Ngày hôm sau trời nổi gió nam, gió thổi từ nước Triệu
đến nước Trịnh, cũng chính là lộ trình chúng tôi định đi. Nếu đi bằng thuyền sẽ
thuận chiều gió, nhanh hơn nhiều. Tôi và Mộ Ngôn đều cho rằng, so với đi tìm
Thập Tam Nguyệt theo kế hoạch đã định thì thà lẳng lặng đi theo Oanh Ca biết
đâu lại tìm ra manh mối sớm hơn.
Nhưng Oanh Ca lại đi
đường thủy ngược chiều gió từ Trịnh đến Triệu, lẽ ra có thể cưỡi sóng đạp gió
lướt băng băng cuối cùng lại chịu cảnh nhích từng bước. Lại còn một khó khăn
khác, chính là lúc này chỉ có một chuyến thuyền đi nước Triệu, việc theo dõi
Oanh Ca chắc chắn rất dễ bị phát hiện.
May có Mộ Ngôn thân thủ
khá trên đường đi mới không bị mất mục tiêu. Oanh Ca đang lơ đãng đứng tựa lan
can thuyền, đầu đội mũ sa rộng, từng lớp rèm sa mỏng dài, màu tím xung quanh
vành mũ rủ xuống tận đầu gối, bao bọc khuôn dung và vóc dáng yêu kiều, chỉ lộ
một đường chân váy màu tím bạc và suối tóc dài chấm gót chân.
Tôi hơi ngạc nhiên, đêm
qua dưới ánh nến mờ, quả thật không nhận ra mái tóc cô lại dài như vậy. Hơn nữa
hôm nay dáng điệu và trang phục của cô lại ung dung trang nhã đến thế, giống
hệt tiểu thư quý tộc của một gia đình gia giáo nghiêm khắc, trang trọng đi du
ngoạn, có lẽ ăn vận như vậy là để tránh kẻ thù. Nếu không theo sát suốt dọc
đường, chắc tôi đã không thể tin cô tiểu thư kiêu sa trước mặt chính là sát thủ
áo tím đã kề dao vào cổ tôi đêm qua.
Lúc sắp xuống thuyền, Mộ
Ngôn giữ tôi lại, nói là cần đi làm một việc quan trọng. Tôi đành đứng đợi, lúc
thuyền sắp nhổ neo mới thấy chàng xách một cái lồng chim quay lại. Lồng chim
bằng gỗ mun, trên chiếc cột đơn chạm trổ hoa văn rất tinh xảo, bên trong có một
con chim màu đen thoạt nhìn hơi giống quạ, nhưng hai bên mỏ có đường viền màu
tím hồng, khác hẳn quạ.
Bước lên thuyền, để không
bị Oanh Ca chú ý, chúng tôi tìm một góc vắng ngồi hóng mát. Cảm thấy buồn tẻ
tôi ngồi trên ván thuyền bắt đầu ngắm nghía con chim đen trong lồng, ngắm một
lúc, hỏi Mộ Ngôn: “Vừa rồi huynh đi mua con chim này phải không? Mua để làm
gì?”.
Chàng cúi đầu nhìn tôi,
thong thả đáp: “Mua cho cô chơi, thích không?”.
Lòng run run, tôi nắm
chặt con hổ ngọc trong ống tay áo, sực nhớ lần trước chàng dùng con hổ này để
đổi lấy cái nhẫn ngọc của tôi, do dự một hồi lâu, lại rụt rè hỏi: “Không phải
huynh định dùng con chim quèn này để đổi con hổ ngọc chứ?”.
Con chim quèn trong lồng
mở to mắt, kêu éc một tiếng. Mộ Ngôn ngây người, ánh mắt bắt gặp ánh mắt tôi,
miệng nhoẻn cười.
Tôi lườm chàng, ngoảnh
mặt đi: “Con chim quèn này chẳng đáng tiền”.
Lời vừa dứt, túm lông vũ
trên đầu con chim dựng ngược, nó xông về phía tôi kêu một tiếng. Tôi bực mình
khẽ đẩy cái lồng ra xa, tay nắm chặt con hổ ngọc, không biết thái độ của Mộ
Ngôn thế nào.
Thực ra con hổ này tôi đã
gần như cưỡng đoạt của chàng, cho dù Mộ Ngôn đòi lại cũng đành chịu. Hơn nữa
đây lại là món đồ quý, chàng có thể đòi lại bất cứ lúc nào. Nhưng tôi vẫn trợn
mắt: “Tuyệt đối không đổi đâu, tôi không thích con chim quèn này tẹo nào”.
Con chim quèn kích động
nhảy lên, đập cánh loạn xạ, kêu ầm ĩ, mọi người trên thuyền đổ mắt nhìn lại, Mộ
Ngôn kéo tôi đứng lên, lúng túng: “Vừa cảm thấy trông cô ra dáng một cô gái giờ
lại trẻ con rồi”.
Tôi nghĩ đây không phải
là trò trẻ con, mà là quyến luyến, những bậc chân tu gọi là lòng tham, cho là
xấu, nhưng lòng tham của tôi bé nhỏ như vậy, ngoài làm tổn thương chút tình cảm
của con chim, thật sự chẳng hại đến ai, cho nên tuyệt đối chẳng có gì là xấu.
Tôi và Mộ Ngôn cuối cùng
cũng sẽ xa nhau, tình cảm của tôi với con hổ ngọc chính là tình cảm với Mộ
Ngôn, theo cách nói văn chương có thể gọi là gửi gắm tình cảm, nhưng có lẽ điều
này không ai hiểu, chỉ có mình tôi biết.
Tôi nhìn Mộ Ngôn, tôi
không biết chàng thích một cô gái như thế nào, tôi vẫn luôn muốn chàng nhìn
thấy tôi trong dáng vẻ đẹp nhất, nhưng lúc nào cũng không như ý, khiến chàng
cảm thấy tôi bướng bỉnh, cảm thấy tôi chỉ là đứa trẻ. Tuy là một người chết,
không có tim tôi vẫn thấy đau lòng, quả là bất lực.
Phía xa xa là trời xanh
nước biếc, Mộ Ngôn nhìn tôi, tôi sịt mũi tỏ vẻ phấn khởi, định chuyển chủ đề
câu chuyện, bỗng bị chàng kéo mạnh vào lòng. Má ép vào ngực chàng, Mộ Ngôn ôm
rất chặt, khiến tôi muốn ngoái đầu cũng khó.
Lòng run run, ý nghĩ đầu
tiên là Mộ Ngôn có lẽ cũng hiểu lòng tôi, còn chưa kịp nảy sinh ý nghĩ thứ hai,
giọng chàng đã từ trên đầu vọng xuống: “Đừng động đậy”. Tiếp đó là tiếng cười
rất nhỏ: “A Phất, người cô muốn tránh cũng ở trên thuyền này”.
Tôi nép vào ngực chàng,
vừa thất vọng thầm nghĩ mình đúng là khéo suy diễn, vừa lục tìm trong đầu xem
gần đây người mình muốn tránh là ai, bất giác hỏi: “Huynh nói là ai?”.
Giọng chàng thản nhiên:
“Bình hầu vương Dung Tầm”.
Tôi vội vàng chúi sâu hơn
vào ngực chàng.
Trên sàn thuyền truyền
đến những rung chấn mạnh mẽ, đều tăm tắp, chắc chắn phải là bốn người trở lên
bước chân đều tăm tắp mới đạt hiệu quả như vậy, tiếng bước chân từ sau lưng
vọng lại, lát sau, Mộ Ngôn kéo tôi ra, đoàn tùy tùng của Dung Tầm đã lên lầu .
Tôi vô thức nhìn về phía
Oanh Ca ngồi tựa mạn thuyền phía xa, tưởng là lần này cố nhân tương phùng, có
thể hé ra manh mối nào đó, nhưng cô vẫn ngồi ung dung, cơ hồ không thay đổi.
Điều thần tình là ánh mắt
Mộ Ngôn cũng đánh về phía Oanh Ca, nhưng chỉ thoáng qua, cuối cùng quay lại nói
vẻ dửng dưng: “Đừng nhìn, Dung Tầm ở trên lầu, không chạm trán Oanh Ca cô
nương”. Chàng hơi dừng, lại tiếp:
“Trước khi lên thuyền tôi
nghe được một bí mật cung đình rất thú vị, có muốn nghe không?”.
