Vượt qua Bích sơn đi vào miền trung nước Trần.
Chúng tôi từ bỏ ý định đi
qua nước Khương, quyết định từ phía đông nước Trần vòng qua nước Triệu đến nước
Trịnh để đánh lạc hướng Mộ Nghi và toán hộ vệ áo đen, cuối cùng thành công.
Suốt dọc đường bôn ba như
vậy vốn rất mệt mỏi, nhưng do đi cùng Mộ Ngôn tôi chẳng thấy mệt chút nào.
Trong thâm tâm tôi còn mong hành trình dài hơn chút nữa, nhưng không có Tiểu
Hoàng vướng chân, nguyện vọng đó không dễ thực hiện, tôi cũng cố tình dềnh dàng
nhưng vẫn nhanh chóng đến biên giới hai nước Trịnh, Triệu.
Trăng treo giữa trời tỏa
sắc vàng óng ánh, chúng tôi tìm một lữ quán, ai về phòng nấy ngủ. Tôi nằm trên
giường vừa tính lộ trình đến thành Tứ Phương nước Trịnh, vừa âm thầm nhớ Tiểu
Hoàng, trong lòng hơi oán thán, tại sao họa hoằn mới có lần cần đến nó thì nó
lại không có mặt, đúng là một con hổ đáng ghét.
Sáng sớm hôm sau, rửa mặt
súc miệng xong xuôi, xuống lầu ăn sáng đã thấy Mộ Ngôn đợi ở phòng lớn lữ quán.
Chàng đã thay áo chùng gấm màu lam óng ánh, trong ánh sáng buổi sớm trong như
ngọc bích, toàn thân chàng như phủ màn khói lam mờ. Tôi dừng chân thầm nghĩ,
trên đời có lẽ không ai hợp với màu lam hơn chàng, ai dám mặc màu lam trước mặt
chàng là tự biến mình thành kệch cỡm.
Lại nghĩ, lần sau gặp
Quân Vỹ nhất định phải khuyên anh ta nên kiên trì màu trắng hiệp sỹ, không nên
thấy màu lam không dễ bắt bụi mà chuyển sang mặc màu lam. Ngắm nhìn lam y trên
người Mộ Ngôn, lại nhìn lam y trên người Quân Vỹ, e sẽ thấy ngay sự khác biệt.
Nghĩ xong đi tiếp xuống
lầu, nhân tiện chỉnh lại cái váy, ngẩng đầu nhìn thấy Mộ Ngôn vốn đang nghiêng
đầu nhìn ra cửa sổ, không biết từ lúc nào đã chuyển sang nhìn tôi, khi ánh mắt
gặp nhau, chàng mỉm cười với tôi, hậu quả trực tiếp là tôi ngã lăn xuống cầu
thang.
Cho dù Mộ Ngôn thân thủ
phi phàm, lần này cũng không giải cứu thành công, bởi vì không phải là khoảng
cách từ tầng bảy xuống tầng một, chỉ là từ bậc cầu thang thứ bảy xuống mặt đất,
khoảng cách của tôi với mặt đất quá gần, trong khi khoảng cách với chàng lại
quá xa, ấy là chưa nói giữa đường còn có những vật cản như bàn ghế.
Điều đáng buồn là trong
khoảnh khắc tiếp đất nhanh như tia chớp, đầu tôi đang nghĩ liệu cái váy có bị
lấm bẩn, nhưng trong họa có phúc, trong đầu lóe lên ý nghĩ, cú ngã này hóa ra
lại tốt, tôi sẽ có lý do giả bệnh, nấn ná ở lại thị trấn nhỏ vùng biên này là
có thể, là có thể ở bên Mộ Ngôn lâu hơn nữa.
Chỉ bực từ trước không
nghĩ ra biện pháp tự lực cánh sinh như vậy, một lòng gửi gắm hy vọng vào Tiểu
Hoàng cách xa nghìn vạn dặm không biết giờ đang làm gì. Nhưng giả bộ đau đớn
cũng không đơn giản, bởi vì bây giờ tôi đã không còn cảm giác đau đớn thể xác
nữa, chỉ cố nhớ lại cảm giác ngày xưa, đang nghĩ như vậy thì bị Mộ Ngôn nâng
dậy: “Đi cầu thang cũng ngã, cô bao nhiêu tuổi rồi?”.
Tôi giả bộ xuýt xoa rên
rỉ, tỏ ra mình rất đau.
Chàng cau mày điều chỉnh
tư thế ôm tôi: “Đau ở đâu?”.
Tôi khổ não nhìn chàng:
“Chỗ nào cũng đau”.
Chàng dừng lại: “Vậy phải
đến y quán gặp đại phu”.
Tôi hốt hoảng, thầm nghĩ
trò đùa này hơi quá rồi, vội vã vùng khỏi lòng chàng, cười cười: “Chẳng đau ở
đâu hết, không đi y quán, tôi đùa huynh đấy”.
Chàng nhìn tôi không chớp
mắt.
Tôi lau mồ hôi trên trán,
vẫn cười cười: “Đến y quán thì to chuyện quá, huynh xem, tôi rất khỏe, đùa
huynh tí thôi, hồi nhỏ tôi ngã liên tục, quen rồi, chẳng đau tẹo nào”.
Chàng cau mày: “Thật
không?”.
Tôi gật lia lịa: “Thật”.
Chàng vẫn cau mày, “Lúc
nhỏ là thời kỳ cơ thể phát triển, nếu bị trật xương sau này sẽ rất phiền phức”.
Tôi trả lời: “Tôi mười
bảy rồi”.
Chàng mỉm cười bất lực,
lát sau đã chuyển chủ đề: “Không sao thì tốt, đi ăn sáng thôi”. Mới bước hai
bước lại hỏi: “A Phất, bữa sáng cô muốn ăn gì?”.
Cuối cùng Mộ Ngôn không
đưa tôi đến y quán khám bệnh, nhưng tôi vẫn phấp phỏng, mặc dù tỏ ra hùng hổ
mạnh mẽ, nhưng lúc bước đi quả thật cũng hơi tập tễnh, có điều nếu không tỏ ra
hùng hổ mạnh mẽ sẽ bị đưa đến y quán, sau đó bị phát hiện là một người chết,
rồi bị đưa đến một cơ quan nghiên cứu những sinh vật kỳ lạ thì phiền phức to.
Có lẽ tôi nhảy nhót quá
mạnh, cứ như hồi quang phản chiếu ấy, Mộ Ngôn càng cho là tôi cần nghỉ ngơi,
quyết định lưu lại một đêm ở thị trấn vùng biên này.
Thị trấn rất sầm uất, bán
đủ thứ, có đồ chơi hình thiếu nữ bằng lông vũ, kết tóc kiểu như ý, có cả một
chiếc khăn quàng nghe nói là của một người đàn ông phong lưu rất điển trai nào
đó qua đời đã lâu, còn có cả bạch trùng tử phơi khô, đặc sản của nước Triệu,
nghe nói đem pha nước uống có thể chữa được bệnh tương tư.
Tôi rất hứng thú với bạch
trùng tử đó, thầm nghĩ nếu đúng có công hiệu như vậy, có thể mua một ít nghiền
nhỏ cho vào thức ăn của Mộ Ngôn, để chàng quên Tử Yên cô nương, để làm lại từ
đầu.
Nhưng hỏi thăm tiểu nhị,
phát hiện cái đó chỉ có thể pha nước uống, không thể đem một con bạch trùng tử
đó pha nước, đổ vào bát cơm của Mộ Ngôn và nói với chàng: “Nào, cho huynh ăn
món này, huynh xem, hình như trùng tử này... thực ra nó đúng là trùng tử, nhưng
không phải là trùng tử thường...”.
Có lẽ tôi còn chưa nói
hết, chàng đã đổ sạch cơm, như vậy e quá lãng phí.
Người biên giới rất giỏi
nấu rượu, bữa trưa dùng rượu hoa mai pha tuyết, vẫn là Mộ Ngôn trả tiền, sau đó
được chàng dẫn đi nghe kể chuyện ở một trà quán rất trang nhã gần khu chợ.
Chúng tôi không đi dạo phố nữa.
Tôi còn nhớ Quân Vỹ có
một quan điểm, anh ta cho là, đàn ông hầu hết đều không thích đưa các cô gái đi
chơi, bởi vì nếu cô gái thích thứ gì nhất định đàn ông phải trả tiền, đàn ông
chẳng qua chỉ là cái túi tiền mà thôi, còn giả sử cô gái không thích gì... điều
này không bao giờ xảy ra, quả thực không bao giờ xảy ra. Đương nhiên quan điểm
hẹp hòi đó không thể áp dụng đối với tôi và Mộ Ngôn, chúng tôi đến trà quán nghe
kể chuyện chỉ là do lúc đó bên ngoài đang là nắng tháng sáu, bỏng rát đầu.
