Sau khi tôi chết, nghe nói thế tử Trần quốc là Tô Dự
đã hạ lệnh hậu táng tôi theo lễ chế dành cho công chúa. Phụ vương và mẫu phi
vốn dĩ ngày hôm sau sẽ bị áp giải về Hạo thành, kinh đô nước Trần, nhưng vì
tang lễ của tôi nên hoãn lại một ngày. Lúc khâm liệm, tôn thất vương tộc bắt
buộc phải đến xem lễ, để khi về sẽ viết một bài phú, không ai được vắng mặt.
Những người dân ở kinh thành còn sống cũng đổ ra đường tiễn biệt công chúa,
khiến quãng đường từ vương cung tới vương lăng ngày hôm đó xảy ra một cảnh
tượng tắc nghẽn chưa từng có trong cả trăm năm qua. Dân chúng ở bên này đường
muốn chạy sang bên kia đường ăn bát mỳ cũng không có cách nào sang được, mọi
người đành bất lực.
Đương nhiên những chuyện
đó tôi hoàn toàn không biết, tất cả do Quân sư phụ sau này kể lại. Lúc hay tin
kinh thành nước Vệ bị bao vây, ông đã cùng Quân Vỹ đến nước Vệ định đưa tôi đi,
nhưng không ngờ tôi đã chết cùng Vệ quốc. Từ nước Trần cách xa vạn dặm tới kinh
thành nước Vệ, khi họ đến nơi cũng là lúc tôi được nhập quan. Lúc đó, tôi nằm
trong chiếc quan tài bằng gỗ mun, đã là một người chết, phía sau là tiếng kèn
thê lương, dưới bầu trời ảm đạm những nắm tiền giấy bay lả tả.
Quân sư phụ nói: “Trong
tám mươi sáu năm nước Vệ được phong hầu, đây là lần đầu tiên ta thấy cảnh tượng
tang lễ công chúa long trọng như vậy”. Nhưng tôi nghĩ, đó không phải là cảnh
tượng tang lễ của tôi mà là cảnh tượng diệt vong của một quốc gia, mà cái chết
của một quốc gia, cho dù long trọng thế nào cũng xứng đáng.
Quân sư phụ là một cao
nhân ngoại thế, từ việc ông ẩn cư trên núi Nhạn Hồi lâu năm như vậy cũng không
bị dã thú ăn thịt, chúng ta có thể nhận ra điều đó. Núi Nhạn Hồi là một khu bảo
tồn động vật hoang dã đã được đại triều(*) công nhận, nên ở đây thường xuyên
bất ngờ xuất hiện dã thú tấn công con người.
Từ khi tôi quen biết Quân
sư phụ, tôi chỉ coi ông là một cao nhân bình thường, không ngờ ông cao siêu tới
mức có thể cải tử hoàn sinh. Điều đó trái lại với quy luật tự nhiên. Thử hình
dung, kẻ thù ta khó khăn lắm mới giết được, vậy mà hắn có thể sống lại làm ta
phải tìm cách giết hắn lần nữa. Nhưng chuyện thần kỳ đó cuối cùng lại xảy ra
với tôi. Nên đành phải ngừng bình luận về khả năng kỳ lạ đó của Quân sư phụ, vì
phủ nhận nó tức là phủ nhận sinh mệnh của tôi.
Cái ngày tôi được cải tử
hoàn sinh, tôi cảm thấy mình ngủ sâu rất lâu, tôi mở mắt tỉnh lại vào một đêm
đông mịt mù.
Từ cửa sổ nhìn ra, ánh
trăng treo trên đầu cành cây, chỉ một màu vàng nhạt, bốn bề tĩnh mịch, thỉnh
thoảng có tiếng chim kêu lạc lõng. Tôi nhớ lại lúc mình nhảy từ trên tường
thành xuống, cao như vậy mà có thể cứu sống, quả là y thuật cao siêu. Quân sư
phụ ngồi trước mặt tôi, đang lật giở một quyển sách cổ, Quân Vỹ gục đầu ngủ
trên bàn, ánh đén mờ ảo, họ dường như không chú ý tới tôi.
Ngước mắt nhìn hình bông
hoa sen trắng trên đỉnh màn, tôi nói: “Con vẫn còn sống ư?”.
Một thoáng im lặng, Quân
sư phụ lập tức để cuốn sách xuống án thư, hỏi: “A Trăn, là con nói phải
không?”. Quân Vỹ cũng bị đánh thức, dụi mắt tỉnh dậy. Tôi mở miệng, nói một
tiếng: “Vâng”.
Tay Quân Vỹ vẫn đang dụi
mắt, sững người nhìn tôi: “A Trăn hả?”.