Tôi vui vẻ gật đầu lia
lịa.
Trong gió sông mang hơi
lạnh, Mộ Ngôn kể cho tôi nghe bí mật cung đình thú vị đó, cũng như mọi bí mật
khác, thực ra chẳng có gì là bí mật, cũng chẳng có gì thú vị, nhưng cái hay là
do chuyện xảy ra đã lâu, tình tiết phức tạp, tôi vẫn hào hứng lắng nghe.
Bí mật này truy về Trịnh
hầu vương hai đời trước, tức là cha của Cảnh hầu Dung Viên, ông nội của Bình
hầu Dung Tầm.
Theo tổ chế xa xưa, Trịnh
hầu vương lúc đầu lập con trưởng là người kế vị, chính là thế tử, cha của Dung
Tầm, nhưng do lão Trịnh hầu vương là người phúc dày, lập thái tử đã ba mươi năm
vẫn không thấy dấu hiệu cưỡi hạc tây quy, khiến cha Dung Tầm vô cùng sốt ruột,
mưu hoạch đã lâu, cuối cùng vào một đêm tối trời lặng gió quyết định phản loạn
bức cung, kết cục tất yếu là bị giết, để lại đại gia đình thế tử bị lưu đày đến
miền tây bắc xa xôi, bao gồm cả Dung Tầm mới mười bốn tuổi văn võ song toàn nức
tiếng vương đô.
Lão Trịnh hầu vương một
đời phong lưu, con cái rất nhiều, nhưng dòng đích đa phần là gái, chỉ có bốn
trai, trong đó hai người đã chết yểu, chỉ còn con trưởng và con út. May con
trưởng mặc dù phạm tội phản nghịch, nhưng con út Dung Viên xem ra có tài kinh
bang trị quốc hơn con trưởng. Năm sau, lão Trịnh hầu vương bố cáo thiên hạ lập
con út Dung Viên làm thế tử, trở thành người kế thừa vương vị sau này.
Năm đó, Dung Viên mười
lăm tuổi, ngoài danh hiệu công tử đẹp nhất Trịnh quốc còn được mệnh danh là
Trịnh quốc đệ nhất đao thủ. Sau chuyện con trưởng phản loạn bức cung, lão Trịnh
hầu buồn phiền mãi, trở thành mối tâm bệnh lớn, hai năm sau qua đời, Dung Viên
mười bảy tuổi lên ngôi, trở thành Trịnh quốc Cảnh hầu vương.
Sau khi Cảnh hầu vương kế
vị, rất thích tài năng của Dung Tầm, nhân lúc quốc gia cầu hiền, liền triệu đại
gia đình huynh trưởng từ miền tây bắc trở về vương đô, vừa trấn áp, vừa trọng
dụng. Dung Tầm quả không phụ lòng thúc phụ, chức đình úy làm rất tốt, quan hệ
chú cháu vô cùng hòa hợp, sáu năm trước, Dung Tầm còn tặng thúc phụ một đại mỹ
nhân, về sau được phong là Như phu nhân.
Nghe dân gian đồn, Dung
Viên vốn lạnh tình quả dục lại tỏ ra rất mực sủng ái mỹ nhân mà người cháu
tặng, mỹ nhân đó trong lúc thưởng hoa lãm nguyệt đã làm một câu thơ, “Cung hoàn
thâm thâm nguyệt dung dung”(*). Dung Viên bèn đổi tên cung của mỹ nhân đó thành
Dung Nguyệt cung.
Còn Trịnh sử lại ghi Dung
Nguyệt cung phu nhân sau khi vào cung chưa đầy hai năm liền được phong chính
cung phu nhân, phong hiệu Tử Nguyệt, mẫu nghi Trịnh quốc. Có vẻ là một giai
thoại phong lưu của vương thất, nhưng chưa quá một năm sau, Tử Nguyệt phu nhân
luôn được Cảnh hầu vương sủng ái lâm bệnh qua đời.
Sau khi Tử Nguyệt qua
đời, Cảnh hầu phiền não bi thương, cuối năm đó bệnh nặng quyết định nhường
ngôi, do không có con trai bèn truyền ngôi cho cháu ruột là Dung Tầm, năm sau
tạ thế ở hành cung, tuổi mới hăm bảy.
Buổi tối hôm Cảnh hầu
vương qua đời, hành cung Đông Sơn bốc cháy dữ dội, lửa ngút trời, không chỉ
hành cung cháy trụi ngay cả anh đào trồng trên núi cũng cháy thành tro, ly kỳ
hơn nữa là từ đó về sau anh đào ở đó không bao giờ ra hoa đỏ nữa.
Nghĩ lại cảnh trong mơ,
Oanh Ca khuôn mặt xinh đẹp ửng hồng nói với Dung Tầm: “Em sẽ trở thành sát thủ
tốt nhất của Dung gia”.
Nghĩ đến bóng cô loạng
choạng dưới bầu trời lả tả cánh hoa anh đào, tôi hỏi Mộ Ngôn: “Mỹ nhân mà Dung
Tầm tặng Dung Viên sau được phong Tử Nguyệt phu nhân chính là Oanh Ca phải
không?”.
Chàng phe phảy cái quạt
gật đầu: “Rõ ràng”.
Tôi băn khoăn: “Vậy cái
chết của Tử Nguyệt phu nhân sau này là thế nào?”.
Mộ Ngôn ngập ngừng: “Theo
chiếu bố cáo với thiên hạ, Cảnh hầu vương chủ động nhường ngôi, nhưng trước kia
có tin đồn chính Bình hầu ép Cảnh hầu thoái vị, nguyên do cũng vì một cô gái”.
Chàng mím môi cười. Tôi rất thích cử chỉ đó của chàng.
“Cô gái đó chính là Tử
Nguyệt phu nhân. Đây quả là một tin thú vị, nhưng không biết thật giả thế nào,
nghe đồn Bình hầu đã kề kiếm vào cổ Cảnh hầu, hỏi một câu: ‘Tôi đã trao nàng
nguyên vẹn cho thúc, tại sao thúc lại giày vò nàng tan nát’, thì ra ngày xưa
vẫn cho là một đồ vật, hôm nay mới biết là một mỹ nhân”.
Tôi lẩm bẩm: “Nhưng chàng
ta đã đem cô ấy tặng người khác, còn trách ai? Thật không thể hiểu, nếu có
người bảo tôi đem người trong lòng tặng cho kẻ khác, đánh chết tôi cũng không
chịu”.
Mộ Ngôn liếc tôi: “Sao?
Không chịu đem ai đi tặng?”.
“Chàng chứ ai”, mấy chữ
đó đã ở trong miệng, ngập ngừng một lát, dưới cái nhìn ý tứ mập mờ của chàng,
tôi đổi giọng: “Tiểu Hoàng...”.
Cái quạt đập lên đầu tôi,
“Lại nói bừa”.
Phía xa núi trập trùng
nhấp nhô, sương khói vấn vít, khu rừng cây trên núi xanh ngắt thấp thoáng trong
sương. Mộ Ngôn lơ đãng nói: “Con người ta thường có rất nhiều ước vọng, nhưng
trở thành hiện thực không nhiều, cho nên cần phân ra cái gì cần nhất, cái gì
tương đối cần, cái gì có thể có, có thể không...”.
Tôi nghĩ một lát, “Ý
huynh là chỉ cần đạt được cái mình cần nhất?”.
Chàng cười: “Không, cái
cần nhất và cái tương đối cần đều phải đạt được, ví như Bình hầu, lúc đầu đem
Oanh Ca cô nương tặng cho người khác có lẽ cảm thấy Oanh Ca cô nương không quan
trọng lắm”.
Tôi nhìn chàng: “Ý huynh
nói nếu huynh là Dung Tầm sẽ không mang Oanh Ca đi tặng, nhưng Oanh Ca không
phải là thứ quan trọng nhất của huynh cơ mà?”.
Chàng phe phảy quạt như
cười như không nhìn tôi: “Ai nói cái quan trọng nhất chỉ có một?”.
Tôi hiểu lơ mơ, nhưng
chàng không nói gì nữa.
