Ba ngày sau, tôi gặp vị khách Quân sư phụ đã thu xếp
cho tôi, Thẩm Tống Thị Tống Ngưng, phu nhân của Khương quốc tướng quân Thẩm
Ngạn đồn trấn biên ải. Nói là “khách” cũng chưa thỏa đáng, bởi vì rút cục không
biết cô mua một giấc mộng đẹp từ tôi, hay tôi mua một sinh mệnh từ cô.
Đó là một biệt viện ở
ngoại thành, nghe đồn Thẩm Ngạn tướng quân bất hòa với phu nhân, hai năm trước,
Tống Ngưng đã chuyển tới tĩnh dưỡng ở biệt viện này, sau không quay về phủ
tướng quân nữa. Trong hai năm, đã xảy ra khá nhiều biến cố như, Thẩm Ngạn nạp
thiếp, Tống Ngưng bị bệnh. Tóm lại, sức khỏe của Tống Ngưng càng tĩnh dưỡng lại
càng suy yếu, bây giờ gần như sắp chết.
Lão bộc ra đón chúng tôi
cho biết, phu nhân muốn gặp riêng tôi, ba người Tiểu Lam, Quân Vỹ và Chấp Túc
được đưa về nghỉ ở nhà ngang. Tiểu Lam không ý kiến gì, Quân Vỹ rất không hài
lòng, tôi hiểu, anh ta lo cho sự an toàn của tôi. Nhưng tôi không hiểu, với
tình trạng một người đã chết như tôi, như thế nào là bảo đảm an toàn. Mọi người
thảo luận rất lâu, quyết định để Tiểu Hoàng đi cùng tôi. Quân Vỹ xoa đầu Tiểu
Hoàng, căn dặn: “Con trai, cố gắng bảo vệ mẹ nuôi thật tốt”.
Tôi cũng xoa đầu Tiểu
Hoàng, vừa ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt của Tiểu Lam, không biết anh ta có ý gì,
lại nhìn tôi cười: “Quân cô nương đi sớm về sớm”.
Lão bộc dẫn tôi qua hai
dãy hành lang, qua những khu vườn hoa lá tốt tươi, vừa đi vừa giới thiệu, những
loài cây, giống hoa này được chuyển từ đâu tới, có mùi kỳ hương thế nào nhưng
tôi chẳng ngửi thấy gì. Vòng qua một hồ sen rộng, bước lên ngôi thủy tạ trên hồ
sen đó, bốn bề có rèm chắn gió. Người phụ nữ nằm trên chiếc giường mây đọc sách
ngẩng đầu nhìn tôi.
Tôi nhìn khuôn mặt của cô
như được in ra từ bức họa. Mặc dù gắng tỏ ra vui vẻ nhưng vẫn trắng bợt, ủ rũ.
Cho dù tôi không lấy đi tính mạng của cô, thì cô cũng chẳng sống được bao lâu.
Điều này không có nghĩa là tôi biết xem tướng mà chỉ là vì trong chuyện này
không ai có kinh nghiệm bằng tôi, đó là khuôn mặt của một người sắp chết.
Huống hồ, tôi đến đây là
để lấy tính mạng của cô. Trong một thời gian ngắn, nếu cô không chết tự nhiên,
tôi cũng phải làm cho cô chết bất ngờ.
Gió lay nhẹ bức rèm, bây
giờ đã là tháng năm. Thẩm phu nhân đặt cuốn sách xuống, ho nhẹ, lặng lẽ nhìn
Tiểu Hoàng đang nằm phục trên đất, một hồi lâu, nhẹ nhàng nói: “Một chú hổ thật
hiền, lúc chưa xuất giá, ở quê nhà ta cũng nuôi một con sói nhỏ”. Cô giơ tay,
“To bằng ngần này”. Ngón tay cô như bông hoa lan phác ra một hình trên không,
dừng lại, khẽ lắc đầu mỉm cười, rồi nhìn tôi, ánh mắt kỳ dị: “Cô nương chính là
Quân Phất? Người mà Quân sư phụ nói có thể giúp tôi thực hiện tâm nguyện bấy
lâu?”.
Tôi trả lời: “Dạ phải”.
Lúc trả lời như vậy, thực sự tôi chưa nhớ ra Quân Phất là ai. Điều đó chứng tỏ
tôi không phải là người có mới nới cũ. Tôi đã là Diệp Trăn được mười bảy năm,
tràn đầy tình cảm với cái tên đó, mặc dù đổi tên đã lâu, cũng không thể dễ dàng
quên được.
Cô đặt tay lên mép giường
mây, khe khẽ gật đầu, sắc mặt trắng xanh trầm lại dần dần ửng hồng, nhìn rõ lúm
đồng tiền rất sâu trên má. Một lúc lâu sau, cô cười: “Quân Phất, tôi muốn có
một giấc mơ, cô có biết tôi muốn có giấc mơ thế nào không?”. Tôi ngồi trên lưng
Tiểu Hoàng, trang nghiêm nhìn cô: “Tôi không biết, nhưng phu nhân cần nói cho
tôi biết”. Nghĩ một lát lại thêm: “Tuy vậy, không phải tôi tới giúp phu nhân,
chỉ là đến làm một cuộc trao đổi. Tôi không cần núi vàng núi bạc, mấy ngày lưu
ở Nhạc thành này chỉ xin phu nhân bữa cơm. Tôi có thể cho phu nhân một giấc mơ
đẹp, phu nhân muốn một giấc mơ thế nào, tôi sẽ cho phu nhân giấc mơ như thế.
Phu nhân có thể tự lựa chọn, ở lại trong giấc mơ đó, hay thoát ra ngoài”.
Cô tỏ ra rất ngạc nhiên:
“Sao?”.
Tôi gật đầu: “Nếu phu
nhân lựa chọn thoát ra khỏi giấc mơ, tôi không cần một xu tiền công, nhưng nếu
phu nhân lựa chọn ở lại trong mơ...”.
Cô hơi nheo mắt: “Nếu tôi
chọn ở lại trong mơ, Quân cô nương, cô sẽ thế nào?”.
Tôi nhìn vào mắt cô: “Nếu
phu nhân lựa chọn ở lại trong giấc mơ, hãy trả thù lao cho tôi bằng tính mệnh
của phu nhân trên trần thế, phu nhân thấy thế nào?”.
Hàng lông mày thanh tú
khẽ nhướn, rồi ngoảnh nhìn bầu trời bên ngoài thủy đình, trầm ngâm hồi lâu, cô
đột nhiên mỉm cười: “Được”.
Ngày hôm đó, tôi không đi
sớm về sớm như lời dặn của Tiểu Lam, ngồi trong thủy đình rất lâu. Bởi vì Tống
Ngưng kể chuyện cho tôi nghe, đó là tâm nguyện của cô. Cô muốn sửa lại câu
chuyện đó, dẫu chỉ trong mơ. Đương nhiên chỉ là tự dối mình. Nhưng cô không
hiểu điều đó, nên mới khao khát một giấc mơ như vậy.
Rèm ở bốn phía được kéo
lên, phía xa là mặt hồ đầy nắng. Cô uống vài giọt máu của tôi pha với nước trà,
huyết dịch kích thích sinh khí trong người tụ lại, hóa thành những nốt nhạc
nhảy múa, xếp hàng trước mặt tôi. Tôi ghi nhớ từng nốt một, đó là Hoa Tư điệu
của Tống Ngưng.
Trong ánh sáng từ mặt hồ
hắt lên, cô dần dần nhớ lại. Còn tôi đã nhập tâm Hoa Tư điệu đang nhảy múa
trước mặt, nhìn thấy từng cảnh, từng cảnh quá khứ của cô. Cô chậm rãi: “Quân cô
nương chắc từng nghe nói, tuy tôi là phu nhân Khương quốc tướng quân, nhưng lại
không phải là người nước Khương. Bảy năm trước, tôi mười bảy, cũng bằng cô bây
giờ, được gả tới nước Khương, lòng tràn trề tình yêu mãn nguyện, thực là những
ngày đẹp như hoa...”.
Trong những ngày đẹp như
hoa đó, Tống Ngưng, em gái Tống Diễn đại tướng quân nước Lê tình cờ gặp Thẩm
Ngạn trên chiến trường cuộc chiến giữa hai nước Khương, Lê. Lúc đó, Thẩm Ngạn
tướng quân là viên tướng trẻ nhất nước Khương, có cặp mày uy nghiêm, tài năng
trác việt, uy danh lẫy lừng bách chiến bách thắng.
Tống Ngưng xuất thân
trong một gia đình võ tướng danh giá, từ nhỏ đã được dạy dỗ nghiêm khắc như một
cậu con trai, lúc còn bé tí đã ngơ ngẩn ngắm nhìn thanh kiếm chuôi có dải lụa
hồng, mười bốn tuổi đã theo huynh trưởng chinh chiến bốn phương.
Tuổi mười sáu, mười bảy,
là lúc các khuê nữ bận rộn chuẩn bị đồ thêu cho ngày xuất giá, còn Tống Ngưng với
cây kiếm mang dải lụa hồng lại lập công xuất sắc ngoài trận mạc. Nước Lê từ cổ
nhiều nam ít nữ, các cô gái vô cùng đắt giá. Mùa xuân năm Lê Trang Công thứ
mười bảy, những gia đình danh giá phàm có con gái đến tuổi cập kê, đều bị các
đám dạm hỏi giẫm mòn bậu cửa. Nhưng phủ đệ đại tướng quân danh giá như vậy lại
vắng vẻ đìu hiu, không vị công tử quý tộc nào dám lấy Tống Ngưng.
Mọi người đều sợ, cưới cô
vợ như Tống Ngưng, nếu nạp thiếp, với dòng máu con nhà võ sẽ bị cô đánh chết.
Lê Trang Công có thiện ý đích thân đứng ra làm mối gả Tống Ngưng cho nhị công
tử ở phủ thừa tướng. Nhị công tử vừa nghe chuyện sợ đến nỗi ngã từ lưng ngựa
xuống.