Trong quán trà không còn
chỗ trống, đành phải ngồi ké với một người khách ở chân cầu thang, Mộ Ngôn rút
trong ống tay áo một cái quạt gấp, xòe ra đủ mười hai nan, quạt phe phảy, hơi
gió mát thoảng qua mặt. Lão tiên sinh kể chuyện ngồi ngay ngắn đang kể đến một
trường đoạn rất thê lương: “Mười lăm tháng năm là một đêm trăng, nhị công tử Tô
Tạ nghe nội giám truyền mật báo, nói: ‘Trần hầu vương bệnh trọng đã lâu, hiện
đã trút hơi thở cuối cùng, lúc tạ thế chỉ có tể tướng Doãn Từ phục hầu trước
long sàng, nửa khắc trước, Doãn Từ đã sai tâm phúc đi đón thế tử Tô Dự đang ở
cách xa tám trăm dặm về cung kế thừa vương vị, nhị công tử nếu muốn khởi sự,
đêm nay là thời cơ tốt nhất, nếu để thế tử trở về, cục diện khó bề vãn hồi’. Tô
Tạ bao năm khổ công chính là chờ đợi ngày này, phụ hoàng đã cưỡi hạc tây quy,
huynh trưởng kế vị đang bị trọng thương, lang thang cách cả gần ngàn dặm chưa
về, thời cơ thuận lợi hiếm có. Vậy là, đêm đó Tô Tạ khởi sự bức cung, thế mạnh
như chẻ tre, chém giết, xông thẳng vào vương cung, vệ úy Quang Lộc Huân trở
giáo đầu hàng, Hạo thành bị đốt, lửa ngùn ngụt sáng rực suốt bảy chục dặm, cả
vương đô mù mịt mùi khói lẫn mùi máu tanh. Trong vụ chính biến ở vương cung, do
thế tử kế vị vắng mặt, ai cũng tưởng đại cục đã định, người kế vị Trần hầu
vương đương nhiên là nhị công tử Tô Tạ. Nhưng sự đời thay đổi khó lường, khi Tô
Tạ còn chưa kịp tra thanh bảo kiếm dính máu vào bao, cánh cổng vương cung đóng
chặt đột nhiên từ từ mở ra...”.
Tôi nói: “Cánh cổng đó
nhất định là nhiều năm không bảo dưỡng”. Vừa dứt lời, hoảng hốt nhận ra lão
tiên sinh đã rất mệt mỏi đang uống nước lấy lại sức, trong khi mọi người xung
quanh vẫn ngồi im phăng phắc, đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng của cuộc
binh biến trong cung, cả lầu hai trà quán im lặng rất lâu, lời nói của tôi nghe
rõ mồn một.
Mộ Ngôn phe phẩy quạt,
trong mắt hơi cười cười, nhưng không nói gì. Tôi lè lưỡi, cúi mặt xuống bàn,
chấp nhận những ánh mắt bất bình của mọi người.
Bên ngoài, nắng vẫn gay
gắt, lá liễu mỏng manh bị nắng đốt khô vàng, cong queo, tiếng ve trong tán lá
dày khàn đặc như kiệt sức. Lão tiên sinh uống nước xong, tiếp tục kể: “Nghe
đồn, Trần thế tử Tô Dự có một đội quân riêng gồm ba trăm thiết vệ, mỗi người là
một thanh lợi kiếm vô cùng lợi hại, trở thành đội kỵ binh dũng mãnh không gì
ngăn được. Trước đó, chuyện về đội quân bí mật của thế tử Tô Dự đa phần chỉ là
đồn đại, nhưng chính lúc nhị công tử Tô Tạ tạo biến, đại cục sắp ổn định, từ
phía sau cổng cung mở rộng, ba trăm thiết vệ cưỡi ngựa vó bọc sắt lần đầu xuất
hiện. Từ dưới vó sắt của đội kỵ binh quét ra một đường máu thảm đạm, từ cổng
chính đồ sộ màu nhạt của vương cung, một con hắc mã chân đạp tuyết thong thả đi
vào, thế tử Tô Dự vốn tưởng đang ở cách vạn dặm lại đường hoàng cưỡi trên lưng
chiến mã, trong tay cầm thủ cấp đẫm máu của trưởng cấm vệ quân Hình Vô Giai.
Tình thế lập tức xoay chuyển, mấy phó cấm vệ quân phần lớn là do Tô Dự bí mật
tiến cử giờ đã đứng về phía Tô Dự, Tô Tạ dù có là hổ mọc cánh thì lúc này cũng
không thể khống chế cục diện”.
Tôi cảm thấy mình sắp ngủ
gật đến nơi, tiếng kể chuyện như tiếng ru ngủ bên tai, tôi gắng chống đầu khẽ
nói: “Câu chuyện này dài ghê”.
Mộ Ngôn vừa uống trà vừa
hỏi: “Cô đã nghe đoạn kết chưa? Kết cục rất đơn giản, Trần hầu vương thực ra
không chết, chỉ hôn mê một thời gian, khi tỉnh dậy thấy đứa con bất hiếu nhân
lúc mình bệnh nặng làm phản, lập tức ban cho cái chết. Nhị công tử Tô Tạ bị xử
tử chưa được mấy ngày, nước Đường, láng giềng của Trần bị nước Tấn xâm lấn, bèn
cầu viện Trần. Trần hầu vương vừa ốm dậy, lại phiền não vì vụ binh biến của nhị
công tử, hơn nữa thâm tâm cho rằng, trong cuộc chiến Đường - Tấn, tốt nhất Trần
nên đứng ngoài cuộc, vì vậy không muốn xuất binh trợ Đường. Thế tử Tô Dự lại
dâng biểu xin dẫn binh viện Đường, bàn luận mấy ngày, cuối cùng Trần - Đường
liên thủ đánh bại Tấn”. Nói xong ngước nhìn tôi, “Những chuyện đánh nhau liên
miên như vậy, cô còn nhỏ chắc là không muốn nghe?”.
Tôi nhìn chàng suýt khóc:
“Tôi chỉ cảm thấy câu chuyện hơi dài, đâu phải tôi không muốn nghe, tại sao
huynh lại coi thường tôi thế, lại còn coi thường lộ liễu như vậy, tôi hận huynh
muốn chết!!!”.
Mộ Ngôn: “...”.
Một ấm trà sắp uống hết,
lão tiên sinh cũng sắp kể đến đoạn kết cuộc chiến Đường - Tấn, bên ngoài nắng
đã nhạt, ánh nắng lọt qua kẽ lá liễu dịu dàng tỏa xuống, hắt bóng nhảy nhót lên
tường. Sau khi bị Mộ Ngôn chọc tức, tôi không còn thấy buồn ngủ nữa, gục đầu
trên bàn lơ đãng quan sát nhân tình thế thái.
Lát sau, Mộ Ngôn đột
nhiên nói: “Chuyện kể ở đây rất hay, mặc dù đa phần là nói quá, coi như nghe
câu chuyện ly kỳ, cũng thấy thú vị”.
Đang nói đến đây, một
chàng trai có vẻ rất hăng máu hét lên: “Tô Dự chẳng qua cũng chỉ có thế, nếu là
tôi, cuộc chiến Đường - Tấn, vũng nước đục đó nhất định tôi sẽ không đi, đợi
khi cả hai đại bại mới nhảy vào kiếm chác, chẳng phải quá tốt sao?”.
Xung quanh có người phụ
họa.
Tôi lắc đầu, giơ tay cầm
ấm trà, tỏ vẻ không tán đồng quan điểm đó.
Mộ Ngôn thong thả gập cái
quạt trong tay: “Cô định nói gì à?”.
Tôi liếc nhanh chàng một
cái, cúi đầu ấp úng: “Thôi”.
Chàng vừa rót trà cho
tôi, vừa gặng hỏi: “Sao thế?”.
Tôi nói, “Bởi vì nói ra
dài lắm, sau đó huynh lại bắt tôi ăn bánh bao, bánh chẻo gì đó, ăn xong tôi lại
quên mất định nói gì”.
Bàn tay rót trà của chàng
hơi run, bật cười: “Lần này tôi không bắt cô ăn, cô muốn nói gì cứ nói”.
Tôi nói: “Ồ, mà cũng
chẳng có gì, chỉ là muốn bộc bạch một chút, định nói là thực ra cuộc đời giống
như chiếc đồng hồ quả lắc, có vẻ như chỉ có hai khả năng, bên phải và bên trái,
thực ra đúng là chỉ có hai khả năng bên phải và bên trái... huynh có thể nói
trong quá trình quả lắc dao động diễn ra bao nhiêu khả năng, nhưng đều không
phải là khả năng, chỉ là con đường dẫn tới khả năng, cuối cùng không ở bên phải
thì ở bên trái. Tất cả đều có khả năng, nhưng cái gọi là tất cả đó chẳng qua
cũng chỉ có hai khả năng hoặc bên phải, hoặc bên trái, chỉ có sự bất biến trong
đó là không thể có, trừ phi đồng hồ hỏng, đó là hình dáng của sự sống dừng
lại”. Nói xong liếm môi, hỏi chàng: “Huynh có hiểu không?”.
Chàng lắc đầu.
Tôi nghĩ phải nói thế nào
đây, nghĩ hồi lâu cuối cùng nghĩ ra một ví dụ để đơn giản hóa ý của mình: “Thực
ra chính là nói, giống như thế gian này, thế gian này không là đàn bà thì là
đàn ông, đương nhiên nhân yêu cũng không phải không có, nhưng nếu anh ung dung
làm một nhân yêu, nhất định sẽ bị xã hội kỳ thị, hơn nữa rất khó tìm bạn đời”.
Tôi liếm môi hỏi, “Huynh hiểu không?”.
Chàng nói không hiểu.
Tôi bực mình “Thực ra rất
đơn giản, ý tôi muốn nói chuyện này rất giống cảnh ngộ của Tô Dự, giả sử anh ta
giữ thái độ trung dung, đứng ngoài cuộc, thì sau này anh ta sẽ rất khó tìm đồng
minh trong các nước chư hầu. Những người kia đều suy nghĩ quá đơn giản, họ
không biết thế sự rối loạn cũng giống như cuộc đời, không anh thì tôi, không
tôi thì anh, nếu bản thân nước mình không đủ mạnh, về cơ bản không có tư cách
trung dung, minh quân thánh chủ trong thời loạn thế lập trường phải rõ ràng.
Đương nhiên nếu minh quân thánh chủ này đã là bá chủ một phương thì chẳng còn
gì để nói”. Tôi nghiến răng: “Lần này huynh hiểu chưa?”.