Nhìn lên phía mui thuyền,
Oanh Ca không biết đã đi đâu, thuyền ra giữa sông, gió mạnh dần, tôi tìm một
chỗ vắng, lấy mặt nạ da người đeo lên mặt, Mộ Ngôn ngắm nghía nói: “Đây là
khuôn mặt thật của cô sao?”. Tôi nghĩ, nếu không có vết sẹo trên đầu đó, khuôn
mặt tôi còn đẹp hơn nhiều, nhưng nghĩ lắm ích gì, quá khứ tốt đẹp nên quên hết
thì hơn, để khỏi thêm buồn.
Tôi lắc đầu: “Không, tôi
rất xấu, không muốn để ai nhìn thấy”.
Thực ra tôi chỉ không
muốn để chàng nhìn thấy.
Bước lên lầu hai, nhìn
thấy Dung Tầm toàn thân áo tím ngồi dựa lan can chạm trổ hoa văn, uống rượu một
mình. Đây là quân vương Trịnh quốc, lúc này lại xuất hiện trên chiếc thuyền
bình dân ở biên giới Trịnh, Triệu, thật là điều khó tưởng tượng. Cẩm Tước, Oanh
Ca, Dung Tầm, tất cả lần lượt xuất hiện trước mắt tôi, giống như một lớp kịch
đã diễn xong, lại giống như đóa hoa mùa thu chưa nở hết đã tàn, có gì đó khiến
người ta muốn kêu lên, khiến người ta muốn dừng lại cũng không được, nhưng vẫn
không tìm ra bất cứ manh mối nào.
Dung mạo của Dung Tầm
phía trước vẫn tuấn lãng đoan nghiêm như trong giấc mơ của Oanh Ca, những ngón
tay dài cầm chiếc cốc gốm Long Tuyền màu xanh trông thanh tao nho nhã như nét
cọ trong tranh thủy mặc.
Tôi vẫn chưa tìm được chỗ
ngồi, đột nhiên nghe thấy dưới lầu có tiếng ẩu đả liền nhìn xuống, mặt nước
sông bên ngoài thuyền đục ngầu, vọt cao cả trượng, khách trên thuyền kinh sợ
tản ra tứ phía, dưới sông đột nhiên vọt lên mấy sát thủ áo đen bịt mặt. Thích
khách áo đen thế hung mạnh, lưỡi kiếm lạnh lùng ép về phía cô gái áo tím dáng
yêu kiều trên thuyền.
Tôi đã nhìn thấy Oanh Ca
giết người không chỉ một lần. Nhưng đây là lần đầu nhìn thấy cô giết người bằng
trường đao, bóng thanh đao dài hẹp lóe như tia chớp từ không trung thu về, tư
thế vẫn không đổi, nhưng đều là nhát đao chí mạng, chính là chiêu thức Dung
Viên đã dùng dưới tán anh đào.
Ngọc thạch màu lam khảm
trên chuôi đao lóe lên lóng lánh trong chùm tia nước trắng xóa bắn lên từ dưới
sông, tương phản với màu đỏ tươi của máu vọt ra từ cổ người áo đen, tạo nên một
vẻ đẹp yêu ma. Còn Oanh Ca toàn thân áo tím vẫn ung dung đứng trên mũi thuyền,
trông tựa bức sa nhẹ rủ trên mũi thuyền, mũi trường đao chạm đất, giết chết sáu
người, thanh đao sắc chỉ dính một vết máu nhạt, quả là thanh đao tốt.
Xung quanh sặc mùi máu
tanh, nhưng trên người cô lại không một vết máu. Một thủ pháp giết người sạch
tinh nhanh gọn.
Tìm được chỗ quan sát,
tôi và Mộ Ngôn đều nhìn chăm chú, chỉ tội cho một số khách trên thuyền sợ run
lập cập, trong gió đã có hơi lạnh, trời sắp mưa, trời nước tĩnh lặng. Trong cái
tĩnh lặng mênh mông, tiếng cười của Oanh Ca đột nhiên vang lên lạnh như nước:
“Tại hạ đã được giáo huấn sát nhân cũng là một nghệ thuật, phải nhanh và gọn,
đó là chính cái đẹp của sát nhân. Hôm nay chúa thượng các ngươi cử đến nhiều
người như vậy để giết một tiểu nữ yếu đuối, tha lỗi cho tại hạ không chú ý tới
vẻ đẹp của sát nhân”.
Một tiếng “choang” vang
lên, tôi ngoái nhìn, thấy Dung Tầm bàn tay vẫn giơ ra như nắm cốc rượu, nhưng
trong tay lại chẳng có gì, trên nền những mảnh gốm xanh vỡ nát, ánh mắt chàng
ta theo dõi sát Oanh Ca chiến đấu với những người áo đen, khuôn mặt lạnh băng
lộ vẻ thất kinh.
Oanh Ca đã phóng lên
không, bóng trường đao lại lóe lên trong chùm tin nước vọt cao, dáng cô phóng
lên giống như con bướm tím phá kén chui ra. Tôi đến gần Mộ Ngôn: “Cô ấy sẽ bị
thương”, mối lo của tôi chưa bao lâu đã được giải tỏa khi mấy hộ vệ mặc thường
phục bên cạnh Dung Tầm nhảy xuống tầng một tham chiến. Tôi chăm chú nhìn Oanh
Ca, mặc dù đã thấy Dung Tầm tham chiến, tay vung trường đao vào người áo đen
vẫn không một chút bối rối. Cô quả là một sát thủ đầy bản lĩnh.
Khi người áo đen cuối
cùng mất mạng rơi xuống nước dưới trường đao của Oanh Ca, trường kiếm trong tay
Dung Tầm lại lật trở lại hướng vào mũ sa của cô, cự ly nửa cánh tay, vốn không
thể sơ sẩy, nhưng cô đã khéo léo xoay người đứng trên mép thuyền, sau lớp mạng
không nhìn rõ nhưng có lẽ cô đang quan sát người đàn ông trước mặt. Gió sông ù
ù, rèm sa bay phần phật, tựa như có một dải mây màu tím bỗng hé ra ở đường chân
trời lúc ngày tàn.
Trường dao trong tay cô
kề cổ Dung Tầm, chàng ta tiến lại gần, chỗ lưỡi kiếm cứa vào da rỉ ra một vệt
máu. Trong tiếng gió ù ù vị công tử phong lưu hơi cau mày, nói như than: “Là em
sao, Nguyệt nương?”. Thanh đao trong tay cô thu lại, không trả lời, quay người
nhảy xuống mặt sông sủi nước đục ngầu, Dung Tầm vội giơ tay kéo lại, nhưng chỉ túm
được một mảnh rèm sa. Một tiếng ùm vang lên, thị vệ bên cạnh kêu to: “Mau cứu
lão gia, lão gia không biết bơi!”.
Tôi đứng ngây ra nhìn,
tất cả cảnh tượng vừa diễn ra chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “quá đẹp” rồi lập
tức lại nghĩ hỏng rồi, “Chúng ta đã mất dấu vết Oanh Ca”.
Mộ Ngôn đã ngồi xuống rót
trà vào cốc, nói vẻ nghiêm túc: “Oanh Ca cô nương mặc dù là sát thủ cao cường,
nhưng với trình độ theo dõi của tôi, có lẽ không thành vấn đề, vấn đề là vướng
cô, trình độ phải chia đôi, thực lực giảm không ít”.
Tôi buông chiếc cốc quay
người đi xuống lầu: “Núi cao không đổi, sông dài vẫn chảy, hôm nay chia ly, sẽ
là mãi mãi”. Bị chàng kéo lại, “Tôi không định theo cô ta suốt dọc đường, một
sát thủ như vậy, chỉ cần cô ta hơi sinh nghi là lập tức thoát khỏi chúng ta,
như vậy chẳng phải bao công sức vừa rồi đi tong, cho nên mới mua con chim này,
cô có nghe nói thuật theo dõi bằng cách dùng bột hoa tây mộc chưa, giấu bột đó
trong người kẻ bị theo dõi, dù người đó đến chân trời góc bể con chim này cũng
sẽ theo mùi hoa mà tìm được”.
Tôi lắc đầu: “Chưa từng
nghe nói”.
Chàng gật đầu: “À, cũng
phải thôi, đó là thuật theo dõi do tổ tiên chúng tôi truyền lại, người ngoài
làm sao biết”.
Tôi “...”.
Thuyền cập bến, chỉ thấy
Dung Tầm, không thấy Oanh Ca.