Tống Ngưng đang ở chiến
trường nghe tin đó, đứng trầm ngâm rất lâu bên bờ suối. Tống Diễn tìm thấy cô,
cau mày, nói: “Muội đừng lo, đó chỉ là những kẻ nhát gan, huynh sẽ có cách để
hắn nhất định phải lấy muội”.
Tống Ngưng mỉm cười:
“Huynh đừng giận, bọn chúng là những gã công tử ham chơi trói gà không chặt,
chúng không thích muội, huynh tưởng muội thích chúng sao? Tống Ngưng nếu lấy
chồng, cũng phải lấy anh hùng hào kiệt”.
Vốn tưởng nói vậy để
chứng tỏ Tống Ngưng không bận tâm chuyện bị nhị công tử ruồng bỏ. Nhưng sau đó
không lâu, quả nhiên gặp được vị anh hùng của đời mình. Chính vào mùa đông năm
đó, vị anh hùng cưỡi con hắc mã, tay cầm thanh kiếm nặng bốn chục cân, họ Thẩm
tên Ngạn, tự Bạc Đan.
Mùa đông năm Lê Trang
Công thứ mười bảy, tiết trời giá lạnh khác thường, tuyết phủ trắng khắp nơi, ở
biên giới hai nước Lê, Khương bỗng xuất hiện một đàn ngựa hoang, hai nước đều
muốn nhận là của mình, không bên nào nhường bên nào, dẫn tới xích mích, hận
thù, cuối cùng gây nên đại chiến. Tống Ngưng từ lâu đã nghe nói chiến công hiển
hách của Thẩm Ngạn, nhưng thâm tâm không phục, luôn muốn tìm cơ hội so tài với
chàng.
Cuối cùng vào một ngày,
tuyết rơi dày đặc, hai nước giao tranh trước ải Ngọc Lang. Thời cơ hiếm hoi đã
đến, Tống Ngưng, một người vốn điềm đạm cẩn trọng, lại bất chấp ánh mắt cảnh
báo của đại huynh, quất ngựa xông lên, hét tên mình và gọi: “Tử Vi thương Tống
Ngưng đến lĩnh giáo cao chiêu của Thẩm Ngạn Thẩm tướng quân”. Gió lạnh ù ù
truyền tiếng nói như vỡ họng của Tống Ngưng tới trận địa quân Trần. Lá cờ bay
phần phật, một vị tướng trẻ mình vận bạch bào cưỡi ngựa khoan thai đi tới.
Khuôn mặt anh tuấn lạnh lùng, thanh kiếm lạnh như nước trong tay lóe sáng.
Trong trận thách đấu đơn
phương đó, kiếm pháp của Tống Ngưng chưa bao giờ vụng về đến vậy, chưa đầy năm
chiêu, cô đã bị ngã ngựa, suốt ngần ấy năm chinh chiến chưa bao giờ thất bại
nhanh như vậy, thảm hại như vậy. Nhưng đối phương vẫn không đổi sắc mặt, chỉ
khi dùng mũi kiếm hất mũ giáp trên đầu cô, mới ngạc nhiên thốt lên: “Thì ra là
một tiểu thư”.
Tống Ngưng yêu Thẩm Ngạn
vì chàng đánh bại cô. Đó cũng là nguyên nhân tục đấu võ kén chồng rất thịnh
hành sau đó, các cô gái mạnh mẽ ngày càng nhiều, các cô gái mạnh mẽ khi lựa
chọn lang quân đều mang một trái tim của Độc Cô Cầu Bại(*).
Muốn có được cô, trước
hết phải đánh bại cô. Chỉ cần đánh bại cô, tất sẽ có được cô. Nếu đánh bại cô,
lại không muốn có cô, sẽ bắt đầu một cuộc tình bi thảm.
Tóm lại, cây thương buộc
dải lụa hồng bị thanh trường kiếm trong tay Thẩm Ngạn đánh bật ra cách đó hai
trượng. Chàng ngồi trên lưng ngựa, hơi cúi xuống, mũi kiếm chớp mắt đã hất lên
cây thương dài trên đất, tung lên rồi cắm phập bên cạnh Tống Ngưng, giọng dửng
dưng: “Cây thương của tiểu thư”. Gió lạnh mang theo tuyết lồng lộn tung hoành,
trong mắt chàng là ba vạn hùng binh phía sau cô, môi cô ẩn nụ cười, trong mắt
cô có chỉ hình bóng chàng.
Thẩm Ngạn sừng sững uy
nghiêm như trái núi trong lòng Tống Ngưng. Con chiến mã đen tuyền, bộ chiến bào
lóng lánh như ánh trăng bạc, đường kiếm mau lẹ, chuẩn xác, quyết không chịu đớn
hèn trong vòng tay đàn bà. Cô nghĩ, đó mới là vị anh hùng của lòng mình, đáng
tiếc, đó lại là vị anh hùng của phía địch quân.
Nhưng anh hùng cũng có
lúc thất bại, hơn nữa rồi sẽ thất bại. Các bậc hào kiệt trong lịch sử xứng danh
hai chữ “danh tướng” đều như vậy, không phải đã thất bại, thì cũng sắp thất
bại.
Thế là, Thẩm Ngạn gặp
Tống Ngưng, từ đó chàng dần dần thất bại... Thực ra, thì cũng không nói như thế
được, nói như vậy không đúng, nói như thế có vẻ Tống Ngưng quá ưu thế. Thẩm
Ngạn bị thua trong trận chiến trên cánh đồng hoang Thương Lộc quả thật không
liên quan đến cô, các nhà quân sự phân tích rất lâu, tìm ra lý do đáng tin cậy
nhất có lẽ là sao chiếu mệnh của Thẩm Ngạn chỉ ra ngày hôm đó chàng không nên
xuất hành.
Trong trận chiến trên
cánh đồng hoang Thương Lộc, Thẩm Ngạn bị thua dưới tay đại tướng quân Lê quốc
Tống Diễn, năm vạn tinh binh đi theo bị tiêu diệt, bản thân chàng cũng trúng
mấy mũi tên, suýt mất mạng. Lúc trời vừa rạng, con chim ưng của Tống Diễn bay
qua sa mạc, nghiêng cánh chao liệng, rồi đậu xuống tay Tống Ngưng. Tống Ngưng
lấy ra ống tre nhỏ buộc ở chân chim, trong đựng mảnh thư lụa báo tin chiến
thắng, tay run run, mảnh thư lụa nhỏ bằng bàn tay rơi xuống, con chữ nhập nhòa
nghiêng ngả. Tống Ngưng không thể tin Thẩm Ngạn đã chết, bởi thâm tâm cô đã coi
Thẩm Ngạn là vị anh hùng bất khả chiến bại. Chưa đầy ba ngày, vị anh hùng đã
bại trận, cô không thể chấp nhận điều đó.
Tống Ngưng mang theo
thuốc, phi ngựa ra khỏi quân doanh. Cô nghĩ, nếu Thẩm Ngạn chưa chết, bất luận
thế nào cô cũng cứu sống chàng. Còn nếu Thẩm Ngạn đã chết, cô phải tìm được thi
thể, tự tay chôn cất chàng. Thẩm Ngạn không thể trở thành bộ xương vô chủ.
Thẩm Ngạn là người đầu
tiên khiến cô rung động, chàng là người đàn ông đích thực, khác hẳn những gã
công tử nhà giàu tầm thường ở nước Lê. Kỳ thực làm sao cô biết chàng có phải là
người đàn ông đích thực hay không. Cô cũng chưa từng thử, tất cả đều là tưởng
tượng, và trong tưởng tượng cô lại càng yêu chàng.
Một ngày trời âm u, gió
sa mạc sắc như dao, gió xoáy mang theo đá vụn quất vào mình ngựa, làm nó đau
đớn hí vang, Tống Ngưng cúi rạp mình trên lưng ngựa, giữa sa mạc bao la, cô
dùng dải sa trắng quấn ngang che mắt, cố bảo vệ số thuốc quấn trong người,
nghiến răng phi ngược chiều gió, tay và mặt bị gió cát quất bỏng rát. Cô liếm
vết thương trên tay, tiếp tục phi ngựa trong gió.
Cô thầm nghĩ, Thẩm Ngạn
đang đợi cô ở phía trước. Niềm tin này giúp cô vượt qua quãng đường rất dài
trong thời gian ngắn nhất, trên đường còn phải tránh đại quân của đại huynh
thắng trận trở về quân doanh. Chung quy có lẽ chỉ mình cô nghĩ như vậy, thực
ra, Thẩm Ngạn sao có thể đợi cô? Thậm chí chàng chưa hẳn còn nhớ cô.
Cánh đồng hoang Thương
Lộc đã ở phía trước, những vũng máu bị gió cát phủ lấp quá nửa, giống như chiến
trường bị bỏ quên lâu ngày, chỉ có mùi máu tanh vẫn nồng nặc trong không khí
nhắc người ta cảnh địa ngục Tu La vừa mới diễn ra. Xác binh sĩ Khương quốc đen ngòm
phủ kín cánh đồng Thương Lộc, vừa xuống ngựa đi vài bước, đã vấp phải xác
người. Tống Ngưng tay không lật hơn hai ngàn xác chết. Điều đó có vẻ như cô và
Thẩm Ngạn không có duyên với nhau. Nếu có duyên, thì xác đầu tiên lật thấy sẽ
là Thẩm Ngạn. Nhưng cô vẫn kiên trì quyết không bỏ cuộc. Có lẽ quyết tâm của cô
cuối cùng đã động đến trời xanh, khi lật đến xác thứ hai ngàn bảy trăm hai mươi
tám, lau hết máu trên mặt một người, nhìn thấy đôi mắt vị anh hùng, cô ôm chặt
chàng nghẹn ngào: “Thẩm Ngạn”.