Mắt chàng như cười, nhìn
tôi: “Hay là chúng ta ăn chút gì đi, ăn xong hãy nói”.
“...”.
Nhớ lại thì đây là lần
thứ hai tôi nghe thiên hạ bàn tán về Tô Dự ở chỗ đông người.
Nửa năm trước, con người
đó dẫn mười vạn thiết binh nhẹ nhàng đánh bại Vệ quốc trong nụ cười nhạt, chứng
tỏ dụng binh hết sức cơ mưu lại rất ung dung, trong cuộc khảo thí tuyển chọn
quan lại ở đế đô, anh ta đã ra đề thi liên hệ với tình hình thời cuộc rất hóc
búa, khiến cho những người hỏng thi vô cùng căm hận, người đó vinh hạnh trở thành
nhân vật hoàng tộc bị giới nhân sĩ trí thức không ưa nhất trong năm.
Từ đó có thể thấy con
người Tô Dự nhất định sau này sẽ làm nên nghiệp lớn, nhưng không phải là nói
anh ta còn trẻ đã quyền cao chức trọng, hoặc có tài huấn luyện binh mã, chỉ có
điều trong lịch sử, những người có thể ảnh hưởng đến tuyển lựa người làm quan
cho triều đình đã chết sạch, anh ta là người sống duy nhất, khiến thiên hạ nhìn
bằng con mắt khác. Hơn nữa có thể đồng thời bị nhiều người ghét như vậy cũng là
một minh chứng, minh chứng anh ta hoặc là có ngoại hình xuất chúng, hoặc là nhà
rất giàu sang, hoặc là rất có tài gì đó. Cho dù cả ba điều này đều không phải,
ít nhất cũng chứng minh sự hiện hữu của con người anh ta rất nổi bật.
Nhưng bất luận thế nào,
ngày hôm nay cũng là một ngày vô cùng viên mãn.
Đêm đen, gió vô tình khơi
gợi tâm tư, tôi ngồi chong đèn viết những điều tâm đắc ngày hôm nay rồi thu xếp
dọn dẹp chuẩn bị đi ngủ. Vừa tắt nến, ngoài cửa sổ cách giường hai bước đột
nhiên có những tiếng động rất gấp, rồi có người rơi xuống đất, nền nhà bằng gỗ
đàn hơi rung, tôi nghiêm giọng hỏi: “Ai?”.
Có vật gì lạnh ngắt chớp
mắt đã kề cổ tôi, lúc này tay tôi đang mò tìm cái đánh lửa trong người. Về sau
bao nhiêu lần nhớ lại cảnh đó, tôi cảm thấy mình đúng là đã thể hiện chí khí
anh hùng, lúc nguy biến không hề sợ hãi. Nhưng thực ra chỉ là không biết vật kề
cổ mình rút cục là vật gì. Sau đó xoẹt một cái, lửa lóe lên, tôi thận trọng cúi
nhìn, một con dao găm sáng loáng .
Ánh lửa mờ mờ chiếu sáng
một góc phòng, trên nền nhà là một đôi giày thêu có đường viền màu trắng, phía
trên đôi giày là đường chân váy màu tím, cô gái kề dao vào cổ tôi khẽ cười:
“Đao kiếm vô tình, cô nương xin chớ động đậy kẻo bị cứa đứt cổ”.
Tiếng cười gần trong gang
tấc. Tôi liếc qua khóe mắt, quan sát người đó, ánh mắt vừa chạm mắt cô ta lại
rùng mình kinh ngạc. Đó là khuôn mặt tôi đã nhìn thấy ở Trịnh vương cung, một
khuôn mặt như hiện ra từ tranh thủy mặc, hoàn toàn giống hệt! Thập Tam Nguyệt.
Nhưng Hoa Tư dẫn tuyệt
đối không thể sai sót, không như độc dược Quân sư phụ chế ra, chỉ làm người ta
tắt thở tạm thời, cơ bản không đầu độc chết người, mặc dù nhìn đúng là đã chết,
nhưng lúc khâm liệm lại là người sống.
Tôi vẫn còn nhớ nửa tháng
trước, đêm hai mươi lăm tháng năm trong Dụ Cẩm viên của Trịnh vương cung, tôi chơi
Hoa Tư điệu tự tay kết thúc tính mạng của Thập Tam Nguyệt. Lúc này cô ta có lẽ
đã là cái xác mục nát dưới ba tấc đất, cho dù Dung Tầm có mật dược bảo quản tốt
đến mấy cũng chỉ có thể như tôi, sắc mặt nhợt nhạt, người tỏa mùi tử khí, đương
nhiên tử khí này người thường khó nhận ra, cho dù nhận ra cũng chỉ cảm thấy một
khí chất khác thường. Nhưng Thập Tam Nguyệt trước mặt tôi sắc mặt hồng hào, còn
đẹp hơn nhiều so với lần trước tôi gặp, quả thật không thể nào hình dung đó là
người đã chết.
Tôi nhìn cô ta: “Tôi
không biết cô, cô là ai?”.
Cô ta tiến gần tôi một
chút, hơi cau mày, khóe miệng nhếch lên, từ từ nở nụ cười: “Là người qua đường
thôi, muốn nhờ phòng cô nương một lát, trốn kẻ thù, băng bó vết thương”.
Con dao găm kề cổ tôi khẽ
nhích, có lẽ muốn uy hiếp, nhưng cảm giác của tôi hết sức chậm chạp, thiếu nhạy
cảm nên hiệu quả uy hiếp không như mong muốn. Nụ cười trong mắt cô ta càng rõ,
mép lại nhếnh cao hơn: “Cô nương bạo gan đấy”. Giọng nói đó giống như tiếng thở
dài gió đêm mang đến. Sau đó cô ta ép tôi vào cánh cửa phòng, con dao găm sượt
qua tóc tôi, cắm vào cánh cửa gỗ, nụ cười vẫn trong mắt, nhưng không biết cười
thật hay cười giả, giọng nói lại cực nhẹ: “Đề nghị của tôi, cô nương có bằng
lòng không?”.
Tôi vội gật đầu: “Bằng
lòng, bằng lòng”. Kết quả một viên gì đó đột nhiên đã ở trong họng tôi, trượt
xuống cổ, tôi mím môi suy nghĩ không biết viên giao châu trong người tôi liệu
có thể giải độc .
Cô gái áo tím tự nói ra
tên cô là Oanh Ca, nhưng tôi không tin, bởi vì ý nghĩa của cái tên chúng tôi đã
tìm hiểu kỹ, kết luận rút ra là, phàm những kẻ lưu lạc giang hồ, ai chẳng có
một nghệ danh.
Sau khi đầu độc xong,
Oanh Ca thản nhiên ngồi lên giường sai tôi: “Thuốc, băng, nước sạch, dao, nến”.
Vừa sai bảo tôi vừa cau mày cởi khuy áo, lộ ra vết thương ở bả vai, làn da trên
bờ vai không bị rám nắng trắng lóa dưới ánh nến, máu thấm ra lớp vải băng
trắng, trông như bông hoa đỗ quyên đỏ tươi, nở xòe trên bờ vai trắng như tuyết.
Những thứ cô cần hầu như
đều có sẵn, tôi đưa cho cô thuốc cầm máu, nhìn vết kiếm thấu đến tận xương, tôi
lè lưỡi ái ngại: “Đau lắm hả?”.
Cô nghiêng đầu nhìn tôi,
răng cắn vào môi hằn lên mấy vết sâu nhợt nhạt, mặt vẫn gượng cười: “Cô thử
đoán xem, trước khi lấy chồng tôi làm nghề gì?”.
Tôi lắc đầu, nói tôi vừa
không biết cô đã lấy chồng, vừa không biết cô làm nghề gì.
Cô hơ con dao trên ngọn
lửa, đột nhiên nhắm mắt, con dao cạo trên vết thương, lấy ra lớp thịt nát,
trong phòng yên tĩnh, lát sau, nghe thấy một giọng khản, đứt quãng như từ dưới
đất vọng lên: “Lúc đó tôi là một sát thủ, ngày nào dao cũng dính máu, giết
người, bị giết, mấy lần đã đến quỷ môn quan, đau đớn mấy cũng đã trải qua”. Cô
cười gằn, trong đêm tối có một vẻ ma quái, “Không ngờ nhàn rỗi mấy năm, hôm nay
chỉ đau thế này đã không chịu nổi”.
Nói xong nghỉ một lát,
lại bôi thuốc vào vết thương, mồ hôi toát ra trên trán, mép lại nhếch lên, “Cô
nương sợ phải không? Tôi chỉ quấy quả đêm nay, sáng mai sẽ đi, sự chăm sóc của
cô nương đêm nay, tôi xin cảm tạ trước”.
Thâm tâm tôi thấy thực ra
chuyện này chẳng có gì đáng sợ, cũng không hiểu sao cô lại hỏi như vậy. Huống
hồ, nếu nói sợ, có lẽ cô mới là người sợ, thử tưởng tượng đêm khuy vắng, ở
chung phòng với một xác chết, hơn nữa xác chết này có thể nói chuyện với mình,
đảo vị trí cho nhau, quả thực cô sợ mới phải.
Còn tôi vừa nghĩ xong
điều đó, lòng đột nhiên chấn động, cảm thấy mớ hỗn loạn trong đầu đột nhiên lóe
ra tia sáng, tôi hỏi cô: “Oanh Ca là tên thật của cô chứ?”.