Tôi không có thời gian để
ý tới anh ta, vì Quân sư phụ đã bước ngay đến bên tôi, ông đặt ngón tay trước
mũi tôi, cầm tay tôi bắt mạch.
Khá lâu, ông thốt lên:
“Viên giao châu đó quả nhiên là thần kỳ, A Trăn, con có đau không?”.
Tôi lắc đầu: “Không đau”.
Ông cười đau khổ: “Vết
thương nặng thế này mà nói không đau, là ta đã mang con về, nhưng con đã chết.
Con sẽ không đau nữa, ta đã tự ý làm vậy, con có muốn tỉnh lại không?”.
Tôi nhìn ông, nhoẻn cười,
gật đầu: “Con muốn”.
Đó không phải là cải tử
hoàn sinh, Diệp Trăn đã chết.
Vạn sự đều có nhân quả,
đây chính là nhân quả của tôi.
Người ta sau khi chết, ý
thức dần dần phân tán, cuối cùng tan biến, đó là truyền thuyết của Cửu Châu.
Trước đây, tôi vẫn tưởng đó là truyền thuyết, cho tới khi bản thân nếm trải cái
chết mới biết truyền thuyết cũng đáng tin cậy.
Ba ngày sau khi tôi được
an táng, nhân lúc đêm khuya, Quân sự phụ lén vào vương lăng, mang thi thể tôi
về núi Quân Vu. Lúc đó, phần hồn chưa thoát hẳn, vẫn lưu lại trong cơ thể tôi.
Ông đưa thần dược của giáo phái vào cơ thể dập nát của tôi, đó là một viên giao
châu sáng chói, dùng để giữ phần ý thức còn sót lại, để nó mãi mãi không thể
rời khỏi cơ thể. Về cơ bản, đó chẳng qua là thay đổi trạng thái tử vong, ngoài
có thể cử động và suy nghĩ, tôi chẳng khác gì người chết.
Cơ thể đó không thể lớn
thêm được nữa, tôi không thể thở, mất hẳn khứu giác và vị giác, cũng không cần
phải ăn để sống, không có cảm giác đau đớn. Bên ngực trái, nhịp đập không phải
là của trái tim nóng hổi mà chỉ là của một viên ngọc lặng lẽ nằm đó, rất sáng
nhưng lạnh ngắt như một khối băng, khiến tôi rất lạnh. Nhưng rút cục, tôi có
thể mở mắt ngắm nhìn thế gian đã là sung sướng lắm rồi.
Bây giờ tôi không còn là
công chúa gì nữa, cũng không phải gánh vác bổn phận gì hết. Quân sư phụ đặt cho
tôi một cái tên mới, Quân Phất. Có nghĩa là, cuộc đời tôi nhẹ như hạt bụi, phủi
một cái là tan. Tôi nghĩ, đúng là một cái tên bi thương mà ý nghĩa.
Lần tuẫn tiết đó, tôi đã
phải trả giá đắt, mất mạng đã đành, quan trọng là xương sọ bị vỡ, nội tạng cái
xô lệch, cái giập nát, chảy rất nhiều máu. Điều đó có nghĩa từ nay về sau, cơ
thể sẽ rất yếu, mặc dù không có có cảm giác đau đớn, nhưng thường xuyên nôn ra
máu.
Quân sư phụ dùng giao tơ
chỉnh sửa dung mạo cho tôi, chỉnh xong xinh đẹp hơn trước nhiều, chỉ có điều,
vết nứt trên sọ quả rất lớn, giao tơ cũng không vá được, để lại một vết sẹo dài
từ giữa lông mày, qua trán xuống tai trái. Lúc đầu nhìn thấy mặt tôi, Quân Vỹ
mãi không nói nên lời, lúc lâu sau mới nói: “Yêu quái, như thế này quá giống
yêu quái, thanh thoát như cũ không tốt hơn sao?”. Tôi nói: “Tôi đã nhìn kỹ rồi,
ngũ quan thì không có gì thay đổi, chỉ là nhìn hơi kỳ lạ, yêu ma hơn trước một
chút thôi, không sao cả, cứ coi như tôi chỉnh hình thất bại đi”.
Nhưng những vết sẹo ấy
cuối cùng lại rất chướng mắt, Quân sư phụ dùng giấy bạc làm chiếc mặt nạ, che
nửa khuôn mặt tôi. Tôi định đề nghị dùng mặt nạ da người, như vậy nhìn sẽ tự
nhiên hơn, nhưng thấy mặt nạ da người thông hơi rất kém, nên cuối cùng lại
thôi.