Tống Ngưng đã không đoán
nhầm, những bậc anh hùng thường cao số, Thẩm Ngạn vẫn còn sống. Cô ôm xác chàng
nghe thấy tiếng rên vô thức của chàng khi bị chạm vào vết thương, lòng như trút
được gánh nặng ngàn cân, nước mắt trào ra, chảy dài trên má: “Em biết mà, em phải
đến”. Lúc này, chỉ có hai người giữa ngổn ngang xác chết, Thẩm Ngạn hoàn toàn
không biết gì. Mặc dù giữa cảnh địa ngục, Tống Ngưng cũng nở nụ cười, cô ôm mặt
khóc, nước mắt đầm đìa.
Tống Ngưng đã cứu sống
Thẩm Ngạn. Thuở nhỏ, trong phủ cô đã từng học y, chỉ tiếc cô không có năng
khiếu về mặt này, khi thành nghề cũng chỉ chữa được bệnh thương hàn nhẹ. Vết
thương của Thẩm Ngạn lại rất nghiêm trọng, có lẽ ngay cả thần y Bách Lý Việt
cũng chưa chắc chữa được. Trong tình hình thuốc thang thiếu thốn như vậy, Tống
Ngưng lại không làm Thẩm Ngạn chết, ngược lại khiến chàng khá dần lên, chỉ có
thể nói, tấm lòng cô một lần nữa thấu tận trời xanh.
Nhưng đôi mắt Thẩm Ngạn
bị gió cát làm tổn thương, tạm thời chưa thể hồi phục. Chàng ngồi trong hang
núi tuyết gần cánh đồng hoang Thương Lộc nhẹ nhàng vuốt thanh kiếm, lạnh lùng
nói với Tống Ngưng: “Xin hỏi, ân nhân cứu mạng là một cô nương hay một vị công
tử?”.
Nhưng cuối cùng Tống
Ngưng không cho Thẩm Ngạn biết cô là ai. Đại quân nước Lê dẹp bằng cánh đồng
Thương Lộc, tiêu diệt năm vạn tinh binh của Thẩm Ngạn, chắc chắn chàng căm hận
người Lê đến tận xương tủy, cho nên sao cô có thể cho chàng biết mình là Tống
Ngưng của nước Lê?
Nhưng ý trời khó đoán,
đêm hôm đó, vết thương của Thẩm Ngạn phát tác, chàng sốt rất cao, rét run cầm
cập, trong hang đốt bao nhiêu lửa cũng không đủ. Tống Ngưng lo lắng bồn chồn,
trầm ngâm rất lâu, cuối cùng đành dùng một cách được ghi trong sách cổ, cô cởi
bỏ xiêm y, ép người sát vào chàng, ôm chàng thật chặt.
Trong động bốn bề là lửa,
nóng rừng rực, làm tan cả lớp băng trên vách động, nước theo kẽ nứt tí tách nhỏ
giọt. Thẩm Ngạn bỗng bừng tỉnh, đẩy mạnh cô ra, cô lại ôm chàng chặt hơn, chàng
bất lực nói: “Cô nương, không cần hủy hoại sự trong trắng vì tại hạ”.
Cô cười thầm, tay viết
lên ngực chàng: “Lương tâm thầy thuốc mà, chớ bận lòng”. Kỳ thực, không phải
lương tâm nào hết, chỉ là bởi vì đó là người cô yêu, là vị anh hùng của cô,
dùng cách gì cứu được chàng cũng rất đáng, dẫu phải đổi mạng cũng cam lòng,
huống hồ chỉ là sự đụng chạm da thịt. Thẩm Ngạn không cự tuyệt nữa, nhẹ nhàng
đặt tay lên vai cô: “Nếu cô nương không chê, khi tại hạ khỏi bệnh, xin đến quý
gia cầu hôn cô nương”. Tống Ngưng run rẩy, gục đầu vào ngực chàng.
Từ sau đêm đó, tình trạng
của Thẩm Ngạn vẫn rất nguy kịch, đêm ngày mê man. Chỗ thuốc đem theo cuối cùng
cũng hết, không còn cách nào khác, cô định cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết
vào trong trấn tìm lang y. Việc này thực sự vô cùng nguy hiểm, đầu tiên phải
nghĩ tới tình hình thời tiết giá lạnh trên núi, họ có thể bị chết cóng trên
đường đi, tiếp nữa, có thể gặp tuyết lở, có thể bị tuyết vùi, cuối cùng là có
thể bị chết đói do lạc đường trên núi. Tóm lại, thực sự rất gian nan. Nhưng
Tống Ngưng nghĩ đi nghĩ lại, cô quyết định cứ đi. Mặc dù ra khỏi hang núi đồng
nghĩa với tự tìm cái chết, nhưng ở mãi trong hang cũng là tự tìm cái chết, mạo
hiểm để may ra còn tia hy vọng sống. Nhưng cô chưa từng nghĩ đến chuyện để lại
Thẩm Ngạn, một mình trở về quân doanh.
Ba ngày liên tiếp không
nghỉ, cô cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết. Khi đến được một y quán trong thị
trấn, cũng là lúc sức cùng lực kiệt, chân tay trầy xước rớm máu, đặt Thẩm Ngạn
xuống rất lâu nhưng Tống Ngưng vẫn không thể nào đứng thẳng lên được.
Thẩm Ngạn vẫn mê man.
Gần mười ngày cô không
trở về quân doanh, Tống Diễn vô cùng lo lắng, phái thuộc hạ đi tìm khắp nơi. Cô
vừa tới thị trấn, liền nhìn thấy thuộc hạ của đại huynh, biết là không thể ở
lại lâu hơn, liền đập miếng ngọc bội của mình thành hai mảnh. Một nửa dùng sợi
tơ đỏ xuyên qua đeo lên cổ Thẩm Ngạn, một nửa mình giữ, coi đó là tín vật về
sau. Cô gửi gắm Thẩm Ngạn cho hai ông cháu vị đại phu ở y quán, để lại năm
lượng vàng, dặn dò: “Đây là Khương quốc tướng quân của các vị, hãy chữa khỏi
cho chàng, nhất định sẽ được hậu thưởng xứng đáng”. Vị đại phu có tuổi quỳ sụp
trước mặt cô, đứa cháu gái bị câm đứng bên đỡ lấy ông, giơ tay ra hiệu điều gì
mà Tống Ngưng không hiểu.
Bàn tay cô vuốt nhẹ mắt
Thẩm Ngạn, khuôn mặt chàng trắng bệch, vẫn hôn mê sâu, chàng không hay biết cô
sắp phải rời đi.
Tống phu nhân kể cho tôi
nghe câu chuyện đó, còn những chuyện không có trong ký ức của cô tôi lại nhìn
thấy.
Ngày thứ ba sau khi Tống
Ngưng rời đi, Thẩm Ngạn tỉnh lại trong một đêm mưa, đôi mắt chàng được rửa và
tra thuốc, đã sáng trở lại. Đứa cháu gái bị câm của vị đại phu ngồi cạnh giường
chàng. Chàng chăm chú nhìn cô, mỉm cười: “Thì ra trông cô như thế này, những
ngày qua chắc lo cho tôi lắm? Bây giờ chúng ta đang ở đâu?”.
Khuôn mặt thanh tú của cô
gái chợt ửng đỏ, cắn môi, không dám nhìn chàng.
Chàng nhìn quanh hỏi:
“Đây là y quán ư? Cô ngồi lại gần đây”.
Cô gái câm nhích lại gần
chàng. Chàng cau mày: “Cô không nói được ư?”.
Cô gái bẽn lẽn gật đầu.
Chàng nắm lấy tay cô: “Chả trách trước giờ tôi chưa nghe thấy cô nói, thì ra cô
không nói được”.
Cô gái khẽ ngước nhìn
chàng, lại bối rối cúi đầu, tay vẫn để yên trong tay chàng.
Năm Lê Trang Công thứ
mười tám, nước Khương thua trận, dâng hai thành ấp biên ải cầu hòa. Lê, Khương
kết đồng minh. Đồng minh mới kết chưa lâu, Lê Trang Công nhận Tống Ngưng em gái
Khương quốc đại tướng quân làm nghĩa muội, phong là Kính Võ công chúa, phái sứ
giả tới nước Khương yết kiến Khương vương, ngỏ ý muốn tác thành hôn sự cho Tống
Ngưng và Thẩm Ngạn để thắt chặt mối bang giao hữu hảo giữa hai nước.
Trước đây Tống Ngưng
không để Thẩm Ngạn biết cô là ai, do mối quốc thù, cô sợ Thẩm Ngạn thà chết
cũng không nhận ân nghĩa của người nước Lê, không chịu để cô cứu sống. Thực ra,
chỉ là cô cả nghĩ, anh hùng không cần biết xuất xứ, nghĩa là khi nhận ơn huệ,
anh hùng thường không hỏi xuất xứ của ân nhân.
Nhưng bây giờ cô sắp được
gả sang nước Khương, gả cho người anh hùng của lòng mình. Cô còn nhớ, Thẩm Ngạn
nói sẽ cầu hôn cô, không cần biết chàng có yêu cô không, cô muốn chàng thực
hiện lời hứa. Đó chính là lý do đàn ông không thích hứa hẹn với phụ nữ. Bởi trí
nhớ của phụ nữ quá tốt, hơn nữa họ luôn có cách buộc người hứa giữ lời. Tống
Ngưng viết một bức thư dài, lại đính kèm nửa miếng ngọc bội ngày trước, đưa cho
sứ giả nhờ chuyển riêng đến tay Thẩm Ngạn.
Mãi đến khi đoàn đưa dâu
sắp khởi hành, Tống Ngưng vẫn không nhận được thư hồi âm của Thẩm Ngạn. Nhưng
chuyện đó cũng không có gì quá thất lễ, cùng lắm chỉ là một lỗi nhỏ trong bản
hòa ca mà thôi. Cuối cùng Thẩm Ngạn cũng đồng ý hôn sự Lê Trang Công đưa ra.
Tống Ngưng thầm đoán, cảm thấy, thứ nhất, chính miệng Thẩm Ngạn nói sẽ lấy cô.
Thứ hai, chàng cũng đồng ý lấy cô theo đề nghị của Khương vương, dù chủ động
hay bị động, chàng đều bằng lòng, việc này hầu như đã hoàn toàn viên mãn, không
thể sai sót.