Cô ngoẹo đầu trên thành
giường, sắc mặt trắng xanh, trán lấm tấm mồ hôi, thật không thể tưởng tượng,
lúc đau đớn như vậy cô vẫn có thể làm được bao động tác khó như thế, giọng nói
vẫn ngắt quãng, nhưng đã có lực hơn: “Tên thật thì sao, tên giả thì sao, từ năm
mười một tuổi đã không có ai gọi cái tên đó, Oanh Ca, Oanh Ca. Cô nói xem, thực
ra cái tên đó hay đấy chứ. Ồ, cô đừng nhìn tôi lạ lùng như vậy, cũng không phải
có gốc tích gì đặc biệt, khi sinh ra chị em tôi, cha tôi đã cõng cả một vại dưa
muối đến nhờ ông giáo làng đặt giúp một cái tên sao cho vừa dễ nuôi vừa nho
nhã. Tôi khóc to hơn cô em, tên là Oanh, nhưng hoàng oanh là loài chim quý yểu
điệu, con nhà nghèo, lại là gái, sao có thể mang cái tên đó. Ông thầy nghĩ một
lát, điền thêm một chữ Ca vào sau, ngụ ý để cho thần linh trên trời nhìn thấy
tưởng rằng tôi là con trai, sẽ xứng đáng mang tên Oanh đó”.
Tôi đăm đăm nhìn cô, vẻ
ngạc nhiên: “Thật thú vị!”. Lại hỏi tiếp: “Cô nói cô có một em gái? Vậy em cô
tên gì?”.
Cô nheo mắt nhìn tôi từ
đầu xuống chân, mỉm cười mơ hồ, “Quên rồi”.
Trên đời không thể có hai
thứ giống hệt nhau, ngay quả trứng do một con gà mái đẻ ra cũng mỗi quả một vẻ,
huống hồ con người.
Tôi suy nghĩ rất lâu,
thầm đặt giả thiết: Oanh Ca và Thập Tam Nguyệt thực ra là một người, nhưng lại
lập tức gạt đi. Giả thiết khác, dung mạo này của Oanh Ca thực ra là giống hệt
dung mạo của Thập Tam Nguyệt đã chết, nhưng tại sao cô ta phải đội lốt Thập Tam
Nguyệt lại trở thành một vấn đề mới. Còn một khả năng nữa, giả sử cô chị mà
Thậm Tam Nguyệt nói trong Hoa Tư mộng thực ra chưa chết, cô chị đã khiến Thập
Tam Nguyệt đau khổ day dứt đến mức lấy cái chết để tạ tội liệu có phải chính là
Oanh Ca?
Trong thuốc có chất gây
mê, Oanh Ca sau khi bôi thuốc, băng bó xong, lập tức ngủ thiếp đi, điều đáng
quý nữa là trước khi ngủ cô còn xé một mảnh vải trói tay chân tôi lại.
Tôi nằm bên mép giường
ngắm nhìn khuôn mặt cô, hai mắt nhắm, lông mày vẫn hơi chau, tôi thầm nghĩ điều
bí ẩn tôi và Mộ Ngôn đang bôn ba tìm kiếm có lẽ câu trả lời đã ở trước mắt, chỉ
có điều đó là một thứ quả vỏ cứng, tạm thời chưa biết ra tay thế nào.
Trong lòng nhất thời bấn
loạn, mãi không ngủ được, khoảng một canh giờ sau, trong ánh trăng rọi đầy
phòng, có tiếng sột soạt vang lên. Một con chuột lặng lẽ bò lên giá nến, định
ăn trộm nến, tôi mở to mắt quan sát, sau lưng đột nhiên truyền đến tiếng thút
thít khe khẽ, con chuột sợ quá chui xuống bàn chuồn mất, còn tôi lại lăn xuống
đất.
Khó khăn ngồi dậy, Oanh
Ca vẫn chưa tỉnh, trong giấc ngủ, khuôn mặt trắng nhợt đầy ngấn nước mắt, nước
mắt vẫn đang tràn ra từ khóe mắt nhắm nghiền, một giọt to tròn rơi trên mặt
chiếc gối gốm, nhưng không còn tiếng thút thít nữa, tôi quỳ trên nền đất, nhích
lại gần một chút, nhìn kỹ mặt cô, thầm nghĩ có lẽ cô đang nằm mơ, không biết là
giấc mơ như thế nào.
Cái quả vỏ cứng đó cuối
cùng lộ ra kẽ nứt, muốn biết bí mật của cô lúc này chính là cơ hội tốt. Nhưng
chuyện này liên quan đến vấn đề đạo đức, nghĩa là không nên dùng công lực của
viên giao châu để đi vào giấc mơ của người khác. Nghe đồn những người có Hoa Tư
dẫn trăm nghìn năm nay đều từng đối diện sự lựa chọn khó khăn như vậy, vấn đề
này một thời cùng với vấn đề “đàn bà hoang thai liệu có thể phá thai” của triều
đại nào đó trở thành vấn đề luân lý được xã hội rất quan tâm, cuối cùng biện
pháp giải quyết vấn đề sau là đàn bà hoang thai sẽ bị nhốt trong chuồng lợn.
Thực ra dưới sức mạnh của
bạo lực, mọi vấn đề đều không phải là vấn đề, bởi vì bản thân bạo lực đã là vấn
đề lớn nhất. Tóm lại, lúc này tôi đang do dự, cái cớ giúp tôi đưa ra lựa chọn
là một cơn giãy giụa của Oanh Ca trong mơ, đó là dấu hiệu bị đè nén, muốn vùng
vẫy thoát ra. Tôi tìm một lý do cho mình, tôi cần đi vào giấc mơ của cô để đưa
cô trở lại.
Tôi nắm chặt tay Oanh Ca,
tập trung tinh lực, cảm nhận thần trí của cô để đi vào giấc mộng đang đè nén
cô, mặc dù đây là lần đầu tiên dùng giao châu làm chuyện này nhưng cũng không
thấy mệt, đó là do tôi là người chết, ít ham muốn đối với cuộc đời hơn các bậc
tiền bối từng tu luyện Hoa Tư dẫn.
Không gian trước mắt xuất
hiện một con đường cổ tối om, có tiếng trống điểm canh văng vẳng, một chiếc cầu
bắc qua sông, có lẽ đây chính là chiếc cầu đi vào giấc mơ của Oanh Ca, tôi hít
một hơi, đang định bước vào thì tay đột nhiên bị ai nắm lấy, bên tai có tiếng
nói nhỏ “A Phất,”. Tôi sững người, định vùng khỏi bàn tay đó nhưng không kịp,
tiếng trống điểm canh tan biến trong tận cùng bóng đêm, chớp mắt, tôi đã rơi
vào giấc mơ của Oanh Ca.
Tôi đang ở một nơi xa lạ,
ngẩng đầu nhìn thấy Mộ Ngôn đang nắm tay tôi, hỏi: “Sao cô lại vào đây?”.
Chàng hơi nhướn mày, mắt
lại nhìn về phía trước, ở đó là một con ngõ sâu, hai bên là nhà dân tường đen
ngói xanh, trên những mái hiên cong phủ lớp tuyết mỏng, trên trời trăng suông,
bốn bề tĩnh mịch. Mộ Ngôn thôi không nhìn con ngõ, quay lại nói với tôi: “Nghe
thấy phòng cô có tiếng động liền ghé qua, không ngờ...”. Chàng dừng lại: “Đây
là đâu? Cô gái trong phòng cô là ai?”.
Tôi nói vắn tắt câu
chuyện, người rét run cầm cập, đây chính là nỗi khổ của người đi xa không nắm
được tình hình thời tiết. Mộ Ngôn vẫn giữ tay tôi, lát sau nói: “Sao tay cô
lạnh thế?”.
Tôi thầm nghĩ, thật nực
cười, tay người chết sao không lạnh, nhưng vẫn khinh suất rùng mình, định rút
tay ra, Mộ Ngôn nhìn tôi, tôi nói khẽ: “Có thể là do... xương như ngọc, thịt
như băng như truyền thuyết nói”.
Mộ Ngôn: “...”.
Trong con ngõ phía trước
vẳng đến tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe lăn trên đường đá, tôi đi lên trước vài
bước, loáng thoáng nhìn thấy một người ăn mày rách rưới ngồi co ro trên đường,
Mộ Ngôn kéo tôi lại, tôi ngoái đầu giải thích với chàng: “Người đó không nhìn
thấy chúng ta”.
Nghĩ một lát lại bổ sung,
“Người trong giấc mơ này không nhìn thấy chúng ta”. Một chiếc xe ngựa có mui từ
trong ngõ tối phóng nhanh ra, cảm tưởng như sắp nghiến qua người ăn xin, phu xe
vội kéo giật dây cương, con ngựa đen chồm hai vó trước, hí vang, trong xe có
tiếng nói vọng ra: “Sao thế?”. Phu xe vội lùi xe ngựa về sau: “Có một người ăn
xin ngáng đường”.
Rèm xe vén lên, lộ ra ống
tay áo màu tím, phu xe nhảy xuống giữ con ngựa, kéo người ăn xin sang một bên,
giọng nói nhỏ nhẹ, lạnh lùng trong xe lại vang lên sau bức rèm: “Đưa về phủ”.
Phu xe nói: “Chúa thượng đây là...”.
Sau bức rèm vẳng ra tiếng
cười: “Chưa biết chừng cô bé chính là... sát thủ tốt nhất trời ban cho ta như
thầy bói phán”.
