Nó là tin giật gân. Nó là tin trang nhất trên mọi tờ báo. Mọi tờ báo.
Bill “Hai Đồng Xu Nhỏ” Lington đã “làm sáng tỏ” lịch sử của mình. Một cuộc phỏng vấn lớn, một-một trên tờ Mail, và tất cả các tờ báo khác ngay lập tức nhảy bổ vào.
Chú đã thú nhận về vụ năm trăm nghìn bảng. Đương nhiên, chỉ có điều, chú Bill mà, ngay lập tức chú tuyên bố rằng số tiền đó chỉ là một phần của câu chuyện. Và rằng những nguyên tắc kinh doanh của chú vẫn có thể áp dụng cho bất cứ ai khởi đầu với hai đồng xu nhỏ. Và như vậy thì câu chuyện không khác đến thế, và theo một nghĩa nào đó, nửa triệu bảng cũng chẳng khác nào hai đồng xu nhỏ, đơn giản chỉ là khác nhau về số lượng mà thôi. (Rồi chú nhận ra rằng chính vào lúc đó chú đã trở thành kẻ thua cuộc và tháo lui ngay, nhưng quá muộn rồi, nó đã vuột ra khỏi miệng chú).
Với tôi, số tiền không hẳn là vấn đề. Cái chính là cuối cùng, sau ngần ấy thời gian, chú đã công nhận là có Sadie. Chú đã kể với cả thế giới về bà, thay vì phủ nhận và giấu nhẹm bà đi. Câu nói mà hầu hết các báo đều trích dẫn là: “Tôi đã không thể thành công nếu không nhờ có người dì xinh đẹp của mình, cụ bà Sadie Lancaster, và tôi sẽ luôn luôn mang ơn bà.” Câu này vốn là tôi đọc cho chú, từng từ một.
Bức chân dung của Sadie được đăng trên khắp các trang nhất. Phòng tranh Chân dung London bị bủa vây. Bà giống như một Mona Lisa mới. Tốt hơn ở chỗ, vì bức tranh quá đồ sộ nên có hẳn một phòng cho nhiều người vào ngắm bà cùng một lúc. (Và bà xinh hơn nhiều. Tôi nói thật đấy.) Chính bọn tôi cũng tới đó vài lần, chỉ để nhìn đám đông và nghe tất cả những điều đẹp đẽ họ nói về bà. Thậm chí bà còn có cả một trang dành cho người hâm mộ trên mạng.
Còn về cuốn sách của chú Bill, chú ấy thích nói gì về những nguyên tắc kinh doanh của chú thì tùy, nhưng sẽ chẳng ích gì. Hai Đồng Xu Nhỏ đã trở thành đối tượng giễu cợt nhiều nhất kể từ Mái vòm Thiên niên kỷ. Nó bị nhại lại trên tất cả những tờ báo khổ nhỏ, trên ti vi diễn viên hài nào cũng đưa nó ra làm đề tài cười cợt còn các nhà xuất bản thì quá xấu hổ nên đã đề nghị trả tiền để thu hồi sách. Hình như có khoảng hai mươi phần trăm số người mua đã nhận lời. Tôi đoán những người khác muốn giữ lại làm kỷ niệm, hoặc đặt nó lên bệ lò sưỏi để cười nhạo, đại loại thế.
Tôi đang giở nhanh một bài xã luận viết về chú trên tờ Mail số hôm nay thì điện thoại kêu bíp bíp báo tin nhắn:
Chào. Anh đang ở ngoài này. Ed.
Đây là một trong số nhiều điểm tốt của Ed. Anh không bao giờ trễ hẹn. Tôi hớn hở chộp lấy cái túi, đóng sập cửa căn hộ và đi xuống cầu thang. Hôm nay Kate và tôi sẽ chuyển tới văn phòng mới, và Ed hứa sẽ qua xem trên đường đi làm. Khi tôi ra đến vỉa hè, anh đang đứng đó, ôm một bó hồng đỏ to tướng.
“Mừng văn phòng,” anh nói, tặng nó cho tôi kèm theo một nụ hôn.
“Cảm ơn anh!” Tôi cười tươi rói. “Thể nào mọi người trên tàu cũng nhìn em chằm chằm cho xem...” Tôi ngừng lại vì ngạc nhiên khi Ed đặt một bàn tay lên cánh tay tôi.
“Anh nghĩ là hôm nay chúng ta có thể dùng xe của anh,” anh nói thân mật.
“Xe của anh?”