Không ngờ cuối cùng lại
xảy ra sai sót, âu cũng là ý trời. Đó là sự huyền bí, nhưng nếu không huyền bí
sao có thể chứng tỏ sự vô tình của số mệnh, giống như với Tống Ngưng, giống như
với tôi.
Đêm động phòng, vầng
trăng tròn vành vạnh treo trên đầu ngọn cây, những áng mây lơ lửng trên trời,
trong phòng ánh nến hỉ chập chùng in bóng hoa. Bao tình cảm ấp ủ trong lòng,
Tống Ngưng hồi hộp chờ đợi Thẩm Ngạn lật khăn trùm đầu của cô, cô sẽ dành cho
chàng nụ cười tươi thắm nhất. Cô rất xinh đẹp, các công tử quyền quý ở kinh đô
nước Lê, mặc dù tất cả không muốn cưới cô làm vợ, nhưng tất thẩy đều công nhận
nhan sắc mỹ lệ của cô, điều đó thật ra không dễ, nhưng ở một khía cạnh khác có
thể thấy trình độ thẩm mỹ của họ rất cao, lại khá thống nhất với nhau. Vì đã là
một trang tuyệt sắc, mà trang tuyệt sắc đó lại mỉm cười, tất khiến thành khuynh.
Khi Thẩm Ngưng mở tấm khăn trùm đỏ thêu đôi chim uyên ương, nhìn thấy nụ cười
khuynh thành đó, chàng bỗng sững người.
Tống Ngưng nghiêng đầu
nhìn chàng, nụ cười tươi rạng như hoa. Nhưng thần sắc chàng lạnh lùng dửng
dưng, là bộ dạng cô đã quen thuộc. Cô nghĩ, hạnh phúc đời mình chính là đây.
Nhũ mẫu ở nhà đã dặn cô, trong đêm tân hôn phải nói những lời yêu thương, đại
loại như: “Phu quân, em trao Tống Ngưng cho chàng, trao hết cho chàng, chàng
hãy trân trọng, vân vân…”. Cô đang định nói những lời đó, nhưng còn đang đắn
đo, chợt nghe thấy tiếng chàng lạnh lùng: “Chắc cô biết người ngồi trên chiếc
giường này đêm nay vốn là ai chứ?”.
Cô không hiểu chàng nói
gì, ngẩng đầu hỏi: “Sao?”.
Đôi mắt chàng vẫn lạnh
băng: “Tôi nghe nói, đại huynh của cô thỉnh cầu Lê vương, muốn tôi cưới cô. Tại
sao lại là tôi? Chỉ bởi một lần tôi từng thắng cô ở chiến trường ư? Tống Ngưng,
lẽ nào trước đây cô chưa nghe nói, tôi đã có vị hôn thê?”.
Tống Ngưng lắp bắp:
“Nhưng chàng đã nói muốn lấy tôi”.
Chàng cười lạnh lùng:
“Rút cục tôi cũng chỉ là phận bề tôi, chủ lấy tính mạng ra để ép tôi. Sao tôi
có thể không nghe. Có điều tôi không muốn được gì từ cô. Cũng phiền cô đừng yêu
cầu gì ở tôi”.
Tống Ngưng ngước nhìn
chàng: “Tôi không mong được gì từ chàng, chỉ là...”.
Chàng ngắt lời cô: “Vậy
thì tốt”.
Chàng phảy tay áo bước
khỏi phòng tân hôn, mặt đất trước giường đầy ánh trăng vỡ vụn. Cô nhìn theo
bóng chàng, thầm nghĩ, tuyệt đối không thể như thế. Cô gọi chàng: “Thẩm Ngạn”
giống như khi trong địa ngục Tu La trên chiến trường Thương Lộc, cô ôm chàng
nghẹn ngào, dịu dàng gọi tên chàng. Nhưng chàng không dừng bước, cô không khóc,
lòng chỉ hoang mang.
Cả đời cô chỉ khóc một
lần duy nhất. Đó là lúc tìm thấy chàng trên cánh đồng hoang Thương Lộc, phát
hiện chàng vẫn sống. Cô cởi áo đỏ đại hỉ, gấp gọn gàng, nằm ngay ngắn trên
giường, hai mắt mở to nhìn đôi nến long phượng đã cháy gần hết, ngoài cửa sổ
ánh trăng buồn vẫn lặng lẽ buông.
Ngày hôm sau, Tống Ngưng
tới thỉnh an phu nhân lão tướng quân, nghe các hầu gái xì xào, tối qua tướng
quân ngủ ở Hòa Phong viện. Hà Phong viện là nơi ở của Liễu Thê Thê, Thê Thê cô
nương. Tống Ngưng thầm nghĩ, Thê Thê vừa xanh tươi vừa tràn trề sinh khí, một
cái tên hay.
Tống Ngưng nghe nói chiếc
áo Thê Thê khâu cho tướng quân đường kim rất khéo, thêu hình cây trúc rất đẹp,
sinh động như nghiêng trong gió. Lại nghe nói canh phù dung hạt sen Thê Thê hầm
cho tướng quân là loại sen thượng hạng, món canh hầm tỏa hương thơm phức.
Lại nghe nói, mặc dù Thê
Thê không nói được, nhưng luôn làm cho tướng quân vui lòng.
Tống Ngưng thầm nghĩ,
Liễu Thê Thê nên là vợ của Thẩm Ngạn, mình xen vào nhân duyên của họ, tất trở
thành người thừa, quả thật không nên so đo với cô ta. Sau ngày thành hôn, ngoài
lần giáp mặt đêm tân hôn, Thẩm Ngạn hầu như không xuất hiện trước mặt cô. Có
thể thấy chàng là người rất mực chung tình, quả đáng khâm phục. Cô nghĩ, mình
yêu chàng, nhưng sự thể đã vậy, đành biến tình yêu thành niềm ngưỡng mộ mà
thôi. Bởi chỉ có ngưỡng mộ mới không thấy tủi thân, chỉ có ngưỡng mộ mới không
còn tham vọng.
Cô thường nghe nói Liễu
Thê Thê thế này, Liễu Thê Thê thế kia.
Mặc dù đã suy nghĩ thông
suốt, cố gắng tự an ủi “mình yêu chàng, chẳng liên quan đến chàng” nhưng thâm
tâm vẫn muốn gặp mặt Liễu Thê Thê. Tuy nhiên, có những việc không phải cứ muốn
là được. Ngay đến hoàng đế cũng không thể muốn có con trai là lập tức có ngay.
Sinh con trai, con gái
hay sinh ra một kẻ ngu đần, dường như đã là số mệnh. Bao gồm cả Tống Ngưng chưa
bao giờ có thói quen tản bộ vào mỗi buổi chiều, đột nhiên một chiều nọ lại ra
tản bộ sau hoa viên. Thế là hôm đó trong hoa viên có chim hót, hoa nở, có liễu
rủ ven hồ, thế là bất ngờ gặp Liễu Thê Thê như lời gia nhân đồn đại.
Mọi sự đều có nguyên do,
khi Tống Ngưng nhặt được miếng ngọc bội trong hoa viên, miếng ngọc bội được
viền vàng, rất hoàn hảo, ở giữa còn có một vết nứt khá rõ. Cô nhặt miếng ngọc
bội, soi rất lâu dưới ánh mặt trời. Nhận ra đó chính là miếng ngọc bội cô đã bẻ
đôi đưa cho Tống Ngưng vào dịp đông hàn năm ngoái, hai nửa đó đã được ghép lại,
được viền bằng vàng. Bỗng một cô gái vội vã đi tới, một tay chỉ miếng ngọc bội,
một tay chỉ vào ngực mình. Tống Ngưng ngẩng đầu, sau khi nhìn rõ mặt Tống
Ngưng, sắc mặt cô gái đột nhiên trắng bệch. Tống Ngưng thầm nghĩ, mình đã từng
gặp cô ta ở đâu. Trong làn gió nhẹ thoảng mùi thuốc thơm dịu, mùi thuốc này
khiến cô chợt nhớ tới y quán nhỏ phía sau núi tuyết. Tống Ngưng cầm miếng ngọc
bội, mỉm cười hỏi cô gái: “Cô cũng ở đây ư? Quả nhiên Thẩm Ngạn không phải là
người vong ân bội nghĩa, ông cô đâu rồi?”.
Cô gái run lập cập, quay
người định bỏ đi. Tống Ngưng chau mày, nắm tay kéo cô lại: “Tôi đáng sợ lắm ư?
Tại sao cô lại sợ như vậy?”.
Cô gái cố vùng ra, lùi
lại phía sau, đột nhiên sau lưng có tiếng Thẩm Ngạn: “Thê Thê”.
Thê Thê. Cô kinh ngạc, cô
gái trong tay cô đã bị Thẩm Ngạn giằng mất. Chàng đứng chắn trước cô ta, như
một cây cổ thụ cao ngất che chở cho thân leo yếu ớt bên cạnh, nét mặt cúi xuống
dịu dàng, vẻ âu yếm. Nhưng khi ngẩng đầu nhìn Tống Ngưng, khuôn mặt lại như
băng giá, chàng hỏi sẵng: “Cô làm gì ở đây?”.
Cô không trả lời câu hỏi
của chàng, nhìn cô gái Thẩm Ngạn ôm trong lòng: “Thê Thê, cô chính là Thê
Thê?”. Cô gái không dám ngẩng đầu.
Thẩm Ngạn cau mày, ánh
mắt dừng lại trên tay Tống Ngưng, lát sau lạnh lùng hỏi: “Miếng ngọc bội của
Thê Thê, tại sao cô lại có?”.
Cô sững người, kinh ngạc
nhìn chàng: “Của Thê Thê? Cái gì của Thê Thê? Sao lại của Thê Thê?”. Cô bước
lên, chìa miếng ngọc bội trước mặt chàng: “Chàng không đọc lá thư tôi gửi ư?
Chàng đã quên đó là tín vật tôi trao cho chàng sao? Chàng đã quên ở trong hang
núi gần cánh đồng Thương Lộc, chúng ta đã...”.