Tiếng vó ngựa mất hút
trong ngõ, cảnh trước mắt trở nên vắng lặng, ngay sau đó đã thấy một căn phòng
rộng sáng choang, ánh nến trùng trùng, từ chiếc đỉnh đá trên hương án khói bốc
nghi ngút, trên giường một cô gái nhỏ nằm co quắp, đoán là người ăn xin bị ngất
trên đường mấy khắc trước, có vẻ đã được thu xếp ổn thỏa, chỉ có điều không
nhìn thấy mặt, một thiếu niên áo chùng tím đứng chếch trước giường. Xiêm y sang
trọng, dáng dong dỏng nho nhã, cậu ta hơi cúi đầu: “Tên cô là gì, nhà có những
ai?”. Cô gái nhỏ mở mắt định ngồi dậy, bị cô hầu bên cạnh giữ lại, chỉ thấy
dưới lần chăn lộ ra khuôn mặt nhỏ như bàn tay, vàng võ, nhưng không hề sợ hãi:
“Oanh Ca, nô tì lên là Oanh Ca, năm ngoái quê nhà bị lụt, cha mẹ nô tì đều qua
đời, trong nhà chỉ còn bà nội và hai chị em nô tì”.
Tôi đi lại gần, mặt cô bé
quả nhiên hơi nhang nhác Oanh Ca, không ngờ cô gái áo tím có nụ cười vừa dịu
hiền vừa nghiêm khắc nửa thật nửa giả nhảy vào phòng trọ của tôi mặt mũi lúc
nhỏ lại như vậy. Nhưng nhìn vào đôi mắt đen láy của cô bé, cuối cùng tôi đã có
cảm giác hòa nhập vào cô bé. Viên giao châu phát huy công lực khiến thần trí
tôi hòa nhập vào thần trí chủ nhân giấc mơ, cái hay là tôi có thể hiểu được suy
nghĩ của họ, cái dở là có hiểu cũng chẳng ích gì.
Bởi vì tôi muốn khách
quan nhìn thấy toàn cảnh sự việc, bởi tư tưởng con người nhiều khi đầy định
kiến.
“Oanh Ca?”. Thiếu niên áo
tím mỉm cười, “Vậy em gái cô chắc là OanhVũ”.
Đôi mắt đen láy của cô bé
mở to nhìn thiếu niên, không hiểu cậu ta nói gì. Thiếu niên lơ đãng liếc nhìn
khuôn mặt xanh xao của cô bé, rồi quay người nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài cửa
sổ, thong thả: “Cái tên Oanh Ca quả là rất tuyệt, đêm nay đúng vào đêm mười ba
tháng Chạp, là lúc trăng sáng nhất, vậy từ nay gọi cô là Thập Tam Nguyệt, ta
đưa cô về đây, từ nay cô hãy theo ta”.
Cùng với ánh nến, tôi
nhìn rõ khuôn mặt tuấn lãng đoan nghiêm đó, vẫn còn vẻ non nớt thiếu niên,
chiếc đai ngọc nổi bật giữ tà áo chùng tím, mặc dù đang cười, vẻ mặt lại lạnh
như tuyết. Đó là... Trịnh hầu vương Dung Tầm thuở thiếu thời.
Tôi cúi nhìn tay mình,
Thập Tam Nguyệt nửa tháng trước bị tôi chính tay giết chết thì ra đã bị tráo
đổi sao?
Sau đó ánh nến trong
phòng tan dần, cảnh trước mắt liên tục thay đổi, cảnh trí loang loáng chuyển
động, tôi thầm nghĩ may mà mình không dễ say xe.
Lát sau cảnh trí dừng
lại, một rừng trúc yên tĩnh mở ra trước mắt. Trên trời lác đác có những ngôi
sao mọc sớm, giữa khoảng đất rộng đầy lá rụng có một đống lửa cháy không đượm
lắm, đôi ủng da giẫm lên lá khô, dừng lại bên đống lửa, dọc theo đôi ủng nhìn
lên trên, quả thật không thể tưởng tượng, người vừa đến chính là Dung Tầm.
Chàng nhìn quanh, khi
liếc nhìn, trong ánh mắt lạnh như có ánh cười, nhưng nét mặt vẫn dửng dưng, giả
bộ cúi nhìn đống lửa trên mặt đất, chính lúc đó trên không đột nhiên truyền đến
tiếng lá trúc rào rào, một bóng dáng màu tím từ trên trời rơi xuống, người
chàng hơi dịch sang phải né tránh, một con dao găm sắc bén sượt qua giải lụa
trên búi tóc chàng, cắm sâu vào một thân trúc to sau lưng chàng, chàng không hề
né tránh, mắt mở to nhìn bóng tím từ trên trời rơi xuống mỗi lúc mỗi gần.
Sau đó tất cả xảy ra rất
nhanh, mấy chiêu giao đấu trực diện cơ hồ kết thúc trong nháy mắt, khi tôi định
thần, nhìn rõ đã thấy Dung Tầm bị cô gái áo tím ép chặt xuống mặt đất. Cô gái
trẻ hơn Oanh Ca bây giờ một chút.
Đống lửa cháy nổ lép bép,
lửa hắt lên ánh trăng mờ tỏa xung quanh, vị công tử hào hoa bình thản nằm trên
mặt đất trải đầy lá vàng khô, xung quanh trúc xanh lả lướt, cô gái áo tím đè
trên ngực chàng, hai gối chống đất, mái tóc dài như dải lụa đen óng, tay trái
nắm vạt áo chàng, nửa lưỡi dao găm dài sáng loáng cắm xuống đất.
Hai má cô đỏ hồng, động
tác dứt khoát, tay trái dụng lực càng mạnh, ép càng chặt, chàng khẽ rên dưới
thân cô, cô mở to đôi mắt đen láy nhìn chàng “Hôm nay, đao của em nhanh hơn hôm
qua chứ?”.
Chàng giơ tay gối đầu,
mỉm cười nhìn cô: “Nguyệt nương, em làm rất tốt, em có thể làm tốt hơn”.
Trên mặt cô lộ vẻ đắc ý,
bàn tay nắm áo chàng hơi buông, khóe mắt chàng lóe ra tia lạnh, tay bất chợt
vung lên như tia chớp khống chế bàn tay còn lại của cô, người bất ngờ bật lên,
xoay chuyển tình thế, đè cô xuống đất, cả người cô đã bị khống chế, mặt lộ vẻ
phẫn nộ, chàng nhìn cô, tươi cười: “Ta nói bao lần, muốn làm một sát thủ giỏi,
từ mai phục đến ra tay, kết thúc, khâu nào cũng phải hết sức thận trọng”.
Cô cắn chặt môi, mặt lộ
vẻ tủi thân, không cam chịu, hai tay vùng vẫy. Chàng giơ tay vuốt môi cô, bật
cười thành tiếng: “Sao cắn chặt thế, không nén được giận sao”.
Mặt cô càng đỏ, ánh mắt
nhìn chàng càng long lanh giận dữ.
Mộ Ngôn bên cạnh đột
nhiên nói: “Hình như sắp mưa”, lời vừa dứt, trên trời đột nhiên xuất hiện ánh
chớp, tiếp đó là trận mưa ầm ầm trút xuống. Oanh Ca vẫn còn ấm ức, ngồi thẳng
người, ngay sau đó nép vào lòng Dung Tầm. Chàng nhẹ nhàng vỗ lưng cô, như an ủi
đứa trẻ: “Vẫn sợ sấm? Như thế này sao có thể trở thành sát thủ giỏi”.
Cô nghiến răng ôm chặt cổ
chàng, vẻ mặt đầy quyết liệt, nhưng lời nói ra lại hết sức trẻ con, “Em sợ thêm
lần này nữa thôi”.
Chàng ngồi thẳng người
nhìn cô đăm đăm, tay vuốt má cô, thở dài: “Thật hết cách”.
Sắc đêm trong rừng trúc
không ngớt lay động như muốn vỡ tung, mưa sắp ập xuống, khi hạt mưa rơi trên áo
tôi, cảnh trí trước mặt lại thay đổi. Đây là một sự thần kỳ, tôi có thể nhìn rõ
từng hạt mưa rơi, lại có thể mang hạt mưa đó di chuyển sang cảnh sau.
Mộng cảnh này thật vô lý,
tôi vừa nghĩ như vậy, vừa thầm tiếc, vừa rồi trên trời rơi xuống sao không phải
là vàng bạc châu báu, khi đầu óc tỉnh táo trở lại, phát hiện bị Mộ Ngôn kéo đến
đứng trước một khung cảnh rất đẹp, xung quanh rất nhiều hoa, còn có một cô gái
đẹp như hoa.
Không biết tại sao, tôi
biết, có lẽ là do thần trí hòa nhập, giống như ai đó viết lên trên não, nói với
tôi đây là sinh nhật lần thứ mười sáu của Oanh Ca, nửa tháng trước cô đã tự
dựng lên cảnh ngộ, bán mình vào lầu xanh này, quỳ phục giữa những cô gái trẻ
đẹp, hôm nay sẽ giết chết một người mà định mệnh đã định phải chết trong tay
cô, chính thức trở thành sát thủ bí mật của Dung gia, hoàn tất lễ trưởng thành
của một sát thủ.
Tôi còn nhớ quanh cảnh lễ
trưởng thành mười sáu tuổi của tôi, tôi trói chân tay Quân Vỹ ép anh ta nghe
tôi đánh đàn suốt một ngày, tôi rất khoái trá, chỉ có điều hơi tàn nhẫn với
Quân Vỹ, còn lễ trưởng thành của Oanh Ca đối với bất kỳ ai cũng là tàn nhẫn.
Mộ Ngôn ở phía sau gập
quạt giấy đập lên vai tôi: “Cô dáo dác ngó quanh là muốn tìm ai?”.
Tôi hất chiếc quạt của
chàng: “Tìm Dung Tầm”.
Chàng tỏ vẻ hứng thú:
“Sao? Cô cho là chàng ta nhất định đến?”.
Tôi không chắc chắn lắm:
“Cũng phải”. Nghĩ một lát hỏi chàng, “Nếu là huynh, huynh có đến không?”.