Địa điểm đến là thành Tùy
Viễn ở biên giới nước Triệu, chúng tôi đi vào thành, chờ Oanh Ca đến, nghe Mộ
Ngôn nói, nếu Oanh Ca vào thành, con chim nhất định phát hiện được. Nhưng điều
rắc rối là, nếu gặp chim mái con chim đực trong lồng cũng có phản ứng như vậy,
thật hết cách, đành chờ xem sao, bởi vì loài chim hiếm này đâu dễ gặp.
Tôi cảm thấy nếu đi lâu
dài với chúng tôi, nhất thiết phải đặt cho con chim một cái tên, nghĩ một lát,
tôi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh thấy gọi nói là Tiểu Hắc được không?”.
Chàng trợn mắt “Cô dám?”.
Mới sực nhớ ra, hồi đầu
tôi đặt tên cho chàng là Tiểu Lam.
Sau đó không lâu, lại
nhận được thư của Quân Vỹ do chim bồ câu đưa đến. Mộ Ngôn tỏ ra kinh ngạc khi
thấy tôi có thể nhận được thư trên đường đi, nhưng cơ chế vận hành của con bồ
câu thực ra cũng gần như con chim đen của chàng, như vậy cũng dễ giải thích.
Tôi mở thư ra xem. Nét chữ rồng bay phượng múa, vẫn mở đầu như sau:
“A Phất tiểu muội của
huynh, xa cách bấy lâu, huynh nhớ muội vô chừng, muội có nhớ huynh chăng?
Ngủ trưa chiêm bao, mơ
thời thơ ấu, huynh đến vương đô thăm muội, tay trái dắt Tiểu Hoàng tay phải cầm
cây thương, tứ bề quạnh quẽ, lệ rơi hàng ngàn. Buồn thay!
Mấy hôm trước ngủ trưa,
vẩn vơ nhớ muội, từ mắt đến tim, nhớ nhung chở mấy thuyền cho đặng, đang lúc mơ
màng túi tiền bị người ta lấy mất...
Huynh nghĩ rất nhiều,
chuyện này muội tự làm, muội nên tự chịu...”.
Mộ Ngôn hỏi: “Viết gì
vậy?”. Tôi nói: “Anh ta ngủ trưa, không cẩn thận bị kẻ trộm lấy mất tiền, sau
đó Tiểu Hoàng không chịu mãi nghệ, anh ta đành đem Tiểu Hoàng cầm cố cho một
vườn thú, bảo tôi dùng con bồ câu này chuyển ngân phiếu cho anh ta”.
Mộ Ngôn lục hầu bao lấy
ngân phiếu, tôi ngăn lại: “Không cần”. Tôi viết hồi âm cho Quân Vỹ: “Nội trong
mười ngày nếu không chuộc Tiểu Hoàng ra, muội sẽ bán huynh cho kỹ viện, mong
huynh sớm lo liệu”. Đợi thư khô mực, cuộn lại cho vào ống trúc nhỏ, buộc vào
chân chim bồ câu thả cho bay, chuyện vậy là giải quyết xong.
Chúng tôi thu xếp chỗ ở
trong thành Tùy Viễn, ở liền năm ngày. Chập tối ngày thứ sáu, con chim đen
trong lồng bỗng hưng phấn khác thường, có thể quanh đây xuất hiện con chim mái,
cũng có thể cuối cùng Oanh Ca đã vào thành, quả thật không biết thế nào.
Mộ Ngôn lặng lẽ quan sát
màn đêm xung quanh, mở lồng chim, con chim đen lập tức xông ra, giương cánh bay
vút lên, chúng tôi đuổi theo sau. Tôi thấp thỏm, không nén nổi hỏi Mộ Ngôn:
“Huynh nói xem, sao nó hưng phấn thế? Có phải đã đánh hơi thấy bạn tình?”.
Mộ Ngôn không ngoái đầu:
“Sao có thể”.
Tôi thở dốc chạy theo
chàng: “Nhỡ thật thì sao”.
Chàng thản nhiên: “Thì
làm thịt nó hầm cho cô ăn”.
Con chim trên trời giật
mình kêu oác một tiếng.
Một canh giờ sau, quả
nhiên phát hiện Oanh Ca ngã gục trên đám cỏ ở ven sông, toàn thân ướt sũng,
cũng không biết năm ngày vừa rồi đã xảy ra chuyện gì.
Tôi còn nhớ vết thương
trên vai cô, vội mở lớp vải băng dính kết, thấy một vết thương rất đáng sợ đã
trắng nhợt vì ngấm nước sông.
Đêm đó chúng tôi ở lại
một y quán phía bắc thành.
Lão đại phu kiểm tra vết
thương, lấy ra thuốc tốt nhất của y quán, đem sắc với nhân sâm dùng thìa bón
từng miếng cho Oanh Ca. Bón được quá nửa bát thuốc, cô vẫn chưa tỉnh, cơn sốt
vẫn chưa hạ, trong mê sảng miệng liên tục lắp bắp nói gì chúng tôi không hiểu,
dường như đang rơi vào ác mộng khủng khiếp nào đó.
Lão đại phu nói đại ý
rằng nếu sáng hôm sau cô nương này vẫn không tỉnh, thì chỉ còn cách ra cổng sau
rẽ phải, bên hàng xóm có cửa hiệu bán quan tài, cũng kiêm luôn lo liệu tang sự.
Chúng tôi hiểu ý tốt của
lão đại phu, nhưng Oanh Ca tuyệt đối không thể chết ở đây. Cô chết, trước hết
chúng tôi phải mua quan tài, sau đó đi tìm mua chỗ chôn cất, thuê người đào
huyệt... việc nào cũng phải bỏ tiền, thật hậu họa vô cùng. Kế sách hiện nay là
vẫn dùng kế cũ, đi vào giấc mơ của Oanh Ca, đưa cô ra khỏi ác mộng trước bình
minh.
Tôi cảm thấy yêu một
người nhất thiết phải trân trọng người đó, có nghĩa là không thể để Mộ Ngôn gặp
bất kỳ nguy hiểm nào, nhưng tôi vẫn không kìm được đưa chàng vào mộng cảnh đầy
nguy hiểm, điều đó làm tôi sợ, tôi biết trong tiềm thức, tôi vẫn muốn để chàng
chết, chỉ không ngờ lý trí đã bị tiềm thức đánh bại nhanh như thế.
Nói cách khác, lý trí con
người xưa nay đa phần không thắng nổi tiềm thức. Thắng được tiềm thức họa chăng
chỉ có những bậc tu hành.
Đã nghe thấy tiếng trống
điểm canh, bước vào mộng kiều nhìn về xa, không như cảnh đổ nát chia ly lần
trước, lần này giấc mộng của Oanh Ca rất liền mạch cũng rất rõ ràng.
Nhất định phải tìm ra bí
ẩn trong nội tâm của cô, hóa giải bí ẩn đó, mới có thể đưa cô trở về thuận lợi,
chúng tôi không thể không bỏ thời gian lần theo dấu vết câu chuyện. Trong lòng
bao hồ nghi thắc mắc, có những điều đã được giải đáp, nhưng vẫn chưa thể làm rõ
bí ẩn của Oanh Ca thực ra là gì, mỗi nút thắt của câu chuyện này xem ra đều có
khả năng giúp tìm ra bí ẩn đó. Đó chính là số phận của một sát thủ, một số phận
bi thảm như thế nhắc người đời quả thật không thể suốt đời sống bằng nghề sát
thủ.
Câu chuyện bắt đầu từ năm
thứ bảy sau khi Cảnh hầu lên ngôi.
Năm Cảnh hầu thứ bảy, mùa
xuân đã đi được quá nửa, hoa trên cành đã rụng lác đác.
Oanh Ca hai mươi tuổi là
sát thủ giỏi nhất đình úy phủ, bắt đầu từ năm mười sáu tuổi lần đầu tiên giết
người, bốn năm nay, bao người đã bỏ mạng dưới đoản đao của cô.
Những năm tháng đẹp nhất
của đời con gái trôi qua trong màu đỏ choáng váng của máu tươi, trong mùi tanh
và phế khí, dung mạo đẹp dần lên nhưng quanh năm làm bạn với đoản đao trường
kiếm, chút yếu lòng cuối cùng trước phút sinh tử đã bị xóa sạch không còn dấu
vết, từng cử chỉ, động tác, nụ cười đều lạnh toát như thanh lợi kiếm.