Tôi đã tưởng sau đó, có
thể sống những tháng ngày thoải mái tự tại nhưng thực tế không như thế. Chỉ là
lúc đó không nghĩ ra, lại cho là người chết rồi thì vô lo vô nghĩ, nhưng ưu
phiền đến từ tâm tưởng, tâm tưởng vẫn còn sao có thể vô ưu. Quân sư phụ đã bỏ
bao tâm huyết để tôi sống lại. Sư phụ muốn hoàn thành một việc, việc này rất
khó, chỉ dễ hơn việc bắt Quân Vỹ sinh cho tôi một đứa con mà thôi.
Ông muốn tôi đi hành
thích Trần vương.
Ông cấy viên giao châu
vào người tôi, đánh thức tâm thức tôi từ hư không trở về. Viên giao châu được
thổi vào Hoa Tư dẫn thần bí nhất trong mật la thuật, bí thuật này được đưa vào
cơ thể tôi cùng với viên giao châu.
Nếu có người uống vài
giọt máu của tôi, sẽ bị nhiễm hơi khí của giao châu trong cơ thể tôi, dù chỉ
một giọt, cũng khiến tôi lập tức nhìn thấy Hoa Tư điệu của họ. Tấu ra khúc nhạc
này là có thể dệt mộng cảnh cho người đó. Mộng cảnh này tái hiện một thời đoạn
của quá khứ, có thể ra khỏi mộng cảnh hay không, phải xem người đó có thoát
khỏi ước vọng trầm luân của mình hay không. Nhưng trên đời rất hiếm người thoát
khỏi ước vọng trầm luân của chính mình.
Quân sư phụ muốn tôi giết
chết Trần vương bằng cách đó.
Về góc độ cá nhân, cho dù
nước Trần đã thôn tính nước Vệ, tôi cũng không oán hận Trần vương. Trong thời
đại mạng người như cỏ rác, thắng làm vua thua làm giặc, chuyện đó cũng là
thường tình. Nhưng tính mạng Trần vương đổi lấy nửa cuộc đời tôi trên nhân thế,
tôi cho rằng rất đáng. Tôi muốn đi giết ông ta không phải vì tôi từng là công
chúa nước Vệ, mà chỉ vì tôi còn lưu luyến thế gian.
Quân sư phụ nói: “Chưa
vội hành thích Trần vương. Hoa Tư dẫn mới cấy vào cơ thể con chưa lâu, vận dụng
chưa thành thục, con cần có thời gian thích nghi”.
Tôi nghĩ việc này đúng là
không nên vội.
Quân sư phụ nhìn thần
sắc, dường như đoán được suy nghĩ của tôi. Lại nói thêm: “Nhưng con cũng không
nên quá ung dung, Trần vương bệnh trọng, quy thiên cũng là chuyện hai, ba năm
tới. Con vẫn nên chớp thời cơ, nếu ông ta chết trước khi con đến hành thích,
thì không hay”.
Tôi nói: “Vậy thì tốt
quá!”.
Sư phụ nhìn ra dãy núi
phía xa, sắc mặt thâm trầm khó đoán: “Như thế không được, vậy báo thù còn có ý
nghĩa gì”.
Thực ra tôi rất muốn thức
tỉnh sư phụ, nếu Trần vương bị bệnh tật đau đớn giày vò, rất cần ai đó cho một
nhát dao, một liều độc dược kết thúc mọi đau đớn, tôi đi giết ông ta lại hóa ra
giúp ông ta, như vậy càng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng nghĩ lại, giúp người là
tốt, cũng là giúp Quân sư phụ tích đức, tôi liền im lặng.
Nửa tháng sau, Quân sư
phụ đưa Quân Vỹ xuống núi, tìm một loại cây thuốc để giúp tôi mau liền các vết
thương trên người. Lúc sắp đi, Quân Vỹ an ủi tôi: “Bây giờ muội thành ra thế
này chắc chắn là không ai lấy, không sao, không ai lấy thì huynh sẽ lấy. Muội
tuyệt đối không nên buồn phiền mà lấy viên giao châu ra khỏi người, phụ lòng sư
phụ và huynh”.
Tôi nói: “Nhưng lấy muội
thì họ Quân tuyệt hậu mất”.
Anh ta lại an ủi: “Sao
lại tuyệt hậu? Lấy muội rồi, huynh vẫn phải cưới thêm vài vợ bé nữa chứ. Ha ha
ha!”. Kết quả anh ta bị tôi vác gậy đuổi đánh.
Thấm thoát đã sáu tháng
trôi qua, những cành cây khẳng khiu đã nhú mầm non. Tôi đào được một hũ rượu
hoa mai dưới gốc cây mơ già trước sân. Quân sư phụ cùng Quân Vỹ trở về, theo
sau là Tiểu Hoàng. Trước đó, Tiểu Hoàng ăn nhầm phải con thỏ trắng Quân sư phụ
nuôi để dưỡng độc. Con thỏ trắng đó có lẽ là con thỏ độc nhất đại lục này,
trong người hội tụ cả trăm loại độc. Ngay Quân sự phụ cũng đành bó tay, đành
phải đưa Tiểu Hoàng tới chỗ Thánh dược Bách Lý Việt nhờ giúp đỡ. Mất hơn nửa
năm mới giải hết độc trong cơ thể nó.