Cô đang định nói tiếp,
Liễu Thê Thê bất chợt nắm tay áo chàng lắc đầu. Mắt chàng đột nhiên lóe sáng,
ngắt lời Tống Ngưng: “Trận chiến ở cánh đồng hoang Thương Lộc, năm vạn quân
Khương đã phải bỏ mạng dưới lưỡi đao của quân Lê các người, mặc dù hai nước
Khương, Lê đã có hòa ước, nhưng mối thù đó, ta mãi mãi không quên”.
Chàng cười khẩy: “Trong
hang núi tuyết gần Thương Lộc nếu không phải Thê Thê đã cứu ta thì Thẩm Ngạn
hôm nay chỉ còn là một hồn ma lang thang trên chiến trường, sao có thể lấy công
chúa Tống Ngưng của nước Lê các người?”.
Liễu Thê Thê vẫn lắc đầu,
nắm tay Thẩm Ngạn, nước mắt tuôn như suối, ướt đầm hai má, làm loang lớp phấn
hồng trên mặt.
Tống Ngưng không tin vào
tai mình, cô hét to: “Sao có thể là cô ta cứu chàng? Người cứu chàng... rõ ràng
là tôi”. Cô tưởng mình nói rõ ràng, chàng sẽ hiểu ra, thực ra cô đã đánh giá
quá cao khả năng lí giải của chàng. Vì lẽ đời thường không như vậy, không phải
cứ nói là người khác sẽ nghe ra.
Thẩm Ngạn nhìn vào mắt
Tống Ngưng, giọng giễu cợt: “Cô nói vớ vẩn gì thế? Cô đã cứu tôi? Tống Ngưng,
tôi chưa từng nghe nói là cô am hiểu y thuật, người cứu tôi có y thuật rất cao,
cô ấy không biết nói, đó chính là Thê Thê. Cô tưởng rằng Thê Thê không nói được
là tôi sẽ tin những lời bịa đặt của cô, giá họa cho cô ấy ư?”.
Tống Ngưng không biết làm
gì để chứng minh, bởi vì ban đầu khi cô cứu được chàng hoàn toàn là do ông trời
đoái thương. Vậy mà hôm nay, rõ ràng ông trời đã đổi ý, chuyển sang thương Liễu
Thê Thê.
Cô nghĩ, chàng chưa đọc
lá thư đó, lá thư thực ra được đưa tới đâu, cô đã biết, bây giờ nhắc lại chuyện
này cũng chẳng ích gì, chỉ thấy tủi thân, cho dù Thẩm Ngạn không yêu cô, nhưng
chuyện này, cô vẫn phải nói rõ với chàng, khổ nỗi bây giờ cô nói gì chàng cũng
không tin, cô đã rất cố gắng nhưng Thẩm Ngạn không cho cô cơ hội. Đúng là một
người cố chấp, cố chấp đến bực mình.
Cô không giải thích thêm
nữa. Ánh mắt chàng nhìn cô hoàn toàn băng giá. Lúc đầu Tống Ngưng rất buồn,
nhưng không khóc được, đêm đêm cô thường ôm chăn, ngồi đến sáng. Trong những đêm
dài, cô thường hồi nhớ lúc chàng đặt tay lên vai cô, dịu dàng nói: “Nếu cô
nương không chê, đợi tại hạ khỏi bệnh, sẽ đến quý gia cầu hôn cô nương”. Đó là
hồi ức đẹp đẽ duy nhất. Bề ngoài cô có vẻ cương nghị, nhưng chung quy vẫn là nữ
nhi, nữ nhi càng cương nghị càng muốn được trân trọng, quá cương dễ gẫy chính
là như vậy.
Chỉ không ngờ, thành hôn
chưa được ba tháng, Thẩm Ngạn đã nạp thiếp.
Chuyện này cũng không có
gì lạ, một phong tục hết sức bình thường, thậm chí đàn ông không nạp nhiều
thiếp còn bị coi thường, cũng như các đế vương, quan lại đều thê thiếp bầy đàn.
Người này lấy, người kia cũng phải lấy, không lấy không được. Quân Vỹ thích
nghiên cứu chuyện hậu cung các hoàng đế đã phân tích như vậy, cho rằng hoàng đế
lấy thêm thiếp chủ yếu vì hoàng hậu là quốc mẫu, mẫu nghi thiên hạ, là hóa thân
của vạn vạn thần dân.
Thử nghĩ, khi chăn gối
cùng quốc mẫu, nhìn khuôn mặt từ bi của bà, lòng rối loạn, ngay cả lúc trên
giường cũng gợi nhớ chính sự, làm sao chịu nổi, đành phải nạp thiếp.
Nhưng rút cục thế nào,
làm sao chúng ta biết được, có lẽ là do đàn ông ham nữ sắc nên mới không ngừng
nạp thiếp.
Có điều Thẩm Ngạn nạp
người thiếp này là vì cái gọi là tình yêu, hơn nữa lại là chuyện duy nhất khiến
người ta không thể chịu được. Người đầu tiên không thể chịu được chính là Tống
Ngưng.
Tống Ngưng nhờ một vị
thân vương của Lê Trang Công ngăn chặn chuyện này. Cô ngồi trong một ngôi thủy
đình giữa hồ sen, đầy gió và nắng, ven hồ có những cây to không rõ tên, một màu
xanh mát quen thuộc, như trong tranh. Thẩm Ngạn đứng trước mặt cô, đó là lần
gặp mặt thứ ba sau hôn lễ, chàng cau mày cúi nhìn Tống Ngưng hỏi: “Cố tình phá
hôn sự của tôi với Thê Thê, rốt cuộc cô muốn gì?”.
Cô đặt cuốn sách trên tay
xuống, ngước nhìn chàng, một Tống Ngưng từng luôn mỉm cười trên sa trường ác
liệt, giọng nói trầm trầm, hai má ẩn hiện lúm đồng tiền mê hồn: “Tôi muốn gì ư?
Câu hỏi khéo thật, tôi chẳng muốn gì hết, chỉ là có một vài thứ Liễu Thê Thê
không xứng đáng có”.
Chàng lạnh lùng: “Cô
không chịu nổi Thê Thê, còn tôi không chịu nổi cô”.
Lúm đồng tiền trên má
Tống Ngưng càng sâu: “Thẩm Ngạn, chàng không thể không chấp nhận tôi, bởi hôn
ước của chúng ta là minh ước giữa hai nước Lê, Khương”.
Mặt chàng lộ vẻ phẫn nộ
cố nén: “Đêm tân hôn chúng ta đã giao ước, tôi và cô không liên quan đến nhau”.
Cô nhìn bàn tay mình,
giọng nói dửng dưng: “Thực ra vốn cũng chẳng có gì, chỉ là thấy hai người ân ái
như vậy, mà tôi được gả tới đây, cô đơn một mình, nên rất chạnh lòng”.
Chàng phẩy tay áo cười
khẩy: “Tống Ngưng, cô còn nhớ ban đầu ai đề nghị hôn sự này không?”.
Bóng chàng biến mất ở chỗ
rẽ, một lúc sau, cô cúi đầu giở cuốn sách trên tay, gió lại thổi, những giọt
nước mắt rơi trên sách, ướt nhòe con chữ. Cô giơ tay áo lau nước mắt, lại cúi
đầu đọc tiếp, như không có chuyện gì.
Không lâu sau, ở nước Hạ
cách Khương một con sông, quốc vương băng hà, công tử Trang Nghi lên ngôi. Hai
tháng sau, Hạ Trang Nghi tân đế nước Hạ xuất binh chinh phạt nước Khương.
Khương vương lệnh cho Thẩm Ngạn xuất chiến.
Tháng tư, cỏ héo hoa tàn,
trên bầu trời một vầng trăng hoang lạnh, Tống Ngưng ngồi tựa bên song, lặng
ngắm vầng trăng lùi dần phía cuối trời. Rút cục cô không thể để Thẩm Ngạn ra đi
bỏ mạng ở chiến trường, chàng không phải là đấng phu quân như ý, nhưng nửa năm
trước vừa gặp, cô đã thầm yêu chàng, chàng là vị anh hùng của lòng cô. Có những
người chưa từng trải, lãng mạn, yêu một lần là nhớ suốt trăm năm, đó chính là
Tống Ngưng.
Giờ Dần, cô lục trong hòm
lấy ra bộ chiến giáp mang theo khi xuất giá, tháo tấm bảo vệ trước ngực, váy lê
quét đất, một mình băng qua hoa viên đến thẳng Chỉ Lan Viện, nơi ở của Thẩm
Ngạn. Đám hầu nữ của Chỉ Lan Viện ấp úng hồi lâu, nói: “Tướng quân, tướng
quân... không ở trong phòng”.
Sắc mặt Tống Ngưng nhợt
nhạt: “Ở Hà Phong Viện ư?”.
Đám người hầu cúi gằm
không dám trả lời. Cô nhét tấm giáp bọc trong mảnh lụa vào tay một hầu nữ, nói:
“Chàng không có ở đây, vật này nhờ cô...”.
Chưa nói xong, đám người
hầu đột nhiên ngẩng đầu vui sướng: “Tướng quân!”.
Thẩm Ngạn bước vào cửa
viện, trời còn chưa sáng, những chiếc đèn lồng trong sân lờ mờ tỏa sáng, ánh
sáng vàng vọt bao trùm bóng chàng. Cô nghe thấy tiếng chàng, ở ngay sau lưng,
cứng nhắc: “Cô làm gì ở đây?”.
Cô quay lại, đứng sững ra
đó, nhìn chàng một hồi từ đầu đến chân, mỉm cười. Nụ cười chưa hiện lên mắt, đó
chỉ là thói quen của cô.
Cô đưa cho chàng bọc lụa
trong tay: “Không có gì, nghe nói chàng sắp xuất chinh, tôi đến đưa chàng tấm
giáp bảo vệ bằng đá Thanh Tùng, chắc chắn hơn nhiều so với tấm giáp thông
thường, nó đã không ít lần cứu tôi thoát chết. Bây giờ tôi không ra trận nữa,
phiền chàng mang theo ra chiến trường dùng khi cần thiết”.