Những kẻ ăn người ở trong
Dung phủ đều sợ cô, không ai dám nói chuyện với cô, cho nên cô thường xuyên vò
võ một mình, không một ai lai vãng thăm hỏi, mọi việc đều tự làm. Có điều như
thế cũng không hoàn toàn là không tốt, ít nhất lúc xem tiểu thuyết cũng không
bị ai quấy rầy.
Trái ngược hoàn toàn, rõ
ràng mặt mũi giống hệt nhau, Cẩm Tước được đón vào Dung phủ sau khi bà nội qua
đời lại khiến người ta vừa nhìn đã yêu, nhân khí không mập mờ như Oanh Ca.
Tổng kết nguyên nhân, một
là Cẩm Tước hay cười, lúc nói chuyện chưa nói đã cười, như một đóa hướng dương
nở bừng trong ngày mưa, xinh đẹp, lại sạch sẽ. Hai là, Cẩm Tước thích giúp đỡ
mọi người, nhổ cỏ giúp thợ vườn, nấu cơm, giặt giũ giúp nhà bếp, lại còn nhiệt
tình dạy các cô hầu thêu thùa vá may.
Cẩm Tước bình dị dễ mến,
có tất cả những đức tính tốt đẹp của một thiếu nữ mười bảy tuổi. So với cô em,
Oanh Ca không hề biết nữ công là gì, chỉ duy nhất biết giết người, mà giết
người rõ ràng không được coi là nữ công, nếu cũng được lớn lên bình thường như
các cô gái khác, như cô em mỗi tháng có tiền của chị gửi về, đương nhiên những
việc nấu ăn thêu thùa cô đâu chịu kém ai.
Nhưng cô không bận lòng,
chín năm trước Dung Tầm nhặt được cô, Dung Tầm là ân nhân của cô, chàng ta muốn
cô trở thành như thế nào thì cô sẽ cố trở thành như thế. Ví dụ cô nhìn thấy máu
là choáng, nhưng lại trở thành sát thủ. Ví dụ cô sợ sấm, nhưng lại có thể thản
nhiên ra tay lấy mạng sống của người khác trong tiếng sấm ầm ầm.
Ngày mười bảy tháng tư,
sinh nhật lần thứ hai mươi tư của Dung Tầm.
Mưa xuân dai dẳng. Oanh
Ca bị thương trong khi đi làm một vụ việc ở nước Triệu, cánh tay bị trúng một
nhát kiếm dài khá hiểm, lẽ ra nên nghỉ ngơi chữa trị, nhưng lại nhớ sinh nhật
Dung Tầm, cô đi suốt ngày đêm, vội vàng gấp gáp trong bảy ngày kịp về thành Tứ
Phương trước một ngày, ngày mười sáu tháng tư.
Nước Triệu có đặc sản đồ
gốm trắng, cô muốn tự tay làm một món đồ gốm từ nước Triệu mang về tặng sinh
nhật Dung Tầm, đáng tiếc là vết thương quá nặng, tay lóng ngóng cử động đau đớn
khó khăn, học theo sư phụ mấy ngày mới gắng làm ra một cái cốc trông là lạ,
uống rượu thì hơi lớn, uống trà lại hơi nhỏ, không biết gọi là gì.
Nhưng màu sắc rất đẹp,
nhẵn bóng sáng long lanh, thoạt nhìn biết ngay không tầm thường. Cô dùng vải
lụa bọc kỹ mấy lớp, đi bảy ngày đường mang về thành Tứ Phương, vừa bước vào
Dung phủ đã nóng lòng chạy ngay đến phòng Dung Tầm muốn khoe với chàng.
Mọi người đều nói Oanh Ca
lạnh tình, người lạnh tình khi bộc lộ tính trẻ thơ thực ra là đáng yêu vô cùng.
Mưa rất to, cây ngô đồng
trước sân tán lá che kín cả khoảng trời, những trận sấm xuân ẩn sau tán lá sum
suê, hoa ngô đồng run rẩy trong mưa. Người hầu đứng ở cửa đưa cho cô chiếc ô,
cô cởi áo ngoài bọc lại chiếc cốc đã được bọc mấy lần vải lụa, miệng cười mãn
nguyện, tay giương ô đội mưa đi vào.
Không cho hầu nữ ở phòng
ngoài bẩm báo, cô muốn dành cho chàng một bất ngờ, đang thầm nghĩ chàng nhìn
thấy cô lúc này sẽ như thế nào, hàng lông mày sẽ nhướn cao ra sao, môi giãn ra
nụ cười nửa có nửa không thế nào, thậm chí nghĩ đến câu đầu tiên chàng nói khi
nhìn thấy cô: “Sao về nhanh thế, đi đường có vất vả không?”.
Đường xa, ngựa phóng gấp,
bụi đường còn bám trên áo choàng, cô cởi áo choàng, trao chiếc ô cho cô hầu,
chỉ ôm chiếc cốc, nhanh nhẹn lách qua cánh cửa phòng khép hờ. Chân trời lóe lên
một tia chớp, giống như cây kiếm bạc trong tay thần sấm vung lên trong màn đêm
mênh mang. Trong ánh chớp, nhìn Dung Tầm đứng trong thư phòng sau án thư đang
cúi đầu viết gì đó.
Ngoài ra, trong thư phòng
của chàng vốn rất ít người được bước vào, cô em Cẩm Tước cũng chống cằm tư lự
ngồi bên án thư.
Trong phòng rất yên tĩnh,
có thể nghe thấy tiếng ngòi bút lông cáo đi trên giấy, Dung Tầm chăm chú viết
một hồi, ngẩng đầu nhìn Cẩm Tước, ánh mắt như cười: “Hai chữ này là Cẩm Tước,
tên của nàng”.
Cẩm Tước tò mò đứng lên,
ngắm nghía tờ giấy: “Vậy hàng chữ nhỏ bên cạnh là gì...”. Lời chưa dứt đã hốt
hoảng bịt tai, miệng hét lên cùng với tiếng sấm đột nhiên bùng nổ phía chân
trời, người run run, ngồi sụp xuống đất.
Dung Tầm tay đang cầm
bút, sững người nhìn cô, giơ tay kéo cô lên: “Lớn thế này vẫn sợ sấm ư?”. Chưa
dứt lời, một tiếng sấm nữa lại nổ vang, Cẩm Tước vừa được kéo đứng lên, lại bịt
tai lùi về sau, chân va vào án thư suýt ngã, chàng đã kịp thời giơ tay kéo cô
vào lòng, tránh cho cô khỏi va vào góc án thư, cau mày: “Sao lại không cẩn thận
thế”.
Hồi lâu sau, chàng vẫn
không buông ra. Hai tay Cẩm Tước vẫn bịt tai.
Có những thứ càng cố giữ
càng không giữ được, giống như tình yêu của Oanh Ca, giống như chiếc cốc gốm
trong tay cô. Phòng ngoài một tiếng động nặng nề vang lên, Cẩm Tước đột nhiên
mở mắt, ánh mắt dừng lại trên đường gấu váy ở ngưỡng cửa thư phòng.
Trên giá nến đồng chỉ có
một ngọn nến đang cháy, trong phòng ánh sáng lờ mờ. Trong ánh sáng lờ mờ đó,
giọng Dung Tầm nhàn tản: “Ai?”.
Chân váy tím di chuyển,
xiêm y gấm sột soạt như tiếng lá ngô đồng trước sân vào một ngày nắng đẹp có
gió, Oanh Ca toàn thân váy tím đứng ở cửa phòng, mái tóc rối dính nước mưa bết
vào trán, vào hai má, sắc mặt lạnh như nước mưa tháng tư.
Lại một tiếng sấm bùng
nổ, như chiếc búa khổng lồ đập nát bầu trời, Cẩm Tước run lập cập trong lòng
Dung Tầm, vội đẩy mạnh chàng ra, loạng choạng ngã xuống đất, chàng lại nắm tay
cô, lửa nến ánh lên ống tay áo tím thêu hoa mộc lan.