Lúc đầu, Tiểu Hoàng nhìn
dung nhan kỳ dị của tôi, nó không nhận ra, há mồm nhe nanh rất lâu. Tôi lấy
thịt thỏ cho nó ăn nó cũng không vui. Quân Vỹ vuốt ve tai nó, nhẹ nhàng vỗ về:
“Đây là mẹ con đấy, con không thể ở với cha mãi mà không nhận ra mẹ, dù sao con
cũng là do cô ấy hoài thai mười tháng sinh ra”. Tiểu Hoàng quả nhiên chạy lại
dụi đầu vào tôi rất thân thiết.
Tôi nói: “Huynh mới hoài
thai mười tháng sinh ra nó, huynh hoài thai mười tháng sinh ra cả họ nhà nó”.
Quân Vỹ dứ nắm đấm về
phía tôi: “Huynh vẫn còn lòng tốt muốn lấy muội đấy”.
Tôi nói: “Huynh có thể
sinh cho muội một chú hổ nữa để chơi không? Nếu sinh được thì muội sẽ xem xét
có nên lấy huynh không”.
Anh ta ngây ra một lúc,
xấu hổ quay sang Tiểu Hoàng: “Con trai, cắn cô ta đi”.
Dường như biết là đùa,
Tiểu Hoàng càng dụi vào tay tôi mạnh hơn.
Thuốc Quân sư phụ mang về
quả nhiên có tác dụng kỳ diệu, nghiền thành bột bôi lên người, một ngày bôi ba
lần. Năm ngày sau, vết sẹo trên người đều liền hết. Điều này khiến tôi rất mãn
nguyện, tôi liền bôi khắp lên người, cả vết sẹo ở trán. Nhưng vết thương do nứt
hộp sọ, cho nên không liền lại được, vẫn nhìn rất rõ. Tôi ngắm mình trong chiếc
gương đồng, nghĩ tới tám chữ “Kim ngọc kỳ ngoại, bại tự kỳ trung”. Có nghĩa là,
có ai ngờ bên trong diện mạo bừng bừng sức sống đó lại là một cơ thể mục nát,
nếu lấy ra viên giao châu, chưa đầy nửa khắc cả cơ thể lập tức biến thành tro
bụi. Nghĩ tới cảnh đó, quả thật cũng thấy sợ.
Sáng sớm ngày thứ sáu,
Quân sư phụ tới thăm tôi. Theo sau là Tiểu Hoàng. Hai cây đào trước hiên nhà ra
hoa thật đẹp, đầu cành hoa rực rỡ, trên lá vẫn còn đọng sương long lanh như
ngọc. Quân sư phụ dắt Tiểu Hoàng ra sân chơi, cho nó bắt bướm rồi quay đầu hỏi
tôi: “Nửa năm nay, Hoa Tư dẫn thế nào?”.
Tôi thực thà trả lời:
“Không được thực hành, sao có thể thành thục”.
Quân sư phụ trầm ngâm một
hồi, rồi nói: “A Trăn, con cũng biết viên giao châu này với công lực tự thân
của nó chỉ giữ được tính mạng cho con trong ba năm. Công lực của nó được tu
luyện do hút giấc mộng đẹp của con người, nếu con muốn sống lâu hơn, chỉ có thể
lợi dụng Hoa Tư dẫn dệt ra mộng cảnh hút lấy giấc mộng đẹp của người khác. Con
là một đứa trẻ lương thiện, e là không làm được điều đó, nhưng ta phải nghĩ
trăm phương nghìn kế để cứu con, quyết không muốn con chỉ sống được thêm ba
năm. Ta nói vậy, con có hiểu không?”.
Sư phụ sợ tôi không hiểu
nhưng tôi đã hiểu ngay từ đầu. Tôi không thể chỉ sống ba năm, cũng không thể
tùy tiện lạm sát, lấy đi sinh mệnh người khác. Nhưng trên đời có bao nhiêu
người hối hận đau khổ vì những người thân đã khuất, vì những lỗi lầm của mình.
Hoa Tư dẫn chỉ có thể dệt ảo mộng tái hiện quá khứ, khiến cho con người có thể
sửa chữa lỗi lầm đã qua, nếu người đó chìm đắm trong ảo mộng không muốn thoát
ra, cam tâm tình nguyện hiến cho tôi tính mệnh nơi trần thế của họ, như vậy đôi
bên đều có thể tu nhân tích đức.