“Chứ sao.” Anh hất đầu về phía chiếc Aston Martin màu đen sang trọng đỗ gần đó.
“Đó là xe của anh ư?” Tôi nhìn nó chằm chằm, hoàn toàn không tin nổi. “Nhưng... nhưng... làm thế nào?”
“Mua. Em biết đấy, phòng trưng bày ô tô... thẻ tín dụng... quy trình thông thường... Nghĩ nên mua xe Anh,” anh nói thêm với nụ cười gượng gạo.
Anh đã mua một chiếc Aston Martin ư? Như cái xe này ư?
“Nhưng anh chưa bao giờ lái xe bên trái. Anh chưa có bằng lái ở Anh mà.” Đột nhiên tôi thấy cảnh giác. “Anh đã lái thứ đó chưa?”
“Thư giãn đi em. Anh đã thi lấy bằng tuần trước. Trời, hệ thống của nước em lằng nhằng khiếp lên được.”
“Không phải thế,” tôi buột mồm thốt ra.
“Cần hộp số quả là thứ kinh dị. Và đừng bắt anh phải bắt đầu thực hiện các luật rẽ phải của xứ này.”
Tôi không tin nổi chuyện này. Anh đã kín như bưng. Anh không hề đề cập đến xe cộ, hay chuyện lái xe... hay bất cứ chuyện gì liên quan.
“Nhưng... tại sao?” tôi buột miệng hỏi.
“Có người đã bảo anh rằng,” anh nói trầm tư, “nếu anh tới sống ở một đất nước nào đó, bất kể là bao lâu, thì anh cũng nên hòa nhập với nó. Và có cách nào hòa nhập tốt hơn là học lái xe ở đất nước đó? Nào, em có muốn đi một cuốc hay không?”
Anh ga lăng mở cửa xe. Vẫn sửng sốt lặng người, tôi ngồi vào ghế hành khách. Quả đúng là siêu xe. Thực ra là tôi không dám đặt bó hoa xuống vì sợ nó cào xước da bọc.
“Anh còn học được cả câu chửi của người Anh nữa,” Ed nói thêm khi anh đánh xe ra đường. “Đi đi, đồ đầu đất!” Anh bắt chước giọng Cockney và tôi bật cười khúc khích.
“Cừ lắm,” tôi gật đầu. “Thế còn ‘Mắt mù à, đồ thủ dâm!’ ”
“Anh được bảo là ‘Mắt lộn tròng à, đồ thủ dâm’,” Ed nói. “Anh đã nghe sai à?”
“Không, nói thế cũng được. Nhưng anh cần phải luyện đúng giọng.” Tôi nhìn anh sang số một cách điệu nghệ và từ từ vượt qua chiếc xe buýt đỏ. “Nhưng em không hiểu. Đây là một chiếc xe rất đắt. Anh sẽ làm gì với nó khi...” tôi tự ngăn mình lại trước khi kịp nói thêm điều gì, và ho húng hắng.
“Sao cơ?” có thể là Ed đang lái xe đấy, nhưng anh vẫn linh lợi như thường.
“Không có gì.” Tôi hạ thấp cằm xuống cho đến khi mặt tôi gần như rúc vào bó hồng. “Chẳng có gì cả.”
Tôi đã định nói, “khi anh trở về Mỹ sau hai tháng nữa”. Nhưng đó là một chuyện mà đơn giản chúng tôi sẽ không nhắc tới.
Im lặng - rồi Ed nhìn tôi một cách bí ẩn. “Ai mà biết được anh sẽ làm gì?”
Chuyến tham quan văn phòng cũng không lâu lắm. Thực ra, lúc 9h05 là đã gần như xong rồi. Ed nhìn mọi thứ hai lần và nói tất cả đều rất tuyệt, và đưa cho tôi danh sách những mối liên hệ có thể hữu ích, rồi phải tới văn phòng của anh. Một giờ sau, khi tôi bận rộn với những cánh hồng, nước nôi và cái lọ mua vội mua vàng thì bố mẹ đến, cũng mang theo hoa, một chai sâm banh, và một hộp kẹp giấy mới tinh, một trò đùa nhỏ của bố.
Và mặc dù tôi mới chỉ dẫn mỗi Ed tới xem, mặc dù nó chỉ là căn phòng có một cửa sổ, một bảng đính ghim, hai cửa chính và hai cái bàn... tôi cũng không khỏi cảm thấy rung rinh khi dẫn bố mẹ đi quanh phòng - Nó là của tôi. Không gian của tôi. Công ty của tôi.
