trần đành chịu nhục, nhưng Diệp Trăn
lại là công chúa...”.
Tiếng sấm chớp ầm ầm, mưa
trút xuống. Tôi quay người nhìn xuống dưới thành, một công tử y phục hoa lệ
không biết đứng đó từ lúc nào, trông rất giống Mộ Ngôn, vừa chớp mắt, lại nhìn
như đã biến mất trong màn mưa.
Tiếng phụ vương giục giã:
“Con là công chúa thì sao? Con xuống đi...”. Trận mưa thật sự đã xối rửa sạch
sẽ tất cả, nửa năm nay chưa có trận mưa nào như vậy. Nước Vệ diệt vong nhanh
chóng như vậy ư? Phải chăng đây là ý trời? Tôi vuốt nước mưa trên mặt, ngẩng
nhìn bầu trời cao vút, lòng chợt lâng lâng niềm cảm khái, có thể khái quát bằng
một câu: “Xã tắc mất, Diệp Trăn cũng chết, đó vốn là tín ngưỡng của một công
chúa”.
Tôi nhảy từ trên thành
xuống, nghĩ tới sư phụ vẫn mong mỏi bồi dưỡng tôi trở thành một triết gia. Đúng
là lo sợ điều gì, điều đó sẽ đến, cuối cùng tôi vẫn trở thành một triết gia,
nhảy vào vòng xoáy do mình tạo ra, cuối cùng kết thúc bằng cái chết. Điều duy
nhất đáng tiếc trên đời là không được gặp lại Mộ Ngôn. Đêm đó, ánh sao vằng
vặc, chàng ôm tôi, trong tay áo có mùi hương mai thoang thoảng.
Chàng nói: “Ghê gớm thật,
tôi đã cứu cô, cô lại trả ơn tôi như vậy...”.
Chàng nói: “Nước hồi
chính là huyết xuất ở tử cung có quy luật, có chu kỳ...”.
Chàng nói: “Cô vẫn còn là
đứa trẻ, phàm là nam nhi đều không thể thấy chết không cứu”.
Chàng nói: “Cô vẽ gì vậy?
Vừa giống con khỉ trèo cây hái quả, vừa giống con gấu chó đang với tổ ong...”.
Có thể chàng đã quên tôi
từ lâu, đã thê thiếp hàng đàn, con cái đề huề, nhưng không hề biết có một cô
gái nhỏ vẫn đang tìm chàng, lúc sắp chết còn nhớ tới chàng,
Tiếng gió dội lại tiếng
nức nở của tướng sĩ, hòa với tiếng mưa sầm sập. Tôi nghe thấy một bài quân ca
mà các tướng sĩ thường hát, giai điệu thâm trầm, tiếng mưa não nề khiến tiếng
hát càng bi thương. Tôi nằm trên mặt đất, mắt nhắm nghiền, cảm nhận rất rõ sinh
mệnh đang từ bỏ mình. Có tiếng chân dừng ngay bên cạnh, một bàn tay vuốt lên má
tôi, có mùi hương mai thoảng trong gió, nhưng rất khó phân biệt rốt cuộc đây có
phải là ảo giác, tôi gắng mở miệng: “Chàng... chàng...”. Bàn tay run run trên
má.
Tôi không được nuôi lớn
như một công chúa nhưng lại chết như một công chúa. Tôi chết vào mùng bảy tháng
mười một, trong tiếng ai ca tống tiễn nước Vệ: “Trăng thanh sao lặn, cố hương
xa xăm, khi hoa mai rụng hãy đưa tôi về...”.