Tôi hỏi: “Sư phụ đã tìm
giúp con được mối nào rồi sao?”.
Quân sư phụ mỉm cười gật
đầu: “Đúng, sắp tới, con đi Khương quốc một chuyến”.
Năm ngày sau, tôi mang
theo cây đàn thất huyền, cùng Quân Vỹ và Tiểu Hoàng xuất hiện tại một trấn nhỏ
gần biên giới nước Trần. Thực ra, núi Quân Vu cách biên giới hai nước Khương,
Trần không xa, đi bộ ba ngày là tới. Lần đó phải kéo dài thêm hai ngày, chủ yếu
là do chúng tôi chỉ có một con ngựa. Nếu chỉ thế cũng không có vấn đề gì, nhưng
phải liên tục canh chừng Tiểu Hoàng kẻo nó ăn thịt con ngựa, chuyện này quả rất
vất vả và mất thời gian. Cuối cùng, chúng tôi quyết định làm thịt con ngựa
nướng ăn dần, cùng đi bộ với Tiểu Hoàng. Tất cả được một bữa no nê, hành trình
trở nên nhanh hơn rất nhiều.
Biên giới hai nước
Khương, Trần là một mạch núi chạy dài. Vì dân bản địa thường đào được ngọc bích
trong núi nên gọi là Bích sơn. Chúng tôi nghĩ, nếu là nguyên nhân đó tại sao
không gọi là Ngọc sơn? Hỏi những cư dân trong trấn, mọi người đều đoán là có
thể vì chữ “Bích” nhiều nét hơn, nghe có vẻ rất văn hoa.
Chúng tôi đến đúng vào
mùa đông, cả dãy Bích sơn phủ tuyết trắng xóa, ở đây thường xuyên có tuyết lở.
Ngoài những thợ săn có kinh nghiệm, hầu như không ai dám vượt núi vào mùa đông.
Lúc này, chúng tôi men theo những con đường nhỏ trên núi, vừa đi vừa thưởng
thức cảnh đẹp hai bên đường, thực là vui tai vui mắt. Trên núi có những con
suối nhỏ chảy róc rách, tôi dùng ống bương đang cúi xuống định múc nước, chợt
dừng lại. Quân Vỹ ngồi bên cạnh vục nước suối rửa mặt, lấy tay áo lau xong,
nhìn thần sắc của tôi, thấy lạ hỏi: “Sao thế?”.
Tôi chỉ tay về phía
trước, sau bụi tường vi dại: “Kia kìa, huynh nhìn đi, nhìn kỹ đi, xem người ta
hoa nguyệt thế nào, tích lấy ít tư liệu mà viết tiểu thuyết”. Quân Vỹ nhíu mày
nhìn theo hướng tay tôi.
Đó là một đôi trai thanh
gái tú đang yêu đương nồng nàn. Nam vận áo chùng gấm, nữ diện váy vân mây. Vì
khoảng cách khá xa, nên không nhìn rõ mặt, chỉ thấy dáng hình, nam mạnh mẽ như
cây trong gió, nữ yểu điệu như liễu dưới trăng. Phía sau họ là một rừng hoa
không rõ tên, một con ngựa béo tốt buộc dưới gốc cây cổ thụ bên cạnh. Chúng tôi
phải để mắt trông chừng Tiểu Hoàng, hai mắt nó sáng quắc, hau háu nhìn con
ngựa, quả nhiên nó đã thèm rỏ dãi, Quân Vỹ chộp gáy nó ấn xuống, nó đành đứng
yên. Chàng trai cúi xuống hái một bông tường vi, cài lên tóc cô gái. Cô gái
vươn tay ôm lấy chàng, hai người dán vào nhau...
Quân Vỹ quay đầu, giơ tay
che mắt tôi: “Nhìn nhiều mắt sẽ mọc gai”. Mắt vẫn không rời phía trước, tôi vừa
hất tay anh ta vừa nói: “Muội cũng phải học hỏi kinh nghiệm chứ”. Anh ta vẫn
không nhúc nhích, xem ra chưa chắn được tầm mắt tôi thì quyết không thôi, cuối
cùng tôi bực mình, đá anh ta một cái.
Đúng lúc đó, phía trước
đột nhiên có biến, tôi hốt hoảng. Quân Vỹ ngoái lại, trố mắt ngạc nhiên: “Sao
nhoáng cái anh chàng đã bị cô nàng đè xuống? Ái chà cô ta cũng quá chủ động,
ối, ối, sao thế, sao vừa mới hôn, cô ta đã nhảy lên ngựa chạy mất? Yêu đương
kiểu gì thế?”.