Chàng gập cái quạt: “Nếu
sát thủ dưới tay tôi là cô, tôi sẽ đến”.
Tôi ngớ người, ngây ngây
nhìn chàng.
Chàng liếc tôi, thong thả
nói: “Cô ngốc thế, nếu tôi không đến, cô giết nhầm người thì sao?”.
Tôi tức giận: “Sao tôi có
thể giết nhầm. Có lúc, có lúc tôi cũng hơi hồ đồ một chút, nhưng vào thời điểm
quan trọng như vậy, tôi sẽ rất lợi hại”.
Chàng lại cười: “Thời
điểm quan trọng? Lần trước găp chó sói trong đêm, nếu tôi không đến kịp, cô sẽ
thế nào?”.
Tôi nói: “... Được, coi
như chưa có cuộc trò chuyện vừa rồi”.
Chàng vẫn không chịu:
“Lần trước trong Hoa Tư mộng của Thẩm phu nhân Tống Ngưng, cô bị rơi xuống núi,
nếu tôi không theo kịp, thì cô thế nào?”.
Tôi nhích xa chàng một
chút: “Chuyện đã qua sở dĩ đẹp chính là vì nó đã trở thành quá khứ, quá khứ hãy
để cho tan thành mây khói, nào, chúng ta suy nghĩ vấn đề hiện thực quan trọng
hơn”.
Chàng phe phảy cái quạt,
dường như vẫn muốn nói tiếp, ánh mắt như cười, nhìn tôi không nói gì.
Tôi bảo chàng: “Huynh xem
chuyện của Thập Tam Nguyệt, Thập Tam Nguyệt của Trịnh vương đã chết vì tình lúc
còn sống luôn mồm nói có lỗi với chị gái, còn Oanh Ca còn sống lại giống hệt
Thập Tam Nguyệt. Cô ấy có một cô em gái, chính cô ấy nói với tôi, cô ấy quên
tên cô em đó rồi. Dung Tầm xem ra dường như rất có tình với Thập Tam Nguyệt
trong Trịnh vương cung, nhưng rõ ràng cũng biết Thập Tam Nguyệt thật sự rút cục
là ai, hơn nữa, cũng không có vẻ vô tình với Oanh Ca”.
Tôi vốn chỉ định chuyển
chủ đề, nhưng cuối cùng lại bị cuốn hút bởi vấn đề vừa nêu, nghĩ một lát vẫn
không tìm ra manh mối gì hơn, đành thở dài.
Tôi nói với Mộ Ngôn suy
nghĩ của mình: “Dung Tầm kia cũng rất khó hiểu, cần tiếp xúc nhiều may ra biết
thêm được gì. Ôi, nhưng cũng khó nói, phương ngôn có câu người trong cuộc thường
mù quáng, có ý khuyên răn người đời cố gắng bình tĩnh trước những vấn đề nan
giải, nhưng lại có câu không tìm hiểu, không có quyền phát ngôn. Ôi chao, tôi
rất băn khoăn”.
Mộ Ngôn xua tay: “Tôi
cũng rất băn khoăn. Cô lạc đề rồi, cô vừa nói gì tôi nghe chẳng hiểu gì hết”.
Trong hoa đình, trên sân
khấu cao các cô ca kỹ đang biểu diễn, có một cây to, cành lá tươi tốt cao vút
sum suê, dưới gốc cây đàn sáo tưng bừng, điệu múa lời ca dập dìu, làm như thiên
hạ thái bình thịnh trị.
Chỉ có điều, tất cả đều
là giả dối. Thật đáng buồn cho hoàng đế lúc vi hành thường thích đến chốn lầu
xanh, bởi vì cho rằng nơi đây thượng vàng hạ cám hội tụ, có thể nghe thấy tiếng
nói của muôn dân, nhưng rốt cuộc chỉ khiến cho hoàng đế càng thêm phong tình mà
thôi.
Tôi kéo Mộ Ngôn vào một
lầu nhỏ có rèm che màu hồng phía sau sân khấu, đi vòng qua một cái cửa gỗ chắc
chắn, mở một cánh cửa, đúng lúc nhìn thấy Oanh Ca trang phục gọn gàng từ cửa sổ
đối diện nhẹ nhàng nhảy vào. Có mấy cô gái cúi đầu đứng một bên, chờ được hầu
hạ khách, hoàn toàn không hay biết gì, lập tức bị chuôi đao nhanh như cắt đập
vào đầu, khụy xuống, bị kéo vào giấu dưới gầm giường, thời điểm chưa đến, Oanh
Ca mười sáu tuổi bước đến trước đài gương, cầm lên chiếc quạt lụa có vẽ một
khóm mẫu đơn mùa thu, kéo rèm cửa sổ, ngồi uống rượu một mình.
Tôi đã nhập được vào thần
trí của Oanh Ca, tự nhiên biết cô ở đây, Mộ Ngôn cũng hiểu, chỉ hơi thán phục
khung cảnh kỳ diệu của ảo mộng.
Không lâu sau, bên ngoài
có tiếng bước chân, cánh cửa gỗ bị đẩy ra, một người đàn ông đi vào, mình mặc
áo chùng lụa màu đen, khuôn mặt rất bình thường, hình như đã uống khá nhiều,
bước chân lảo đảo.
Oanh Ca nhàn tản ngồi dựa
mép giường, xòe chiếc quạt trong tay, miệng mỉm cười, đôi mắt đen láy đong đưa.
Trông rất lả lướt phong tình, một vẻ phong nguyệt lão luyện, như người đàn bà
lăn lộn đã lâu ở chốn nguyệt hoa.
Người đàn ông nheo mắt,
đôi tay được chau chuốt kỹ càng âu yếm vuốt ve cái cổ thon nhỏ trắng bóc của
cô: “Nghe nói nàng là người nước Lầu? Con gái nước Lầu da thịt trắng như mỡ,
hôm nay phải cho ta xem...”. Tay anh ta hất tấm chăn mỏng phủ trên bụng cô, cúi
đầu thô bạo cắn vào bờ vai trắng tuyết của cô: “... Xem có phải da nàng cũng
trắng như mỡ”. Người đàn ông bắt đầu hôn từ bờ vai lên cổ, sắp phủ lên mặt cô,
nhưng Oanh Ca vẫn không nhúc nhích.
Tôi thán phục nhìn con
dao găm cắm vào lưng người đàn ông, hỏi Mộ Ngôn: “Huynh có nhìn rõ động tác rút
dao vừa rồi của Oanh Ca không? Thật nhanh gọn”.
Người đàn ông chết trên
người cô như vậy, cô lại chưa lập tức rút hung khí, mắt hoang mang nhìn đỉnh
màn, không thấy nhanh nhẹn như khi cắm dao vào lưng người đàn ông. Lát sau, như
sực nhớ ra điều gì, cô vội thu dọn hiện trường, xong xuôi ngoái lại nhìn khắp
một vòng, rồi vội vã nhảy qua cửa sổ theo lối cũ.
Mộ Ngôn lập tức kéo tôi
đuổi theo, phát hiện cô chưa ra khỏi đây, chỉ nhảy vào một gian phòng ở lầu
dưới.
Mộ Ngôn khẽ cười bên tai
tôi: “Đúng rồi, ai dám nghi ngờ cô gái ở bên cạnh Dung công tử lại là hung thủ
giết người, cho dù có người nghi ngờ, Dung Tầm cũng sẽ đứng ra làm chứng, cô ta
vẫn uống rượu, ngắm trăng họa vần với chàng ta, làm gì có thời gian đi hành
hung”.
Mộ Ngôn ôm eo tôi cùng
nhảy vào căn phòng Oanh Ca vừa vào, nói: “Đây chẳng có gì đáng gọi là cao mưu,
mà dựa vào thân phận của Dung Tầm nên không có sai sót gì, Oanh Ca cô nương lần
đầu giết người coi như làm rất tốt”.
Không ngoài dự đoán của
Mộ Ngôn, Dung Tầm quả nhiên ở trong phòng. Trên chiếc bàn tròn bằng gỗ đàn màu
tím viền đá vân hoa bày mấy món điểm tâm đơn giản, chiếc cốc bạc tinh xảo trong
tay chàng ta, rượu chưa hết nửa. Bóng chàng ta đổ dài trong ánh nến, in lên tấm
bình phong sau lưng vẽ cảnh đầm sen mùa thu dưới trăng. Ngoài cửa sổ, bắt đầu
nổi gió lớn, những ánh nến chao đảo suýt tắt, gió vừa thổi qua là tiếng sấm
đinh tai, ầm ầm như ở chân trời có vị thần ra sức khua chiêng.
Tôi cảm thấy hơi lạnh,
khẽ dựa vào Mộ Ngôn, chàng nhìn tôi, kéo tôi lại gần hơn.
Sấm chớp từng trận nối
nhau càng dầy đặc, Dung Tầm thong thả đặt chiếc cốc bạc trong tay xuống bàn,
cầm một đài nến vòng qua tấm bình phong đi đến bên giường. Ánh nến màu vàng
chiếu lên Oanh Ca nằm thu mình trên giường. Người cô run run, mắt lại mở rất
to, lông mày chau lại, răng cắn ngập vào môi.
Chàng để ngọn nến một
bên, giơ bàn tay mảnh khảnh vuốt ve đuôi mắt cô, dường như muốn lau những giọt
nước mắt vô hình, cô ngây ngây nhìn chàng: “Em giết người”. Cô giơ cánh tay
phải trắng như tuyết, đặt lên bờ vai Dung Tầm đang cúi xuống, “... Chính bàn
tay này”.