“Rất lịch sự.” Mẹ nhìn ra cửa sổ. “Nhưng, cưng à, con có chắc là sẽ trả được tiền thuê không? Ở lại với Natalie chẳng phải sẽ tốt hơn sao?”
Trời ạ. Bạn còn phải giải thích bao nhiêu lần nữa với bố mẹ mình rằng cô bạn thân cũ của mình là đồ của nợ, vô liêm sỉ, hiểm ác để họ tin bạn đây?
“Mẹ à, con nên ra ngoài tự lập, thật đấy. Mẹ xem này, đây là kế hoạch làm ăn của con...”
Tôi đưa cho họ tập tài liệu đã được đóng lại và đánh số, trông lịch sự đến mức tôi hầu như không tin nổi là chính mình đã làm ra nó. Mỗi lần đọc nó tôi lại thấy run lên mãnh liệt, quyện lẫn nỗi ao ước. Nếu tôi thành công với Magic Search, cuộc đời tôi thế là hoàn thiện.
Sáng nay tôi đã nói điều đó với Sadie khi bọn tôi đọc mấy bài viết nữa về cô trên báo. Cô im lặng một lúc, rồi làm tôi ngạc nhiên khi đột nhiên đứng dậy với một tia kỳ quặc trong mắt và nói, “Tôi là thiên thần hộ mệnh của cô! Tôi nên khiến nó thành công.” Rồi cô biến mất. Thế nên tôi có linh tính là cô đang theo đuổi chuyện gì đó. Miễn là nó không dính dáng đến bất cứ cuộc hẹn hò trời ơi đất hỡi nào nữa.
“Rất ấn tượng!” bố nói, lật nhanh bản kế hoạch.
“Con có nhờ Ed tư vấn một chút,” tôi thú nhận. “Anh ấy cũng giúp đỡ con nhiều về vụ chú Bill. Anh ấy đã giúp con làm bản trình bày đó. Cũng chính anh đã khuyên chúng ta nên thuê một chuyên gia về quan hệ đại chúng làm việc với báo chí. Mà bố đã đọc tờ Mail hôm nay chưa?”
“À, rồi,” bố nói yếu ớt, trao ánh mắt với mẹ. “Bố mẹ đã đọc.”
Bảo rằng bố mẹ tôi sửng sốt trước mọi chuyện xảy ra gần đây còn là nhẹ. Tôi chưa bao giờ thấy họ rụng rời như lúc tôi thình lình xuất hiện trước cửa, bảo chú Bill có chuyện muốn nói, quay lại chiếc limo và ngoắc ngón tay cái bảo, “OK, chú vào đi.” Và chú Bill bước ra khỏi xe, im lặng, quai hàm siết lại, và làm mọi điều tôi bảo.
Không ai nói được một lời. Như thể đột nhiên trên đầu tôi bỗng mọc ra mấy cái xúc xích. Ngay cả khi chú Bill đã đi và tôi hỏi họ, “Bố mẹ có hỏi gì không?” họ vẫn không nói gì. Họ chỉ ngồi trên ghế sofa, nhìn tôi chằm chằm với vẻ kính sợ sửng sốt. Ngay cả bây giờ, khi họ đã mạnh dạn hơn một chút và toàn bộ câu chuyện cũng đã qua đi, không còn sốc đến thế nữa, họ vẫn liếc nhìn tôi với ánh mắt kính sợ.
Ờ, hà cớ gì lại không nên thế nhỉ? Đợt vừa rồi tôi hơi bị xuất sắc đấy, dù là tự tôi nói thế. Tôi đã đạo diễn tất tật vụ phanh phui trên báo chí, với sự trợ giúp của Ed, và nó đã diễn ra thật hoàn hảo. Ít ra thì cũng hoàn hảo theo quan điểm của tôi. Có lẽ không phải theo quan điểm của chú Bill. Hay cô Trudy. Cái ngày câu chuyện vỡ lở cô ấy đã bay tới một spa ở Arizona và đăng ký ở vô thời hạn. Có Chúa mới biết khi nào chúng tôi mới gặp lại cô ấy.
Diamanté, trái lại, kiếm bộn từ vụ đó. Nó đã hoàn thành bộ ảnh cho tạp chí Tatler bắt chước theo bức tranh của Sadie, và nó lợi dụng toàn bộ chuyện đó để quảng bá cho nhãn hiệu thời trang của mình. Việc làm đó quả là rất, rất rẻ tiền. Và cũng... khá láu cá. Tôi không khỏi ngưỡng mộ nó vì sự cả gan ấy. Ý tôi là, bố nó có là một gã khốn kiếp thì cũng đâu phải do lỗi của nó, đúng không nào?