Tôi nói: “Yêu đương cái
đầu huynh ấy. Huynh không thấy cô ta đâm anh ta một nhát từ phía sau à. Người
ta sợ tội chạy trốn rồi”.
Quân Vỹ nói: “Sao? Vừa
rồi họ còn ôm ôm ấp ấp cơ mà?”.
Chung quy chỉ là tôi tự
tìm rắc rối, tôi và Quân Vỹ khoanh tay đứng nhìn cũng chẳng sao nhưng bóng
chàng trai gục xuống như ngọn Bích sơn sụp đổ, đột nhiên khiến tôi nhớ tới một
người, Mộ Ngôn. Từ sau khi tỉnh lại, lâu lắm rồi tôi không nghĩ tới chàng, không
phải vì tình trong lòng đã phai, mà chỉ là giả sử lúc này gặp lại, không biết
sẽ thế nào.
Trước đây tôi rất đỗi
kiên cường, bởi vì tôi là người sống, nhưng giờ đây tôi đã là người chết, không
hít thở, không cảm giác, không làm chàng sợ đã khó rồi, nói chi những chuyện
khác. Thà không gặp còn hơn.
Quân Vỹ xem vết thương
của anh ta, mặc dù nhát dao đâm khá sâu nhưng không trúng chỗ hiểm. May mà
chúng tôi cứu kịp thời mới giữ được tính mệnh anh ta. Tôi ngắm nhìn dung mạo
con người đó, lông mày đen rậm, sống mũi rất thẳng, đôi môi mỏng nhợt nhạt, một
khuôn mặt đẹp hiếm có. Máu vẫn chảy chẳng mấy chốc đã thấm đẫm đám cỏ bên dưới.
Quân Vỹ giúp anh ta cầm máu, cuối cùng quay lại hỏi tôi: “Rốt cuộc, tại sao
chúng ta phải cứu anh ta?”.
Tôi nói: “Huynh xem anh
ta đẹp thế kia, chúng ta chữa khỏi cho anh ta rồi bán đi, chẳng phải sẽ kiếm
được khoản tiền ư?”. Quân Vỹ bực mình, vẫy tay gọi Tiểu Hoàng: “Con trai, qua
đây giúp cha cõng người này”. Tiểu Hoàng ngoẹo đầu. Quân Vỹ lại dỗ dành: “Đến
thị trấn, cha sẽ mua gà rán cho mà ăn”. Tiểu Hoàng vui sướng chạy đến.
Chàng công tử đẹp trai đó
nằm hai ngày trong y quán của thị trấn thì tỉnh lại. Ngoài hai tiếng “Tử Yên”
gọi trong lúc mê sảng, anh ta không nói gì khác. Tôi đoán Tử Yên là tên một cô
gái, chưa biết chừng chính là người đã đâm anh ta nhát dao đó. Nghĩ lại, từ cổ
chí kim đều như vậy, anh hùng đều khó qua ải mỹ nhân. Quân Vỹ nói: “Người này
sao thế nhỉ, dù gì chúng ta cũng cứu anh ta. Từ lúc tỉnh lại tới giờ, nửa câu
cảm ơn cũng không thấy”.
Tôi nói: “Đẹp trai thế cơ
mà, tùy tiện một chút cũng dễ hiểu thôi”.
Quân Vỹ trợn mắt nhìn
tôi: “Đẹp trai thì có thể uống thuốc không trả tiền? Đẹp trai thì có thể mắc nợ
ân tình cũng không cám ơn?”.
Tôi nói: “Ừ”.
Quân Vỹ ôm ngực, tức tối
suýt té xỉu.
Chúng tôi vẫn nghĩ sẽ
nhận được chút gì báo đáp khi cứu anh ta. Nếu nhà anh ta gần đây, chúng tôi sẽ
đưa anh ta về rồi mới tiếp tục hành trình. Nhưng sự đời luôn không như ý, ai
ngờ, một công tử ăn vận phong lưu như vậy mà trong người lại không có một cắc
bạc.
Tôi bối rối phân trần: “Đưa
huynh từ Bích sơn về đây coi như chúng tôi làm việc thiện trên đường, nhưng vết
thương của huynh không nhẹ, phải dùng rất nhiều loại thuốc tốt, đều do chúng
tôi chi trả. Hành trình của chúng tôi còn dài, lại còn mang theo một con hổ,
chi phí rất nhiều, lưng vốn cũng chẳng có bao nhiêu, huynh xem...”.
Tôi nghĩ, nếu anh ta vẫn
không có phản ứng, tôi sẽ cho anh ta một trận.
Nhưng người đó không cho
tôi có cơ hội đánh anh ta.
Tôi còn chưa nói xong,
anh ta đã cướp lời: “Đường xa ư?”. Hàng lông mày rất đẹp hơi nhướn lên, nụ cười
thoáng trên miệng.