Sau khi dìu Cẩm Tước đứng
lên, Dung Tầm ngẩng đầu nhìn Oanh Ca đứng ở cửa thư phòng, dường như bấy giờ
mới phát hiện ra cô: “Sao về nhanh thế, đi đường có vất vả không?”. Câu nói
đúng như cô đoán, một chữ không sai.
Cô nhìn chàng, trên khuôn
mặt lạnh hiện ra nụ cười, nụ cười đó lan dần đến góc mắt, giống hệt một cây khô
đang từ từ nở hoa. Vẻ phong tình lộ trên khuôn mặt, giả dối như một gái lầu
xanh lão luyện, khiến khách làng chơi nổi giận.
Nụ cười phong tình đó ẩn
dưới hàng mi như cánh bướm, chưa lan đến đáy mắt: “Công việc xong sớm, nên trở
về sớm”.
Trong phòng tĩnh mịch,
Dung Tầm ngẩng đầu nhìn cô, lại cầm lên chiếc bút lông: “Vậy nghỉ ngơi đi”. Mắt
liếc nhìn bọc vải trên đất, “Cái gì kia?”.
Cô quay người định đi,
nghe vậy nhặt lên bọc vải vừa rồi đánh rơi, dừng một lát nói: “Không có gì,
những thứ không quan trọng nên vứt đi”.
Công việc ở nước Triệu xử
lý nhanh chóng, gọn gàng, Dung Tầm thưởng cho Oanh Ca ngôi nhà lớn bên đầm sen
gọi là Thanh Đầm cư, món quà thưởng quả thực quá hậu, tự cổ chí kim mọi vật đều
biến động thất thường, duy chỉ có nhà đất không ngừng tăng giá.
Trong Dung phủ, Thanh Trì
cư chỉ đứng sau Thanh Ảnh cư nơi ở của Dung Tầm, có nghĩa là hai toà viện lớn
như vậy để phù hợp đối xứng trong thẩm mỹ kiến trúc, nhất định phải thiết kế ở
hai đầu đông tây hoặc nam bắc trong phủ đệ, tóm lại tuyệt nhiên không thể tọa
lạc cạnh nhau. Oanh Ca chuyển khỏi Tập Âm các sát bên tẩm cư của Dung Tầm,
chuyển đến Thanh Trì cư cách Dung Tầm mười vạn tám ngàn dặm.
Cô sống sáu năm trong Tập
Âm các, từ năm mười bốn tuổi đến năm hai mươi tuổi, cuối cùng chuyển ra ngoài,
còn vị khách chuyển đến Tập Âm các thế chỗ cô là cô em Cẩm Tước.
Có một dạo người trong
Dung phủ xì xầm bàn tán đủ kiểu. Có người cho rằng Oanh Ca đã bị thất sủng hoàn
toàn, nhưng lại thấy, nếu đã bị thất sủng như vậy Dung Tầm không thể thưởng cho
cô một ngôi nhà lớn như thế, về sau lại có tin nói, căn nhà đó có thể là Dung
Tầm bù đắp cho Oanh Ca để chia tay.
Lại có tin, Dung Tầm yêu
Cẩm Tước, nhưng ở đời phàm một người đàn ông vì một người đàn bà mà bỏ một
người đàn bà chỉ có thể có một nguyên nhân, người đàn bà thứ hai phải cực kỳ
giầu có lại rất đẹp, nhưng Cẩm Tước và Oanh Ca giống hệt nhau, nếu Dung Tầm thật
sự vì Cẩm Tước mà bỏ Oanh Ca thì quả khó lý giải.
Về sau người ta lại cho
rằng tình cảm vốn là chuyện mơ hồ, thế giới tình cảm của đàn ông càng mơ hồ,
nếu không là đàn ông có lẽ mãi mãi không thể lý giải. Có điều, theo cách nói
đó, đàn ông và đàn bà ở với nhau vĩnh viễn không thể hòa hợp bằng đàn ông ở với
đàn ông, bởi vì cơ hồ chỉ có đàn ông với nhau mới dễ hiểu nhau. Vậy là lý lẽ
khi phát triển đến nước này, người ta đành bỏ cuộc.
Trong khi Dung phủ không
ngớt bàn tán xung quanh sự việc này thì hai trong số ba người trong cuộc lại tỏ
ra vô cùng điềm tĩnh.
Dung Tầm thân ở ngôi cao,
xưa nay vốn điềm tĩnh. So sánh hai người, sự điềm tĩnh của Oanh Ca càng khó
hiểu. Hầu như tôi chưa từng thấy cô tỏ ra bối rối, cho dù cái đêm lọt vào phòng
tôi, trong khi mơ mặt đầy nước mắt, nhưng không hề khóc lóc thở than. Người duy
nhất không thể bình tĩnh là Cẩm Tước.
Hôm Oanh Ca chuyển khỏi
Tập Âm các, Cẩm Tước đứng đợi cô ở bên ngọn giả sơn trên con đường thông đến
Thanh Trì cư, mặt tiều tụy, đôi mắt hay khóc không một chút khí sắc, nhìn chị
gái đăm đăm: “Sao chị không mắng em? Sao không trách em, có phải chị, có phải
chị ghét em, ghét em...”.
Lời chưa dứt đã nước mắt
chứa chan, ướt đẫm vạt áo, phía trên những đám hải đường đỏ cháy như lửa. Cô
lao vào lòng Oanh Ca, ép cô vào vách hòn giả sơn, níu lấy cổ cô, giống như hồi
nhỏ, nước mắt đẫm má.
Oanh Ca bị cô ôm riết,
cuối cùng cúi đầu nhìn cô, trong tròng mắt đen thẳm in hình khuôn mặt cô em,
như hai bông hải đường trên một cành. Cẩm Tước nghẹn ngào: “Chị, chúng ta hãy
rời khỏi đây, Dung Tầm không phải là người tốt với chị đâu”.
Oanh Ca dựa lưng vào hòn
giả sơn, trên chiếc váy dài gấm màu tím thêu những con bướm vờn hoa, một cảnh
xuân sắc ngời ngời ở trên người cô lại trở nên lạnh lẽo đìu hiu. Cẩm Tước ôm
chặt cô khóc nức nở. Đầu cô gối lên một mỏm đá nhô ra trên hòn giả sơn, hơi
hếch cằm, nhìn bầu trời xanh miên viễn trên cao, khẽ cười: “Em có biết, sát thủ
được Dung gia nuôi nếu rời bỏ chủ, hậu quả sẽ thế nào? Năm năm qua vì Dung gia
chị đã gây cho mình biết bao kẻ thù”.
Cô em nép chặt vào người
chị ngẩng đầu: “Kiếm cớ, chị không muốn đi bởi chị thích Dung Tầm phải không?”.
Hơi lạnh tụ trong mắt
Oanh Ca.
Cẩm Tước vẫn ôm riết cô,
răng đánh vào nhau lập cập: “Em sẽ chứng minh cho chị, chàng ta tuyệt đối không
đối tốt với chị”.
Tay cô định đặt lên vai
cô em, lại buông thõng, vẫn hơi ngẩng đầu, trong mắt ánh lên sắc hoa hải đường
đỏ chói, giọng dửng dưng: “Cẩm Tước, bấy lâu nay chị không ở bên em, em buồn
lắm phải không?”.
Sự chứng minh của Cẩm
Tước đến rất nhanh, nhanh như con dao trong tay Oanh Ca, giả sử trong những
việc khác cũng hiệu quả như vậy thì Cẩm Tước sớm đã thành một thiếu nữ tự
cường.
Có điều, tiền đề là thích
khách đêm mười sáu tháng năm đó chính là do cô em bố trí. Nhưng như vậy có vẻ
như nghĩ về người khác quá xấu, có lẽ tất cả chỉ là ý trời, Cẩm Tước chẳng qua
mượn ý trời.
Ý trời để cho khóm hoa
trong hoa viên Dung Phủ nở đúng đêm đó, ý trời để Dung Tầm đột nhiên nổi hứng
đưa Cẩm Tước đi dạo hoa viên ngắm trăng, ý trời để Oanh Ca không ngủ được, đang
đêm chạy đến mài dao trên bậc cầu ao trước hoa viên, ý trời để thích khách đột
ngột xuất hiện khi ba người họ không hẹn mà nên ánh mắt gặp nhau.