Chàng khẽ nhíu mày, nhìn
cô, lúc sau nói: “Nghe nói, tấm giáp này là báu vật huynh trưởng tặng cô”.
Cô ngước mắt, nụ cười
thoáng hiện: “Ồ, chàng cũng biết? Nói là báu vật bởi vì nó có thể bảo vệ được
tính mạng, không bảo vệ được cũng chẳng là gì. Cho chàng mượn không phải có ý
để chàng nợ nần gì tôi. Chàng nói đúng, chúng ta vốn chẳng liên quan đến nhau,
nhưng danh phận đã định, nếu chàng chết nơi chiến trường, đại gia đình trong
Thẩm phủ này sẽ do tôi gánh vác, thực là vất vả, trách nhiệm của ai do người đó
gánh, chàng thấy có đúng không?”.
Chàng ngắm kỹ tấm giáp
màu ngọc bích trong tay, giống như màu xanh của thảm lá sen đang trải trước
mắt. Cô gật đầu định đi, chàng kéo lại: “Cô có thể tái giá”.
Cô nhìn bàn tay nắm ống
tay áo mình, ánh mắt nhích lên, dừng lại ở hình cây trúc thêu sống động như
nghiêng trong gió trên vạt áo chàng, cười tươi như hoa: “Sao cơ?”.
Chàng buông tay áo cô
nói: “Nếu tôi chết cô có thể tái giá”.
Cô cúi đầu, trầm tư, lúc
sau nói: “À, đúng”.
Cô ngẩng đầu, hai lúm
đồng tiền mê hồn lại hiện trên má: “Vậy chàng nên chết ngoài chiến trường, đừng
trở về nữa, mãi mãi không nên trở về nữa”.
Đám người hầu đứng bên sợ
run, nhưng cô lại mỉm cười, ánh mắt lạnh lùng. Đúng là không thể đoán được tâm
tư đàn bà, đoán già đoán non, cuối cùng cũng không đoán ra.
Trên đời có kiểu đàn bà
không câu nói nào khiến người khác bận tâm, cũng có kiểu đàn bà mỗi câu nói đều
khiến người ta không thể không suy nghĩ.
Cô đi vội vã, cuối cùng
để lại cho chàng một hình bóng đoan trang, duyên dáng, cũng đầy ngạo mạn thách
thức. Chàng nắm chặt tấm giáp màu ngọc, nhìn mãi về phía bóng người vừa khuất,
ánh mắt thâm trầm.
Thẩm Ngưng ra đi đã hai
tháng.
Tháng tám, hương quế ngào
ngạt, tin vui từ Hà Phong Viện truyền ra, Thê Thê cô nương đã có thai, lão
tướng quân và phu nhân vui mừng khôn xiết. Liễu Thê Thê có thể coi là khách của
Thẩm phủ, khách trong nhà có thai, cũng là hạt giống nhà mình, điều này cũng
phải thôi, nhưng khách lại có thai ngay trước mặt con dâu danh chín ngôn thuận,
thực tình cũng khiến lão tướng quân và phu nhân khó xử. Lúc Tống Ngưng đến
thỉnh an, lão phu nhân mới ướm một câu: “Rút cục để cho cốt nhục họ Thẩm lưu
lạc bên ngoài cũng không hay gì”. Tống Ngưng mỉm cười gật đầu: “Mẹ nói phải”.
Cuối tháng, hoa quế nở
tràn lan trên núi Cù ở ngoại thành, Tống Ngưng nhìn về ngọn núi phía xa, nói
với người hầu đem theo khi rời cố quốc: “Hãy mời Thê Thê cô nương ngày mai lên
núi Cù thưởng ngoạn hoa quế”. Người hầu gửi thiệp tới Hà Phong Viện, Liễu Thê
Thê nhận lời.
Ngày hôm sau, Tống Ngưng
hành lý đơn giản, chỉ mang theo một người hầu. Người hầu một tay xách chiếc làn
đựng ít đồ điểm tâm, một tay khoác bọc hành lý. Trái với Tống Ngưng, Liễu Thê
Thê long trọng hơn nhiều, ngồi trên kiệu bốn người khiêng, lại thêm hai vú già,
bốn hầu nữ.
Tống Ngưng cười: “Đi ngắm
hoa lại mang theo nhiều người như vậy, thật mất hứng”.
Vú già cười nói: “Có lẽ
phu nhân không biết, tướng quân vừa rồi có thư về, dặn dò chúng nô tỳ chăm sóc
chu đáo Thê Thê cô nương, giờ Thê Thê cô nương đã mang cốt nhục của tướng quân,
chúng nô tỳ không dám sơ suất”.
Tống Ngưng phe phẩy chiếc
quạt, không nói gì. Người hầu của cô cười khẩy: “Nghe vú già nói vậy, không
được sơ suất đối với Thê Thê cô nương, nghĩa là có thể sơ suất đối với công
chúa của chúng tôi ư. Nói câu này hơi khó nghe, nhưng ở nước Lê chúng tôi, khi
công chúa đứng thì kẻ dưới không dám ngồi, khi công chúa ngồi, kẻ dưới nếu chưa
được công chúa cho phép vẫn phải quỳ. Đến nước Khương các vị thì ngược lại.
Công chúa bộ hành lên núi ngắm hoa, vậy mà cô nương nhà các ngươi lại ngồi
kiệu, phải chăng lễ nghĩa của nước Khương là như vậy?”.
Vú già nghe thế, quỳ sụp
xuống đất, tự tát vào mặt mình.
Rèm kiệu vén lên, Liễu
Thê Thê bước xuống đỡ vú già, đôi tay có mùi thuốc thoang thoảng giơ lên làm
những động tác rất duyên dáng, đẹp mắt, vú già lo lắng giải thích: “Cô nương
nói cô không ngồi kiệu nữa, vừa rồi là cô không hiểu lễ nghĩa, cô ấy sẽ đi bộ
theo hầu phu nhân”.
Ngọn núi Cù cao sừng
sững, đi suốt một ngày vất vả, một người mang thai đâu dễ kham nổi. Đêm đó về
phủ, Liễu Thê Thê liên tục ra máu. Sáng hôm sau, có tin nói Liễu Thê Thê bị sảy
thai. Người hầu của Tống Ngưng lo lắng: “Nếu tướng quân nổi giận thì làm thế
nào”. Tống Ngưng ngồi đọc sách bên cửa sổ, hoa quế trong vườn nở rộ, hương quế
ngào ngạt trong gió. Liễu Thê Thê bị sảy thai, suy cho cùng là do Tống Ngưng,
nhưng đứa trẻ đó không danh chính ngôn thuận nên lão tướng quân và phu nhân mặc
dù có thương xót cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ có thể bù đắp vật chất cho
Thê Thê, nhân sâm, yến sào, hạt sen... mọi thứ quý bổ đều sai người mang tới Hà
Phong viện.
Chỉ có Liễu Thê Thê vẫn
khóc ròng, không ăn uống gì. Để khỏi lãng phí đành phải để vú già, người hầu ăn
giúp, kết quả là trong thời gian ngắn, ngoài Liễu Thê Thê vẫn giữ được thân
hình thon thả, tất cả kẻ ăn người ở của Hà Phong viện đều béo tốt trông thấy,
ngay cả hai con chim sẻ làm tổ trên hốc cửa đình viện cũng béo mẫm vì được
hưởng lộc thừa.
Thời gian này, Tống Ngưng
cáo bệnh, chỉ ở trong phòng rất ít ra ngoài, không gặp gỡ ai.
Cuối cùng có một người cô
không thể không gặp. Đó là chòm sao ma quỷ trong số mệnh của cô. Cô đã vì chàng
cởi bỏ chiến giáp, cài hoa, khoác áo đỏ tân nương, trái tim dịu dàng ăm ắp yêu
thương vượt đường trường vạn dặm theo chàng, vậy mà chàng không để mắt đến cô.
Tháng chín, tin thắng
trận truyền về kinh đô, Thẩm Ngạn khải hoàn dẫn quân trở về triều.
Tống Ngưng ngồi bên hồ
thả mồi cho cá, nghĩ ngợi một hồi, ngẩng đầu hỏi hầu nữ: “Chàng đã trở về,
ngươi nói xem, liệu chàng có giết ta?”.
Cốc trà trên tay hầu nữ
rơi xuống đất.
Tống Ngưng cười: “Thân
thủ của ta không bằng chàng, nhưng cũng không dễ để chàng lấy mạng, cùng lắm
đánh một trận, ngươi khỏi lo”.
Hầu nữ quỳ trước mặt: “Ở
đây công chúa sống chẳng vui vẻ gì, nô tỳ cũng thấy người không vui. Sao chúng
ta không trở về nước Lê? Công chúa, chúng ta về nước thôi”.
Tống Ngưng nhìn đàn cá
đớp mồi dưới hồ sen, nói: “Đây là hôn sự giữa hai nước, ngươi tưởng muốn đi là
đi được hay sao?”.
Mọi sự không thể cứu vãn
đều bắt đầu từ đêm đó. Tôi nói như vậy là bởi vì tôi nhìn thấy tất cả, nhìn
thấy tính mạng Tống Ngưng bắt đầu từ đêm đó nhích dần đến cái chết. Đẩy cô tới
cõi chết chính là tình yêu của cô và bàn tay Thẩm Ngạn. Chàng lao đến như mang
theo mưa gió, trên mình vẫn mặc bộ chiến bào màu bạc, giống như lần đầu họ gặp
nhau, nhưng trong mắt chàng bừng bừng lửa giận, như một vị Tu La đến từ địa
ngục.
Cuối cùng, cô không địch
được chàng, chưa đầy hai chiêu, kiếm của chàng đã chẹn dưới họng cô. Cô vội
vàng dùng tay nắm thanh kiếm, lưỡi kiếm vừa nhích, lướt qua năm ngón tay cô,
sâu tới tận xương. Chắc chắn rất đau nhưng cô không để ý, chỉ nhìn xuống tay
mình: “Chàng thực sự muốn giết tôi ư?”.