Một tiếng sấm xé tai, mưa
ầm ầm dội trên mái nhà, cô co người run rẩy, Dung Tầm hơi chau mày, nắm hai tay
cô, nằm nghiêng, đối mặt với cô, cái gối bằng gốm không đủ rộng, chàng dịch sát
vào cô, kéo thẳng đôi chân co quắp của cô, ôm cô vào lòng. Hai người đều mặc áo
tím, giống như hai con bướm tím ôm chặt nhau. Môi chàng kề sát mái tóc đen của
cô: “Em đã làm rất tốt”.
Cô lại lắc đầu, ngước mắt
nhìn chàng, nói khẽ: “Em dùng dao găm đâm một nhát trúng tim, lúc chết hắn ta
còn kinh ngạc trợn mắt nhìn em, máu hắn ta vọt ra, bắn đầy ngực em, cả đời em
sẽ không quên vẻ mặt hắn ta lúc đó, mạng sống con người mong manh như vậy, em cảm
thấy rất sợ, em sợ làm sát thủ, em sợ giết người”.
Cô gái nói ra những lời
yếu đuối như vậy, trên mặt lại không có bất kỳ biểu cảm nào, mắt vẫn mở rất to.
Nến cháy gần hết chảy
thành dòng xuống giá, chỉ còn lại đoạn lõi cuối cùng vẫn đang cố sức vùng vẫy,
phát ra ánh sáng yếu ớt. Chàng giơ tay vuốt tóc cô, lát sau cười nhẹ: “Năm xưa
lúc ta nhặt được em, em vẫn còn rất nhỏ, ta hỏi em có muốn theo ta không, em mở
đôi mắt to, trong veo gật đầu lia lịa, điệu bộ thật đáng yêu. Ta nghĩ em sẽ là
tác phẩm hoàn mỹ nhất của ta”.
Chàng hôn trán cô, ôm
chặt cô vào lòng, nói vào tai cô, “Nguyệt nương, vì ta, hãy trở thành sát thủ
tốt nhất của Dung gia này”.
Ngoài cửa sổ, mưa lạnh
heo hắt rơi trên những khóm trúc tháng hai, từng giọt từng giọt rơi vào lòng
tôi.
Sau đó cảnh trí thay đổi
rất nhanh.
Thế giới sát thủ vô tình,
chỉ có ánh đao lóe như chớp, vết máu loang và sự vùng vẫy của sinh mệnh trong
khoảnh khắc giữa sống và chết. Tôi nhìn thấy thế giới của Oanh Ca ngày càng
chìm sâu trong đó, eo giắt thanh đoản đao, như một đóa anh túc nở dần, cánh hoa
là ánh dao sắc lạnh, còn hàng lông mày rậm của cô lạnh dần trong những bóng
đao. Cảnh trí liên tục thay đổi giống như tấm gương vỡ trải trước mắt tôi, có
những tiếng nói lao xao không biết từ đâu truyền đến: “Cô nương áo tím lúc nào
cũng đi theo đình úy đại nhân lai lịch thế nào? Chậc, một khuôn mặt đẹp như
vậy”, “Hừ, một khuôn mặt đẹp như vậy, lại nghe nói giết người không chớp mắt,
đó là đệ nhất cao thủ của đình uý phủ, hộ vệ thiết thân của đình uý đại nhân”.
Những mảnh nhỏ trong tấm
gương vỡ đó cùng với tiếng người xa dần rồi mất hẳn, thay vào đó là một sân
khấu cao, một cô ca kỹ trang điểm cực kỳ xinh đẹp uốn mình như bông hoa lan,
mắt sóng sánh đong đưa, bội phần quyến rũ, giọng mềm như nước đang hát một ca
từ trong vở kịch tư xuân, ánh mắt quyến rũ mời gọi luôn hướng về Dung Tầm đang
nhàn tản dựa tay vào lan can trên đài cao. Khoảng cách hai người không xa, cũng
không gần, khi ánh mắt giao nhau, Dung Tầm mơ hồ mỉm cười.
Chính lúc đó, một cô gái
áo xanh bưng khay trà đi đến bên Dung Tầm, đột nhiên rút từ ống tay áo một con
dao găm sáng loáng. Cô gái còn chưa kịp ra tay đoản đao của Oanh Ca bên cạnh
phi ra cắm vào giữa mặt cô ta, thanh đao sắc lẹm cắm vào giữa hai hàng lông
mày, nhanh như tia chớp, khuôn mặt khá đẹp của cô gái bị xẻ làm hai nửa nhầy
nhụa, máu phun vào khuôn mặt làn với da trắng tuyết của Oanh Ca. Cô cũng không
hề chớp mắt. Trên đài cao chỗ Dung Tầm đang ngồi có tiếng kêu huyên náo, Oanh
Ca lại như không nghe thấy, rút đao về, lau vết máu vào vạt áo tím, ngẩng đầu
nhìn khuôn mặt trầm tư của Dung Tầm, mỉm cười với chàng: “Không sao chứ?”.
Dung Tầm liếc nhìn cô gái
áo xanh nằm gục trên đất, hai mắt vẫn mở trừng trừng, cau mày: “Nhát đao quá
hiểm”.
Oanh Ca cúi xuống, nhìn
ngắm vết đao trên mặt cô gái: “Như thế này không đẹp lắm, hơi làm người ta sợ,
sau này nên cắt đứt cổ thì hơn”.
Dung Tầm chìa tay kéo cô
đứng lên, chậm rãi nói: “Ta còn nhớ lần đầu tiên em giết người, sợ run nép vào
lòng ta”.
Cô mím môi: “Cuối cùng em
đã lớn”. Cô dựa người vào lan can chăm chú nhìn Dung Tầm, nói: “Em sẽ trở thành
sát thủ tốt nhất của Dung gia”. Nói xong má ửng hồng, nổi bật trên làn da trắng
đẹp mê hồn.
Dung Tầm lại không nhìn
cô, ngoái nhìn ra xa, chỗ đó gió xuân đang vờn ngọn cây cao, bên dưới là thảm
hoa đủ sắc màu, một đôi cò trắng cất tiếng kêu lanh lảnh, bay về phía chân trời
xanh xa tít.
Oanh Ca không thể trở
thành sát thủ tốt nhất của Dung gia, cũng như Quân Vỹ không thể trở thành tiểu
thuyết gia chuyên nghiệp, bởi vì hai người đều bị phân tâm. Một tiểu thuyết gia
chuyên nghiệp nên một lòng một dạ chuyên tâm viết tiểu thuyết, nhưng Quân Vỹ
ngoài viết tiểu thuyết còn phải làm một kiếm khách để an ủi người cha.
Cũng như vậy, sát thủ tốt
nhất nên một lòng một dạ chuyên tâm giết người, nhưng Oanh Ca ngoài giết người
còn phân tâm bởi chuyện yêu đương với Dung Tầm, sát thủ tuyệt nhiên không thể
có tình yêu, bởi giả sử sát thủ có người yêu, sát thủ sẽ bối rối khi người yêu
xuất hiện đúng lúc sát thủ sắp ra tay, vậy là công việc bị cản trở, mà một khi
công việc không thành, sát thủ coi như cũng khó giữ tính mạng.
Vì Dung Tầm, Oanh Ca
khiến lòng mình trở nên sắt đá, vì Dung Tầm cô mới giết người, nhưng trái tim
cô rốt cuộc vĩnh viễn không thể sắt đá đến mức một sát thủ cần có.
Đầu mùa hạ khi Oanh Ca
mười chín tuổi, bà nội qua đời, cô lại đang bận một vụ việc ở xa, không thể về
nhà nhìn mặt bà lần cuối, khi trở về Dung phủ, Dung Tầm đã cho người đón cô em
gái của cô ở quê lên kinh thành.
Đó là một mùa hè mát mẻ,
khắp đại viện của đình uý phủ nở đầy hoa tử dương, em gái vận đồ tang trắng toát,
khuôn mặt giống hệt cô, hai hàng nước mắt đầm đìa đứng sau bụi hoa, tay ôm bình
gốm đựng tro cốt bà nội.
Cô vội vàng trở về, vẫn
màu áo tím trang nhã, dính đầy vết máu chưa kịp thay, gió thổi qua có thể ngửi
thấy mùi máu tanh trên người cô. Cô em gái mím môi, điệu bộ giống hệt cô lúc
mười lăm tuổi, vừa yếu đuối vừa kiên cường, lao vào tay cô, nghẹn ngào: “Bà rất
muốn gặp chị, bà bảo nhất định phải gặp chị lần cuối mới nhắm mắt được”. Cô run
run giơ tay đón bình tro, mặt không biểu cảm, hồi lâu sau mới nói: “Để bà yên
tâm ra đi”.
Dung Tầm thong thả bước
đến, nhìn hai chị em Oanh Ca ôm nhau, nói nhẹ nhàng: “Em mệt rồi, về nghỉ đi”.
Cô ngây người, buông em
gái ra, tay vẫn ôm bình tro, chàng chăm chú nhìn cô: “Nghe nói ba ngày nay em
không chợp mắt, việc hậu sự của bà nội em, ta sẽ lo liệu”.
Nói xong, chầm chậm quay
đầu nhìn em gái cô, lại quay sang nhìn cô, “Vẫn tưởng tên cô ấy là Oanh Vũ,
không ngờ lại là Cẩm Tước”. Cẩm Tước mặt vẫn còn nước mắt ngẩng phắt đầu, tròn
mắt nhìn chàng, một đôi bướm trắng từ trong khóm hoa tử dương bay ra, bắt gặp
ánh mắt đó của cô, Dung Tầm ngẩn người.
Hai con bướm trắng đùa
giỡn trên khóm hoa bỗng chốc bốc cháy thành dải khói đen, lòng tôi đột nhiên
trống rỗng, bỗng có một dự cảm chẳng lành, có lẽ cảnh ngộ này chính là nỗi khổ trong
lòng Oanh Ca, còn đối với tôi phút nguy hiểm nhất cuối cùng đã đến.