Tôi nghĩ, có phải anh ta
bị vết thương lòng quá nặng không?
Anh ta tiếp tục: “Nếu
đường xa, lại đèo dốc hiểm trở, ắt nhiều nguy hiểm. Tại hạ bất tài, may mắn
từng học vài năm kiếm thuật, cô nương nếu không chê, tại hạ xin được hộ tống
bảo vệ cô nương, cũng là để trả ơn cứu mạng”.
Tôi ngập ngừng: “Nhưng
còn tiền thuốc...”.
Anh ta lập tức rút chiếc
nhẫn ngọc lớn trên tay đưa cho tôi: “Đem cầm chiếc nhẫn này cũng được gần một
lượng vàng, không những đủ tiền thuốc mà còn đủ tiền lộ phí cho tại hạ đi theo
cô nương”.
Tôi đón chiếc nhẫn ngọc,
nhìn anh ta: “Huynh không cần phải bảo vệ tôi, gần một lượng vàng này đã đủ trả
ơn cứu mạng rồi”.
Anh ta cười nhạt: “Mạng
của tại hạ không đến nỗi rẻ như vậy”.
Tôi đắn đo một hồi:
“Nhưng ngày mai chúng tôi đã phải lên đường, huynh có đi được không?”.
Anh ta khẽ cười một
tiếng: “Ngày mai ư? Không hề gì”.
Quân Vỹ không rõ tại sao
chàng công tử áo lam đó nhất quyết muốn đi theo chúng tôi. Nghĩ mãi, cảm thấy
chỉ có một lý do, chính là anh ta thích tôi. Tôi vốn lòng nở hoa một lúc, nhưng
chợt liếc vào gương, thấy dung mạo mình giờ đây đã khác. Trừ phi anh ta là
người trọng tình nghĩa hiếm có, nếu không với nửa khuôn mặt bị bọc chặt trong
lớp giấy bạc, tôi có gì đáng quý.
Quân Vỹ nghe tôi nói, trầm
ngâm: “Nếu không phải thế thì chẳng có lý do nào khác”.
Tôi giải thích thêm: “Sự
đời đâu phải mọi việc đều có lý, ví như Tiểu Lam, rõ ràng ngời ngời là bậc anh
tài, chắc đã khiến không ít ong bướm si mê. Nhưng kết cục, huynh thấy đó, cô
gái anh ta thích lại không ngần ngại đâm anh ta một nhát. Nếu không gặp chúng
ta, thì đã bỏ xác ở chốn rừng hoang. Lúc chọn bạn đời anh ta không có mắt,
khiến bản thân sống dở chết dở, nếu theo đạo lý sao có thể xảy ra chuyện đó”.
Quân Vỹ nghĩ một lúc,
cũng gật gù, lại hỏi tôi: “Tiểu Lam là ai?”.
Tôi nói: “Chẳng phải là
cái người mặc áo lam chúng ta cứu mấy ngày trước đó thôi?”. Nói rồi, tôi quay
người, định xuống bếp xem ấm thuốc sắc. Vừa ngẩng đầu, bắt gặp Tiểu Lam trang
phục gọn gàng đang nhàn tản tì tay vào khung cửa, mắt lạnh lùng nhìn về phía
chúng tôi. Bàn tán chuyện riêng của người khác sau lưng họ, quả là khiếm nhã,
bị người ta bắt quả tang, tôi rất bối rối, một lúc sau mới cười gượng một
tiếng. Anh ta cũng cười, nhưng ánh mắt nghiêm lạnh, trở gót đi vào trong.
Quân Vỹ đi đến nói:
“Huynh không tin là anh ta thích muội”.
Tôi quay đầu lại hỏi Quân
Vỹ: “Huynh xem, liệu có khả năng anh ta thích huynh không?”.
Vừa lúc Tiểu Hoàng đi qua
trước phòng, Quân Vỹ nghiến răng, chỉ vào tôi nói: “Tiểu Hoàng, cắn cô ta đi”.
Mười ngày sau, chúng tôi
đã đến Nhạc thành, kinh đô Khương quốc.
Tiểu Lam nói, đường đi
núi non hiểm trở, ắt nhiều hiểm nguy. Tôi ngẫm nghĩ, thấy anh ta có vẻ nhiều
kinh nghiệm hơn chúng tôi, hoàn toàn tin lời anh ta, luôn sẵn sàng đón đợi hiểm
nguy. Nhưng đi suốt mười ngày đều bình an, không gặp một tên sơn tặc, thổ phỉ
nào hết. Quân Vỹ hỏi tôi: “Muội nói xem khi nào chúng ta sẽ gặp thổ phỉ?”. Tôi
trả lời: “Không biết, cứ đợi xem”. Nhưng đợi mãi, vẫn chẳng thấy tên cướp nào
xông ra, khiến chúng tôi rất bực.