Giọng chàng lạnh lùng:
“Tống Ngưng, cái thứ dính trên tay cô là tính mệnh con trai tôi. Cô ép Thê Thê
lên núi, cô không nghĩ sẽ giết chết nó?”.
Cô ngẩng phắt đầu, lông
mày giãn ra, tiếng rất nhỏ nhẹ: “Đó không phải là lỗi của tôi, tôi chưa từng
sinh con làm sao biết được người có thai lại có thể xảy ra chuyện đó, leo núi
là có thể bị sẩy thai. Chàng không có duyên với đứa bé đó lại đổ lỗi lên đầu
tôi, Thẩm Ngạn, chàng làm vậy có phải quá vô lý không?”.
Cô nói ra những lời đó
không phải là lời lòng cô muốn nói, chỉ là do bị chàng kích nộ. Cô nhìn khuôn
mặt rắn đanh của chàng cảm thấy buồn cười, liền bật cười thành tiếng: “Thẩm
Ngạn, chàng biết đấy, ngoài tôi ra, không ai đủ tư cách sinh đích tôn cho nhà
họ Thẩm”. Cô nghĩ, tình yêu của mình gần như sắp chết, ngày trước cô nhìn Thẩm
Ngạn, chỉ mong mọi việc với chàng đều suôn sẻ. Bây giờ, lúc nào cũng muốn chàng
không vui. Nhưng chàng không vui, cô cũng không thấy vui, giống như con dao hai
lưỡi, làm tổn thương người khác, cũng làm tổn thương chính mình.
Câu nói vui của cô lại
khiến chàng kích động. Cô nhìn thấy cơn sóng phẫn nộ trong mắt chàng. Cô cảm
thấy thanh kiếm của chàng sắp xuyên qua tay đâm vào họng mình. Nhưng phán đoán
của cô đã sai. Thanh kiếm của Thẩm Ngạn không tiến thêm một phân nào nữa, mà
rút khỏi tay cô, dính một vệt máu tươi, đầu thanh kiếm áp vào ngực áo cô, khẽ
hất, những chiếc khuy đứt tung.
Phu quân của cô đang đứng
trước mặt cô, dùng một thanh kiếm nhuốm máu hất toạc áo ngoài của cô, sóng hận
trong mắt biến thành nụ cười khẩy lạnh lùng trên môi, giọng nói giễu cợt ghê
người: “Tống Ngưng, tôi chưa gặp người đàn bà nào độc ác như cô”.
Lần động phòng chậm đúng
chín tháng.
Cô vùng vẫy giãy giụa,
nếu đối phương là một nho sinh, cô không những có thể vùng ra được mà còn đánh
cho gã một trận. Nhưng đây lại là một tướng quân, võ nghệ vào bậc nhất nước Lê,
lại có sở trường đánh giáp lá cà, cô đành bó tay.
Bức bình phong trước
giường vẽ một đầm nước, trên có vầng trăng lạnh dưới có mấy con vịt trời giỡn
nước. Cô lạnh run người, hai tay ôm chặt lưng Thẩm Ngạn. Máu rỉ ra từ vết
thương trên ngón tay, nhuộm đỏ một vùng da màu kiều mạch trên lưng chàng, giống
như đóa hoa hồng nở trên kẽ đá trên cánh đồng hoang. Cuối cùng cô không thể giả
bộ cười được nữa, nước mắt chảy dài xuống má. Tiếng cô bên tai chàng giống như
tiếng rên của con thú nhỏ.
Từ nhỏ cô đã mồ côi cha
mẹ, lớn lên nơi chiến trường, đại huynh cũng không có thời gian chăm sóc cô,
ngã thì tự đứng dậy, đau quá thì dùng bàn tay nhỏ tự xoa vết thương, Tống Ngưng
trên chiến trường luôn mỉm cười, bởi vì cô hiểu, không nên để đại huynh lo
lắng, lâu dần thành quen, không biết khóc bao giờ.
Trong cuộc đời, đó là lần
đầu tiên cô bật khóc, bản thân cô cảm thấy hoảng loạn bởi cô thực sự thấy đau,
đau đến tận tim, mà không giống như hồi bé, xoa vài cái là hết. Cô nặng nề thở
dốc, mũi đỏ ửng, không còn vẻ oai phong như trước, cũng không thể can trường
như trước.
Cô mới mười bảy tuổi.
Giọng cô suy sụp, van nài: “Thẩm Ngạn, chàng ghét tôi như vậy, chàng ghét tôi
như vậy. Thẩm Ngạn, buông tôi ra, xin chàng buông tôi ra”.
Nhưng tiếng chàng vẫn ở
bên tai cô: “Nỗi đau của cô có bằng nỗi đau mất cốt nhục của tôi không? Tống
Ngưng cô muốn gì, tôi sẽ cho cô, chỉ cần chúng ta từ nay rõ ràng, cô có biết rõ
ràng là thế nào không?”.
Trong không khí toàn mùi
máu, tôi không ngửi thấy, nhưng có thể nhìn thấy.
Móng tay cô ấn sâu vào
lưng chàng, cô không khóc được nữa, giọng nói tắc nghẹn bay lên không, thê
lương như lá mùa thu: “Thẩm Ngạn, chàng đối với tôi như vậy, chàng là kẻ vô
tâm”.
Bàn tay phải Tống Ngưng
trở nên tàn phế trong đêm đó, vốn là bàn tay cầm thương, tung ra bảy bảy bốn
mươi chín chiêu thương pháp, duyên dáng đẹp như múa, khiến thiên hạ trầm trồ.
Thanh kiếm đã làm bàn tay ấy bị thương, làm trái tim cô bị thương, đã hủy diệt
tất cả nhiệt thành của cô đối với Thẩm Ngạn.
Cô tỉnh dậy, Thẩm Ngạn
nằm bên cạnh cô, mắt cô lờ mờ nhận ra khuôn mặt tuấn tú, cặp lông mày hơi chau.
Cô nghĩ đó là người cô từng yêu, trong mênh mông biển người cô lại chọn đúng
chàng. Thanh kiếm của chàng rơi dưới đất, bàn tay phải của cô cũng không cầm
lên được, cô nghiêng người, dùng tay trái lần tìm thanh đoản kiếm nặng gần bốn
chục cân, làm kinh động chàng, ngay lúc chàng vừa mở mắt, cô nắm chắc chuôi
kiếm đâm mạnh vào sườn chàng một nhát. Chàng rên một tiếng, nhìn thấy một giọt
nước trào ra từ khóe mắt cô, lăn xuống, để lại một vệt dài trên má.
Ngày trước, cô đã tìm
chàng giữa hàng ngàn thi thể, cô đã cõng chàng vượt qua núi tuyết đi tìm lang
y. Cô thức trắng ba ngày ba đêm, nhưng đều là quá khứ. Đã là quá khứ thì không
nên nhắc lại. Cô nghiêng đầu nhìn chàng, cuối cùng hiện ra vẻ thơ ngây thiếu
nữ, mặt đầy ngấn nước, nhưng môi lại nhếch lên nói ra những câu tuyệt tình:
“Thẩm Ngạn, tại sao chàng còn trở về, sao chàng không chết ở chiến trường?”.
Chàng nắm chặt bàn tay
trái cầm kiếm của cô, đột nhiên kéo mạnh cô vào lòng, thanh đoản kiếm sắc đâm
càng sâu. Máu trào ra từ miệng, tiếng chàng lạnh lùng lại vang bên tai: “Đây
chính là điều cô muốn? Cô muốn tôi phải chết?”.
Tống Ngưng kể lại với tôi
chuyện đêm hôm đó, đã nhiều năm, trên cặp mày nhàn nhạt dường như vẫn hằn nỗi
đau khổ, dường như không thể nhớ lại. Cô không biết, thực ra tôi đã nhìn thấy
tất cả, đó nhất định là một đêm ma mộng. Mặc dù thực ra tôi không hiểu lắm ma
mộng là gì, đó là một từ thường thấy trong tiểu thuyết của Quân Vỹ. Đại khái là
từ viết tắt của giấc mộng ma quái gì đó.
Khung cảnh cuối cùng của
hôm đó là một đêm tối mịt mùng, mưa thu tí tách, hoa nguyệt quế lặng lẽ tỏa
hương trong mưa.
Thẩm Ngạn không chết,
nhát kiếm đó mặc dù đâm khá sâu, đáng tiếc là không trúng chỗ hiểm, đại phu nói
chỉ cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, chưa đầy ba tháng sẽ bình phục như thường.
Nhưng hai tháng sau, Tống
Ngưng có tin vui. Liễu Thê Thê thu dọn quần áo, nửa đêm lặng lẽ rời Thẩm phủ.
Ngày hôm sau hay tin, Thẩm Ngạn dù thân đang mang vết thương nặng cũng đi tìm
khắp nơi, sau khi tìm được, đưa Liễu Thê Thê đến sống ở một biệt viện, bản thân
chàng cũng rời khỏi Thẩm phủ, chuyển đến biệt viện sống cùng Liễu Thê Thê,
không coi Thẩm phủ là nhà nữa.
Tháng sáu năm sau, Tống
Ngưng sinh hạ một bé trai.
Thẩm Ngạn đưa tay đón đứa
trẻ, giọng dửng dưng: “Cô hận tôi?”.
Chàng nhìn bức bình phong
trước giường: “Tôi tưởng cô không muốn sinh nó ra”.
Tống Ngưng nằm sau bức
bình phong, cơ thể rất yếu, vẫn hít một hơi dài, khẽ cười: “Sao lại không sinh,
đó là đích tôn nhà họ Thẩm. Sau này khi chàng chết đi, nó sẽ nối nghiệp nhà họ
Thẩm”.
Trong mắt chàng lóe ra
tia lạnh, trao đứa bé cho vú già bên cạnh, phảy tay áo bỏ đi. Đứa bé oa oa khóc
sau lưng, chàng dừng lại ở cửa nói: “Tống Ngưng, thiên hạ có người đàn bà nào
một lòng mong chồng chết ở chiến trường?”.