Phải nói, chức đình úy
cai quản lao ngục Trịnh quốc của Dung Tầm khiến chàng ta luôn có thích khách
viếng thăm, chuyện thích khách nhảy vào phủ mọi người đã quen, chẳng có gì đáng
ngạc nhiên, chỉ có điều mục tiêu lần này của thích khách không phải là Dung
Tầm, dưới ánh trăng, bóng kiếm như một con rắn lao thẳng vào Oanh Ca đang cúi
xuống cầu ao.
Nhát kiếm đó nhanh đến
mức hầu như không thể tránh, nếu Oanh Ca không phải là sát thủ lão luyện, có
thể đã mất mạng ở đây, may mà ngày ngày cô nghiên cứu cách giết người, cũng
nghiên cứu cánh tránh kẻ địch giữ mạng sống, theo bản năng cô lăn lên bờ ao,
thoát được.
Đối với thích khách, sau
nhát kiếm đó đã mất thế chủ động, không dễ lấy lại. Chính lúc Oanh Ca cầm dao
kháng cự, một đường kiếm khác đã nhằm thẳng lưng Dung Tầm đâm tới.
Khi đó tôi mới phát hiện
hóa ra có hai thích khách hành sự, người trước chỉ khống chế Oanh Ca, người sau
mới là người ra tay thực sự. Nhưng điều tôi không biết là thân thủ của Dung Tầm
vượt xa Oanh Ca.
Thích khách áo đen kinh
hoàng cúi nhìn mũi trường kiếm xuyên qua ngực mình, dường như không tài nào
hiểu nổi, tại sao đình úy đại nhân vừa rồi còn quay về phía mình túm lấy cô gái
áo hồng, vậy mà trong nháy mắt đã lấy đi tính mạng của mình. Nhưng mắt lóe lên
tia ác độc cuối cùng, lật thanh kiếm trong tay lao vào Oanh Ca đang đấu với
thích khách kia. “Chị!”. Tiếng hét thất thanh xé màn đêm hoa viên, Cẩm Tước vừa
kêu vừa chạy vụt về phía thanh kiếm đang phi tới. Thanh kiếm đang đà đâm thẳng
vào bụng phát ra một tiếng “bụp” nặng nề.
Cùng lúc đó, đoản đao của
Oanh Ca đã xuyên qua cổ thích khách, đoản đao của thích khách cũng đồng thời
đâm trúng hõm vai cô, ngập tới tận chuôi. Máu trào ra thấm xuống ngực, may trên
người cô mặc màu áo tím sẫm nên cũng không rõ lắm, cô ngước nhìn về phía vừa
phát ra tiếng kêu, thấy Dung Tầm hay tay run run ôm lấy Cẩm Tước trong vũng
máu.
Chưa bao giờ nhìn thấy
chàng thất thần như vậy, thực ra mũi kiếm đó đâm vào bụng, nhìn có vẻ nghiêm
trọng, nhưng không trúng chỗ hiểm, năm mười tám tuổi cô cũng đã bị thương như
vậy, nằm nghỉ mấy tháng là khỏi, chỉ có điều rất đau.
Cẩm Tước rên rỉ như con
mèo trong lòng chàng: “... Đau... em đau...”.
Mặt Dung Tầm ghé sát mặt
cô, giọng khàn khàn, nhỏ nhẹ: “Đừng sợ, có ta ở đây, lập tức đưa em đến đại
phu, ngoan nào, cố chịu một chút”. Rồi thận trọng bế cô lên.
Cẩm Tước sục sùi: “Chị...
chị.”. Dung Tầm cau mày, lúc này mới ngoái nhìn Oanh Ca.
Oanh Ca mặt tái nhợt,
gượng cười, cố đi đến gần: “Chị đây”. Dừng lại một lát: “Chị không sao”.
Cẩm Tước nghe vậy gật đầu
yên tâm rồi ngất đi, nhưng người Dung Tầm run run, nỗi kinh hoàng như sắp mất
báu vật quý nhất đột nhiên xuất hiện trong mắt.
Oanh Ca sững người, lơ
đãng nhìn chàng, “Không nghiêm trọng đâu, cô ấy chỉ bị choáng do nhìn thấy máu
thôi”. Nhưng Dung Tầm cơ hồ không nghe thấy, cũng không nhìn cô, quay người bế
Cẩm Tước đi thật nhanh.
Cô nhìn theo bóng chàng,
cuối cùng kiệt sức, ngã khụy, sau đó một mình nằm trên bờ ao, gấu váy chấm mặt
nước, trông như chiếc lá sen lớn màu tím, con dao găm lại cắm sâu hơn vào da
thịt, khi cô ngã xuống, cuối cùng cô mới bật rên một tiếng, mắt mở to nhìn bầu
trời đầy sao, nghĩ đến lời nói của Dung Tầm trong sinh nhật lần thứ mười sáu
của cô: “Nguyệt Nương, vì ta, hãy trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia”.
Cô cười thành tiếng:
“Cuối cùng chàng đã không cần tôi nữa”.
Không có tiếng trả lời,
chỉ thỉnh thoảng có tiếng côn trùng kêu. Cô thôi cười, giơ tay, nhìn kỹ mười
ngón tay dính máu: “Thực ra, mình rất ghét, rất ghét giết người”.
Dưới bầu trời sao, trên
mặt ao đột nhiên có mấy bông hoa súng trắng hé nở, ánh trăng bạc màu trải trên
mặt ao, những bông hoa súng thấm đẫm ánh trăng trông như hoa mùa thu làm từ
băng tuyết. Oanh Ca nằm trên bờ cỏ, bên cạnh là mặt nước với mấy bông hoa súng
trắng, từ từ nhắm mắt, giơ tay đè lên đó, nước mắt lặng lẽ rỉ ra từ kẽ ngón
tay, lát sau tay vừa buông, mắt lại phẳng lặng như hồ thu, không chút xao động.
Đó là phút yếu mềm của
một sát thủ, dẫu yếu mềm, cũng yếu mềm ở nơi không ai nhìn thấy, ngay chính
mình cũng không nhìn thấy.
Vết thương của Cẩm Tước
quả nhiên không nghiêm trọng, nhưng thể lực không bằng cô chị, vẫn phải nằm hơn
một tháng, từ đó Dung Tầm ít gọi Oanh Ca theo hầu, giống như Dung phủ chưa từng
có cô.
Nghe nói một số sát thủ
khi đi làm nhiệm vụ muốn Oanh Ca cùng phối hợp, chủ động nói với Dung Tầm, mặt
chàng lạnh lùng: “Dung phủ không có những hộ vệ không thể bảo vệ chủ, càng
không có những hộ vệ phải nhờ người khác che chắn”. Chàng vứt bỏ cô như vậy,
thậm chí còn không nói một tiếng.
Chàng là chủ, cô là tớ.
Từ cái đêm chàng cứu cô, cô đã trao tính mạng cho chàng, chàng cũng chỉ coi như
nắm trong tay một tính mạng, một thứ thuộc về mình, cần thì dùng, không cần thì
vứt, không hề nghĩ đó là một trái tim chân thật độc nhất trên đời.
Tháng chín là mùa chim
nhạn, vương thất tổ chức đi săn. Cẩm Tước cuối cùng đã bình phục hẳn, Dung Tầm
sợ cô ở lâu trong phủ buồn chán, đưa cô đi chơi cho khuây khỏa. Có lẽ là giờ
xuất hành không tốt, ngay chuyến xuất phủ đầu tiên đã xảy ra chuyện. Tuy nhiên
chuyện chẳng có gì lạ, chỉ trách Dung Tầm sơ suất, có tài không nên lộ ra, tài
nữ cũng không nên lộ diện, huống hồ Cẩm Tước lại đa tài như vậy.
Trong buổi đi săn, con
báo gấm bé tí của Cảnh hầu vương Dung Viên không may bị trúng mũi tên vu vơ nào
đó, đúng lúc gặp Cẩm Tước đang lạc đường bắt gặp, cứu chữa, xem ra chỉ là người
tốt việc tốt, nhưng ngày hôm sau, con báo gấm với chi trước băng bó cẩn thận
được một người trong cung ôm đến Dung phủ.