Đêm trước khi vào Nhạc
thành, đoàn chúng tôi lại thêm một cô gái, nói là hầu nữ kiêm thị vệ của Tiểu
Lam, tên là Chấp Túc. Chúng tôi gặp cô ta khi đang mua bánh nướng bên đường.
Trong ánh chiều tà đỏ rực, cô ta cưỡi một con tuấn mã trắng phi tới.
Quân Vỹ kéo tôi tránh
sang bên đường, cô ta nhảy xuống ngựa, tay áo trắng phất qua mặt tôi. Tôi và
Quân Vỹ còn chưa hiểu có chuyện gì, cô ta đã quỳ sụp trước mặt Tiểu Lam. Mắt đỏ
hoe nhìn anh ta nghẹn ngào: “Công tử, cuối cùng Chấp Túc đã tìm thấy công tử”.
Chấp Túc có khuôn mặt vô
cùng thanh tú, giữa trán có một nốt ruồi son. Việc cô ta khăng khăng đòi đi
theo chúng tôi, thái độ của Tiểu Lam không rõ ràng. Quân Vỹ gật đầu, tỏ ra phấn
khởi. Chắc vì Chấp Túc quả là một cô gái xinh đẹp, khiến anh ta động lòng trắc
ẩn. Nhưng trong khi động lòng bởi Chấp Túc, Quân Vỹ lại rất không hài lòng với
Tiểu Lam, anh ta ghé tai tôi nói: “Anh chàng này đến là phong lưu, ngay hộ vệ
cũng là nữ”. Nhưng tôi nghĩ, không thể nói như vậy, khi chúng tôi rời khỏi núi
Quân Vu, Quân sư phụ đã dặn Quân Vỹ phải chăm sóc cho tôi, cũng có thể coi là
hộ vệ của tôi, theo lý lẽ đó, chẳng phải tôi cũng rất phong lưu?
Buổi tối hôm đó, chúng
tôi trọ ở một quán nhỏ. Nửa đêm, Tiểu Hoàng cắn tay áo đánh thức tôi, nhờ ánh
trăng tôi nhìn kỹ nó, dường như nó muốn tôi đi với nó. Chúng tôi đi xuyên qua
hành lang dài, một chú hổ và một người đã chết, bước chân nhẹ như bay. Vừa lúc
sắp bước vào hậu viên, bất chợt nghe thấy tiếng Chấp Túc: “Cô gái đó chẳng có
gì đặc biệt, tại sao công tử không chịu cùng Chấp Túc về phủ? Công tử có biết,
khi công tử đi vắng, nhị công tử đã làm bao nhiêu việc rồi không? Chấp Túc
biết, Tử Yên cô nương đã làm công tử bị tổn thương sâu sắc, nhưng công tử, mong
công tử lấy đại sự làm trọng”.
Tôi nghĩ, chuyện riêng
của họ tôi có nên nghe lén? Cuối cùng đạo đức đã chiến thắng tính hiếu kỳ, tôi
quyết định không nghe tiếp nữa. Nhưng tôi chưa kịp bỏ đi, Tiểu Lam đã nói,
tiếng rất nhỏ, theo gió truyền đến tai tôi, giọng nghe rất quen, “Các
ngươi...”, ngừng một lát “... tìm được Tử Yên rồi?”.
Tôi kéo Tiểu Hoàng lùi về
phía cánh cửa hình bán nguyệt, nghe thấy giọng Chấp Túc: “Công tử đối với Tử
Yên cô nương tình sâu nghĩa nặng, nhưng cô ta là gian tế của nước Triệu, cô ta
rắp tâm hành thích công tử, cô ta...”.
Tiếng nói dần biến mất
sau lưng tôi và Tiểu Hoàng.
Dưới mái hiên, tôi sực
nhớ cảm giác quen thuộc vừa rồi, ngẩn ngơ nhớ lại cái hang núi ba năm trước, Mộ
Ngôn ngồi đối diện với tôi, những ngón tay trắng như ngọc gẩy cây cổ cầm, dây
bằng tơ tằm, nụ cười trên môi. Đã ba năm, tôi thực sự không thể nhớ tiếng nói
của chàng, chỉ có âm thanh từ cây cổ cầm đó thỉnh thoảng lại vẳng bên tai, trầm
bổng du dương, là khúc ca ngân mãi trong tôi.
Ánh trăng trong sáng vằng
vặc, tôi đưa tay bịt mắt mình, như chàng đã từng làm vậy. Nhưng đôi mắt đó bây
giờ đã chết.
Chuyện
này thực không biết làm sao.