Giọng Tống Ngưng yếu ớt
vượt qua mấy bức rèm: “Sao?”.
Thấm thoát đã bốn năm,
thời gian không quay trở lại, hai nước Khương, Lê lại gây chiến, chiến tranh
liên miên. Nhưng chuyện đó chẳng có gì quan trọng đối với vụ trao đổi của tôi,
quan trọng là Liễu Thê Thê lại sinh cho họ Thẩm một sinh mạng mới, một bé gái.
Chuyện này khiến cả biệt viện buồn bã trong một thời gian dài.
Vì tôi đứng về phía Tống
Ngưng, bất giác nghĩ Liễu Thê Thê buồn bã như vậy là do chỉ sinh được con gái,
tài sản được chia sẽ không nhiều. Nhưng cũng chỉ đoán vậy thôi, rất có thể
người ta buồn tiếc vì không sinh được con trai cho Thẩm Ngạn.
Vú già trong biệt viện lại
động viên Liễu Thê Thê, rằng đối với Thẩm Ngạn chỉ cần cô sinh hạ bé gái, mẹ
tròn con vuông là tốt rồi, vả lại không dễ dàng có được đứa bé này, động viên
mãi cô mới nguôi nguôi, đồng thời sự yêu chiều của Thẩm Ngạn đối với đứa bé
cũng kịp thời bù đắp an ủi cho cô.
Tôi bất giác lại nghĩ,
Liễu Thê Thê có thể nhanh chóng chuyển buồn thành vui như vậy, có lẽ là do Thẩm
Ngạn đã lặng lẽ chia lại tài sản, cho cô ta số tiền lớn. Nếu Quân Vỹ có ở đây
thấy tôi nghĩ vậy, nhất định sẽ bảo tôi có tâm hồn đen tối, suy diễn sự việc
theo hướng xấu. Nhưng tôi nghĩ, nếu chuyện đó xảy ra thật mà tôi vẫn còn suy
nghĩ theo hướng trong sáng, thì e là tôi đã trở thành thánh mẫu rồi.
Con trai Tống Ngưng càng
lớn càng giống mẹ, được đặt tên là Thẩm Lạc.
Thẩm Lạc hai má cũng có lúm
đồng tiền mờ mờ, ba tuổi đã học thuộc những câu rất cao thâm trong sách. Nếu
gặp chữ khó, không đọc được cũng nhất định không muốn người khác nhắc, chỉ ngồi
yên, chống hai bàn tay bụ bẫm dưới cằm, trầm ngâm cố nhớ lại.
Mùa đông, mặc áo bông
dày, cử động khó khăn, nhưng tính bướng bỉnh, nó nhất định không chịu thay đổi
tạo hình, cố chống tay vào cằm, nhưng được cái nọ lại mất cái kia, mấy lần ngã
nhào từ trên ghế, đau cũng không khóc, chỉ lấy tay xoa xoa, lại đứng dậy. Điểm
này giống hệt Tống Ngưng.
Thẩm Lạc thông minh lanh
lợi, nhưng lại không nhận ra cha ruột, mỗi lần nhìn thấy Thẩm Ngạn, nó đều gọi
bằng chú, không gọi cha. Chứng tỏ nó rất ít cơ hội gặp Thẩm Ngạn, nghĩa là mẹ
nó và Thẩm Ngạn cũng rất ít gặp nhau. Nhưng một đứa trẻ thông minh, mới hai tuổi
đã biết đọc những chữ rất phức tạp, thật sự không thể biết nó không nhận ra
Thẩm Ngạn hay chỉ tỏ ra như thế. Nhưng một đứa trẻ đáng yêu như vậy không ngờ
lại chết yểu.
Chuyện xảy ra rất sớm,
vào một ngày đông lúc Thẩm Lạc bốn tuổi.
Hôm đó, Thẩm Ngạn đưa đứa
con gái đến Thẩm phủ thăm lão tướng quân và lão phu nhân, cô con gái nhỏ trốn
người hầu, một mình vào chơi ở hoa viên thì gặp Thẩm Lạc. Hai đứa trẻ không
biết tại sao cãi nhau, giằng co, cả hai không may ngã xuống hồ sen. Lúc cứu lên
bờ, cũng chưa việc gì, nhưng vì Thẩm Lạc đang mắc thương hàn, bị nhiễm nước
lạnh, khiến bệnh lại càng nặng, sốt cao mấy ngày liền, đến ngày thứ ba, trời
còn chưa sáng, đôi mắt to khép lại trên khuôn mặt đỏ ửng vì sốt, phút chốc Thẩm
Lạc đã ra đi.
Sự việc khiến Tống Ngưng
gục hẳn.
Tôi nhìn thấy một vầng
mặt trời mùa đông từ từ nhô lên phía cuối Nhạc thành, thân thể bé nhỏ của Thẩm
Lạc nằm trong lòng Tống Ngưng, sắc mặt vẫn hồng hào như đang ngủ. Cô ôm con
ngồi trên bậc cửa hoa đình, rèm bốn phía cuốn cao, ánh mặt trời vàng vọt chiếu
lên người Thẩm Lạc. Cô nâng thằng bé lên cao gọi: “Con trai, mặt trời lên rồi,
chẳng phải con đã nói nửa tháng nay không thấy mặt trời, cái chăn của con đã
sắp mốc rồi sao? Hôm nay, cuối cùng đã có mặt trời, mau nào, mang chăn của con
ra phơi đi”.
Nhưng Thẩm Lạc không tỉnh
dậy được nữa. Nước mắt giàn giụa chảy trên má Tống Ngưng, rơi xuống đôi mắt
nhắm nghiền của đứa con, giống như nó đang còn sống, nhìn thấy mẹ đau khổ, nó
cũng trào nước mắt.
Thẩm Ngạn cùng tùy tùng
xuất hiện trong hoa viên, Tống Ngưng tay nắm thanh kiếm đi ra khỏi hoa đình,
thanh kiếm sắc sáng loáng càng tôn chiếc váy dài màu bạc lóng lánh, khuôn mặt
vẫn giữ nụ cười không biểu cảm, như đóa sen hồng nở trên nền tuyết lạnh. Một cô
gái đẹp như vậy!
Thanh kiếm lao vút về
phía Thẩm Ngạn, tiếng xé gió làm rung cả cánh hoa. Cô đoán được vị trí chàng sẽ
né tránh. Nhát kiếm này vung lên sẽ kết thúc mọi ân oán tình thù giữa hai
người, chỉ có điều, không ngờ chàng vẫn đứng yên, mắt trừng trừng nhìn thanh
kiếm lao tới.
Thanh kiếm bất lực, đành
đâm chệch sang bên, chàng loạng choạng hai bước rồi đứng lại, nắm bàn tay cầm
kiếm của cô: “A Ngưng”.
Cô ngẩng đầu nhìn chàng,
như không hề quen biết: “Tại sao con trai tôi chết rồi, mà các người vẫn còn
sống được, chàng và Liễu Thê Thê lại vẫn sống được”.
Suốt cả đời, tôi chưa
từng nghe một giọng nào bi thương đến vậy.
Thanh kiếm sượt qua ống
tay áo Thẩm Ngạn, thấm ra một vệt máu. Cô nhìn vết thương của chàng, muốn rút
tay khỏi tay chàng, nhưng không được, cuối cùng, máu ứ đọng bấy lâu trong tim
cô phun ra nhuộm đỏ chiếc áo trắng muốt của chàng. Chàng ôm chặt cô, còn cô
khụy xuống trong vòng tay chàng.
Từ đó Tống Ngưng đổ bệnh.
Mọi chuyện về sau diễn ra
như đã biết.
Câu chuyện là như vậy.
Tống Ngưng hôm nay ngồi trên chiếc giường mây trong thủy đình, sắc diện dửng
dưng, dường như mọi thứ trong mắt cô đều nhạt nhòa. Cô dùng một câu tổng kết
mọi chuyện trong bảy năm qua. “Quân Phất, yêu một người dễ dàng như vậy, hận
một người cũng dễ dàng như vậy”.
Tôi không dám dễ dàng
đồng lòng với cô, giống như tôi yêu Mộ Ngôn. Tôi yêu chàng quả thực không dễ
dàng. Nếu chàng không hai lần cứu mạng tôi, chúng tôi chỉ như khách qua đường.
Khoan nói tôi chủ động yêu chàng, dù chàng chủ động yêu tôi, tôi cũng không cho
chàng cơ hội.
Mà cho dù tôi yêu chàng,
cuộc đời này cũng không thể cho chàng cơ hội để chàng làm tổn thương tôi, để
tôi hận chàng. Đương nhiên, tất cả chuyện đó có thể xảy ra khi tôi là một người
sống. Mà đời này tôi đã chết, bây giờ đã là người chết, ý nghĩ dù kiên định
cũng chỉ là ý nghĩ mà thôi, lúc rỗi rãi nghĩ ngợi một chút, tự an ủi mình...
Thực ra, tôi thấy tất cả
bi kịch đều do Thẩm Ngạn quá chung tình. Nếu chàng không chung tình như vậy thì
hoàn toàn có thể có được sự hòa hợp viên mãn giữa ba người. Kết cục khiến người
sống, kẻ chết, thật tang thương.
Lúc sắp chia tay, Tống
Ngưng mệt mỏi nói: “Bây giờ nghĩ lại, từ đầu đến cuối, người tôi yêu e rằng chỉ
là một ảo ảnh trong lòng”.
Tôi gật đầu đồng tình.
Cô nhẹ nhàng nói: “Quân
Phất, cô có thể giúp tôi sống lại ảo ảnh đó không, trong mơ thôi?”.
Mặt trời lặn dần về tây,
dư quang ánh lên mặt hồ sen. Tôi gật đầu: “Cho tôi thời gian hai ngày, phu nhân
xem liệu có đủ để phu nhân lo liệu những việc còn lại trên trần thế. Hai ngày
sau, chúng ta vẫn hẹn gặp trên hồ này, tôi sẽ dệt cho phu nhân một giấc mộng”.