Trong Hoa Tư mộng do tôi
dệt ra, nơi hạnh phúc dừng chân chính là đau khổ, khi hy vọng tuyệt đỉnh chính
là tuyệt vọng, tất cả vẫn rõ ràng như logic hiện thực. Nhưng trong cuộc sống, người
ta thường dùng những phương thức cực đoan để chống lại sự bất lực của mình
trước hiện thực.
Giống như tôi thích Mộ
Ngôn, nhưng lại không có được chàng, vậy là tôi muốn giết chàng, chia cho chàng
nửa viên giao châu để chúng tôi vĩnh viễn bên nhau, nhưng đây là ý nghĩ điên
rồ. Chỉ cần còn lý trí, tôi sẽ không làm như vậy.
Nhưng hàng ngày tôi vẫn
có ý nghĩ đó, đành thể hiện trong giấc mơ, sau đó trong giấc mơ tôi trở thành
kẻ giết người, đó chính là dùng hành động cực đoan chống lại hiện thực. Hoặc là
tôi phải độc ác hơn một chút, cảm thấy số phận mình quá thê thảm, muốn tất cả
thiên hạ đều phải cùng chết với tôi, vậy là trong giấc mơ của tôi, xuất hiện
cảnh trời long đất lở, biển cạn, đá mòn, đó chính là dùng phương thức cực đoan
chống lại hiện thực... đây cũng là nguyên nhân Quân sư phụ khuyên tôi không nên
tùy tiện nhập vào giấc mơ của người khác, giả sử tôi nhập vào giấc mơ của người
nào đó, trong mơ người đó đang mơ cảnh trời long đất lở để xả thù hận trong
lòng, tôi đột nhiên xuất hiện, không may bị đá lớn rơi trúng người, đè nát viên
giao châu trong ngực, vậy là tôi chết chắc.
Giấc mơ của người sống
đối với họ chỉ là mơ, nhưng với tôi lại vô cùng nguy hiểm. Giả sử tôi chết
trong giấc mơ của họ, có nghĩa là sinh mệnh tôi chấm dứt thực sự.
Oanh Ca trong giấc mơ lúc
này muốn hủy diệt tất cả, tôi không biết hy vọng và đau khổ của cô là gì, chỉ
biết cô lựa chọn hủy hoại tất cả để kết thúc mọi hạnh phúc đau khổ của mình,
còn tôi phải tìm cách nhanh chóng đưa cô ra khỏi giấc mơ trước khi cô làm việc
đó.
Nhưng rõ ràng đã không
kịp, chính lúc tôi giằng khỏi tay Mộ Ngôn chạy thục mạng về phía Oanh Ca, trời
đất đột nhiên một dải trống không, không gian bao la trong chớp mắt đã nhấn
chìm khóm hoa tử dương trắng, mây đen như mực cuồn cuộn phía chân trời, ào ạt
tản ra che kín bầu trời, đây chính là ảo mộng, một khắc trước vẫn còn là cuộc
sống hồng trần tràn đầy sinh khí, một khắc sau trời đất đã đổi thay, chỉ còn
một màu đen như mực.
Bóng Oanh Ca biến mất
trong màu đen đó, tôi đột nhiên hoang mang, dừng lại không biết nên chạy hướng
nào, bỗng cả người bị kéo giật về sau, cánh tay áo màu lam quàng vào cổ tôi,
hơi thở của Mộ Ngôn đã sát bên tai, nặng nề đầy nộ khí: “Chạy nhanh thế, không
biết đang rất nguy hiểm sao?”.
Tôi nắm tay áo chàng chạy
thục mạng, chỉ tay về phía trước: “Ô, thần kỳ quá, huynh xem, đó là gì vậy?”.
Chàng dừng lại, nắm cánh
tay tôi đi về phía ánh sáng đột nhiên hiện ra trong mây đen. Trong màn đêm đen
hun hút trống vắng như cánh đồng hoang, chỉ nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi
bì bõm như đang giẫm lên nước.
Màn đêm đen kịt rạn dần,
trên trời hiện ra một vầng trăng bạc rất tròn. Trong ánh trăng trắng lạnh, một
cây anh đào lớn ngả nghiêng trong gió, từng cánh hoa phấn hồng bay lả tả như
những bông hoa tuyết màu hồng.
Oanh Ca mình vận áo tím,
tay cầm bình rượu nhàn tản ngồi dựa gốc cây, hơi ngẩng đầu nhìn người đàn ông
áo trắng vẻ mặt nghiêm lạnh đứng trước mặt. Mộ Ngôn đã được coi là vô cùng tuấn
tú, nhưng người đàn ông này còn tuấn tú hơn, cả thân mình như khoác ánh trăng
bạc, sắc mặt càng lạnh lùng.
Gió lạnh tháng ba mang
theo cánh hoa anh đào và giọng nói Oanh Ca truyền đến: “Nếu đường đao của bệ hạ
nhanh hơn thiếp, ngoài chấp nhận những nghi thức cung đình phiền hà, thiếp cũng
sẽ tình nguyện hầu bệ hạ chuyện gối chăn...”.
Lời cô chưa dứt, một
đường đao dài đã vạch một đường vòng cung lóe sáng trong không trung, rồi nhanh
chóng thu về, người đàn ông vẫn đứng bất động, dải lụa hồng trên búi tóc cuốn
cao của cô đứt phựt cùng với âm thanh sắc gọn, mái tóc đen óng như tơ xõa vuống
vai, mấy cánh hoa anh đào bị chém đứt, tơi tả bay trước ngực cô.
Cô sững người nhìn chàng
một lát, cười khanh khách: “Hóa ra trường đao ở thắt lưng chàng không phải đeo
làm vì”.
Đôi mắt đen của chàng
sóng sánh phong tình, nhưng vẫn trầm mặc không hề suồng sã. Chàng bước lên hai bước,
hơi cúi người chìa tay cho cô: “Vụ cá cược vừa rồi của phu nhân, quả nhân đã
thắng”.
Cô giơ tay, làm như định
nắm tay chàng, nhưng lại chộp lấy vai chàng, tay vừa giơ lên, chớp mắt đã kéo
tuột dải lụa trên búi tóc chàng. Cô cười nhạt, vỗ tay: “Như thế mới công bằng”.
Trong cánh hoa anh đào
phơ phất, tay cầm bình rượu cô loạng choạng bước đi, nụ cười trên mặt như có
như không. Chàng đi sau, sắc mặt lạnh lùng, nhìn thân người lảo đảo xiêu vẹo
của cô cũng không dìu đỡ. Lớp mây dày tản ra, có tiếng hát du dương vọng ra sau
đám mây: “Chuyện xưa như một tiếng than, mộng vàng tan vỡ hồng trần hư không,
tình sơn nghĩa hải trầm luân, ngoái đầu phút chốc đã thành thiên thu...”.
Mộ Ngôn hỏi tôi: “Có nên
đi theo không?”.
Tôi lắc đầu. Mộng cảnh
này đã quá nguy hiểm, sau khi người đàn ông áo trắng xuất hiện tất cả cơ hồ
đang phát triển theo hướng tốt. Tôi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh có biết người đàn ông
áo trắng là ai không?”.
Chàng dừng lại nói:
“Trịnh quốc tiên vương, Cảnh hầu vương Dung Viên, thúc phụ cùng tuổi với Bình hầu
vương Dung Tầm”.
Tôi còn chưa kịp đưa Oanh
Ca thoát khỏi giấc mơ, giấc mơ đó của cô đã tự kết thúc trong hòa bình, bị ném
ra khỏi giấc mơ quả thực khó chịu, điều này có thể đoán được qua cái cau mày
của Mộ Ngôn, tôi quả không có cảm giác gì, nhưng để chàng khỏi nghi ngờ, cũng
đành giả bộ khó chịu.
Khi Mộ Ngôn đã trở về
phòng của mình, Oanh Ca mới tỉnh hoàn toàn, mắt mơ màng nhìn tôi: “Tài cởi trói
của cô cũng không tồi”. Tôi nghĩ quả thực không tồi, lúc nhỏ tôi và Quân Vỹ
thường hay chơi trò đó, dù anh ta trói kiểu gì tôi cũng nhẹ nhàng thoát được,
huống hồ cô chỉ trói sơ sài.
Tôi cầm đèn đi lại gần
cô, hỏi: “Cô vừa mơ thấy gì?”.
Cô cau mày, trầm tư một
lát, cười: “Phu quân của tôi”. Lúc sau, lại nói: “Người ta bảo chàng đã chết,
nhưng tôi không tin”.
Trăng lạnh gió thanh, cô
ngồi trên giường, co một chân gục vào đầu gối, lại mỉm cười như thật như ảo:
“Còn mơ thấy rất nhiều chuyện cũ, miên man mãi, đột nhiên nhớ ra người ta bảo
phu quân tôi đã chết, tôi liền nghĩ, nếu phu quân quả thực đã xa tôi mãi mãi, vậy
tôi còn cần đến giấc mơ an ủi này làm gì? Chi bằng phá hủy cho xong”.
Cô ngẩng đầu nhìn tôi:
“Cô thấy đúng không?”.
Tôi gật đầu, “Đúng”. Quả
thật trong lòng tôi đã nghĩ như vậy, nếu có ngày Mộ Ngôn rời xa tôi, và giả sử
tôi có sức mạnh hủy diệt thế giới này, nhất định tôi sẽ hủy diệt tan tành,
nhưng may cuối cùng không phải chàng rời xa tôi trước, mà chính tôi rời xa
chàng trước.
Lần đầu tiên tôi thấy may
mắn vì mình đã chết.