Phụ thân của Cảnh hầu vương
là Thanh hầu do một con báo gấm mà nên duyên với mẫu thân Cảnh hầu là Hạ Mạt
phu nhân, đó là mối lương duyên đẹp đẽ truyền khắp Trịnh quốc, con báo gấm nhỏ
xinh bên cạnh Dung Viên là cháu của con báo gấm năm xưa, đưa nó đến Dung phủ, ý
tứ của Dung Viên thế nào, khỏi nói ai cũng rõ. Nói đơn giản nghĩa là Cảnh hầu
vương thích Cẩm Tước, ngầm ý bảo Dung Tầm đưa mỹ nhân đó vào cung.
Đang đêm, Oanh Ca nhận
được mật thư của Dung Tầm, đó là lần đầu tiên trong ba tháng liền, thanh kiếm
dài treo trên tường đã lâu không thấm máu, phần nào mất đi sát khí. Sắc mặt
dửng dưng, ánh mắt đột nhiên sinh động, lóng lánh như thủy tinh. Bức thư run
run trên tay, mãi mới mở được ra. Ánh nến chiếu sáng mực đen giấy trắng, Oanh
Ca bình thường lạnh lùng, khó xúc động, khuôn mặt nhuận hồng đột nhiên không
còn sắc máu, tia sáng long lanh trong mắt tắt ngấm, tay bám góc bàn lảo đảo,
rất lâu sau mới bật cười một tiếng, trong đôi mắt đen in một hàng chữ rồng bay
phượng múa, thanh thoát mà cứng cáp: “Thay Cẩm Tước vào cung”.
Cô cầm bức thư rất lâu,
rồi đưa nó lại gần ngọn nến, lưỡi lửa liếm một cái, nháy mắt biến thành tro.
Đêm đó trăng hiện ra trên
nền trời sao mờ như bụi. Thanh Ảnh cư của Dung Tầm lại một lần nữa đón thích
khách, chủ nhân Dung Tầm không hổ danh là đại thần bị ám sát nhiều nhất đương
triều, điều đó cho thấy chức đình úy quả thật nguy hiểm. Ánh trăng nhảy múa
trên tán cây ngô đồng, lá xào xạc ngân nga như hát. Dung Tầm lặng lẽ đứng bên
án thư, trong tay vẫn cầm nghiên mực, nến bị gió quạt tắt, từ lõi vừa tắt bốc
ra làn khói xanh, đao của Oanh Ca kề sát cổ chàng.
Chàng ngẩng đầu nhìn cô:
“Không ngờ, đao của em lại có ngày kề vào cổ ta”.
Cô cười: “Tôi cũng không
ngờ”.
Gió đập cánh cửa lách
cách, cô khẽ nghiêng đầu, thần sắc trở nên u ám: “Chàng không sợ bởi vì chàng
biết tôi sẽ không giết chàng, chàng không tin tôi sẽ giết chàng phải không?”.
Chàng không nói, chỉ nhìn
cô.
Người cô áp lại gần, cơ
hồ đầu sắp đặt lên vai chàng, nếu không kể thanh đoản đao kề vào cổ chàng vẫn
không một chút lỏng tay thì đó chính là tư thế tình tự âu yếm. Giọng cô nhẹ
nhàng: “Tôi cũng không tin”.
Giọng dịu dàng nhưng lời
hung mãnh, trong chớp mắt cô đã ấn thanh đao vào tay Dung Tầm, cô nắm bàn tay
chàng đang cầm chuôi đao, trở mũi hướng thẳng vào ngực mình. Mũi đao nhọn dừng
lại trên ngực, máu tươi men theo năm ngón tay nắm chuôi đao của Dung Tầm tụ
thành một dòng đỏ, chàng cau mày, trầm giọng phẫn nộ: “Em điên rồi”.
Cô nhìn chàng dường như
không hiểu, một lát sau như tỉnh ngộ: “Tôi không điên, tôi rất tỉnh, chàng xem,
tôi vẫn biết đây không phải là nhát đâm chí mạng”.
Giọng cô thanh nhẹ ôn
tồn, vang trong đêm: “Dung Tầm, tôi không thể giết chàng. Chàng đã cứu tôi, cứu
cả nhà chúng tôi, đại ân như vậy tôi không dám quên, vì chàng chuyện gì tôi
cũng làm là để báo ơn, báo ơn cứu mạng, ơn nuôi dưỡng, nhưng chàng để tôi làm
chuyện đó, để tôi thay Cẩm Tước vào cung lấy thúc phụ chàng, chỉ bởi chàng
không thể xa Cẩm Tước”.
Cô dừng lại, nụ cười trên
môi trong sáng như hồi mười lăm tuổi, nhưng chỉ trong chớp mắt nụ cười đó lan
qua mắt, miên man như ngàn sợi tơ, không biết thật tâm hay giả ý, cô nhìn Dung
Tầm, chầm chậm nhắm mắt, tay nắm bàn tay cầm đao của chàng nhằm vào ngực mình:
“Giết tôi đi, tôi sẽ được tự do”.
Ánh trăng lốm đốm trên
tán lá ngô đồng, cô muốn hủy hoại bản thân, tay chàng cũng nắm chặt mũi đao,
máu trên năm ngón tay tụ thành dòng nhỏ xuống, giọng chàng vang lên tai cô: “Ta
không cần mạng của em. Thay Cẩm Tước vào cung, em giúp ta làm nốt một việc cuối
cùng, sau đó em tự do”.
Hai mắt cô đột nhiên mở
ra, kinh ngạc nhìn thẳng vào đôi mắt mông lung của chàng, cuối cùng nhòe ướt.
Tính cô vốn không nhẫn
nại, nhẫn nhịn lâu như vậy, chỉ là bởi vì có lý do không thể đau lòng. Một
người như thế khóc cũng phải nén, không bật thành tiếng, chỉ có nước mắt lặng
lẽ tuôn. Đoản đao rơi xuống đất “cạch” một tiếng, cô nhìn vũng máu nhỏ trên nền
đất, khó nhọc ngẩng đầu: “Dung Tầm, có phải chàng cho rằng sát thủ là kẻ không
tim?”.
Chàng im lặng.
Cô từ từ sụp xuống đất,
như người kiệt sức, uy phong ngày xưa và vẻ dữ dằn nhất thời hoàn toàn tiêu
tan, toàn thân co rúm, run rẩy như một đứa trẻ: “Sao có thể không có tim, tôi
đã để nó ở chỗ chàng rồi, nhưng Dung Tầm, chàng để nó ở đâu?”. Lại như hỏi
chính mình, “... vứt nó ở đâu?”.
Người chàng khẽ run. Lát
sau, đưa bàn tay không bị thương cho cô: “Hãy đứng lên đã”.
Cô ngây người, mặt lấm
lem nước mắt, nhìn chàng nhưng không khóc, hơi cau mày: “Tôi vẫn muốn hỏi một
câu, bao năm nay, tôi là gì trong lòng chàng?”.
Lát sau, chàng chậm rãi
đáp: “Nguyệt Nương, trước nay em làm rất tốt, là thanh đao tốt nhất của Dung
gia”.
Cô từ từ ngẩng đầu, từ từ
đứng lên, sự yếu đuối vừa rồi đã tiêu tan vô hình vô ảnh, hình như sự bi lụy
vừa rồi chỉ là ảo giác. Giơ ống tay áo lau nước mắt, xong xuôi lại là một Oanh
Ca băng lạnh như xưa. Cô nhìn chàng, như đã quen chàng cả một cuộc đời, lại như
chưa bao giờ quen, mắt hé ánh cười lạnh nhạt: “Tôi sẽ làm cho chàng nốt việc
cuối cùng, sau đó tôi không nợ chàng gì nữa”.
Cô sải bước qua cửa
phòng, đến bậc cửa hơi dừng lại: “Dung Tầm, nếu có ngày chàng không yêu Cẩm
Tước nữa, xin hãy đối xử tốt với nó, đừng như đối với tôi, nó không giống tôi,
không phải là sát thủ”.
Từ đó có thể thấy, lòng
tin nên thận trọng, không thể tùy tiện đặt lung tung, giống như Oanh Ca mù
quáng tin rằng mình là người đặc biệt nhất của Dung Tầm, bởi vì mình là sát thủ
tốt nhất của Dung gia.
Tự cô đã đánh giá mình
quá cao, đánh giá Dung Tầm quá thấp. Điều bất hạnh là từ năm mười một tuổi đến
năm hai mươi tuổi, chẵn chín năm cô mới hiểu đạo lý đó. May mắn là cuối cùng cô
đã hiểu ra.