Tôi thầm mong cho Diamanté và bà dì Sadie có thể gặp nhau. Tôi nghĩ họ sẽ hợp nhau. Họ có khá nhiều điểm chung, mặc dù có lẽ cả hai đều sẽ kinh hoàng trước ý tưởng đó.
“Lara.” Tôi ngước lên thì thấy bố đang tiến về phía tôi. Trông ông lúng túng và cứ liên tục liếc mẹ. “Bố mẹ muốn nói chuyện với con về bà dì Sadie...” Ông húng hắng.
“Gì cơ?”
“Đám tang” mẹ nói, với cái giọng “dè dặt”.
“Chính xác.” Bố gật đâu. “Đó là chuyện mà bố mẹ muốn nói tới. Rõ ràng một khi cảnh sát chắc chắn là bà đã không bị...”
“Sát hại” mẹ xen vào.
"Đúng thế. Khi hồ sơ bị đóng lại, cảnh sát đã trả... tức là...”
“Di hài của bà,” mẹ thì thào.
“Bố mẹ vẫn chưa làm chuyện đó chứ?” Tôi như nghe thấy một tiếng sét kinh hoàng. “Làm ơn nói với con là bố mẹ chưa cử hành tang lễ.”
“Không, không! Kế hoạch cho đám tang dự kiến tạm thời vào thứ Sáu này. Bố mẹ đã định nói với con vào dịp nào đó...” Bố nói nhỏ dần cố ý lảng tránh.
À, ra thế.
“Mà thôi!” mẹ nói nhanh. “Đó là trước đây.”
“Đúng thế. Rõ ràng là mọi chuyện giờ đã thay đổi một chút,” bố nói tiếp. “Vậy nếu con muốn tham gia lên kế hoạch cho đám tang...”
“Có chứ, con muốn được tham gia,” tôi nói, gần như dữ dằn. “Thật ra, con nghĩ là con sẽ đảm đương việc này.”
“Được thôi.” Bố liếc mẹ. “Ờ. Đương nhiên là thế. Bố nghĩ chuyện đó hoàn toàn hợp lý, căn cứ vào... nghiên cứu của con về cuộc đời bà.”
“Bố mẹ đều nghĩ con quả là một người phi thường, Lara ạ,” mẹ đột nhiên sôi nổi hẳn lên. “Lần ra tất cả những chuyện đó. Ai biết được nếu không có con? Có thể câu chuyện đó đã không bao giờ lộ ra! Tất cả chúng ta có thể đến chết vẫn không hề biết sự thật!”
Biết là thế nào mẹ cũng đưa cái chết của tất cả chúng tôi vào chuyện này mà.
“Đây là thông tin của người cử hành đám tang, con yêu.” Bố đưa cho tôi một tờ rơi và tôi lúng túng nhét vào túi áo, vừa lúc đó tiếng chuông vang lên. Tôi đi về phía cái thiết bị liên lạc có màn hình video và ngó vào hình ảnh đen trắng, nhiễu trên màn hình nhỏ. Tôi nghĩ đó là người đàn ông, mặc dù hình ảnh cực tệ, đó rất có thể là một con voi.
“Xin chào?”
“Tôi là Gareth Birch bên Print Please,” người đàn ông đó nói. “Tôi mang danh thiếp của cô tới.”
“Ô tuyệt quá! Mang lên đây nhé!”
Nó đây rồi. Giờ thì tôi biết tôi đã thật sự có một công ty. Tôi có danh thiếp giao dịch!
Tôi dẫn Gareth Birch vào văn phòng của chúng tôi, phấn khởi mở chiếc hộp ra, và đưa danh thiếp cho tất cả mọi người. Trên đó viết “Lara Lington, Magic Search” và có một hình chiếc đũa thần bé xíu rập nổi.
“Sao anh lại đích thân mang tới đây?” tôi hỏi trong khi ký vào đơn vận chuyển. “Tôi muốn nói là thế này thì tận tình quá, nhưng chẳng phải trụ sở của các anh ở tận Hackney sao? Chẳng phải các anh vẫn gửi qua đường bưu điện sao?”
“Tôi muốn ủng hộ cô một chút,” Garetch Birch nói, nhìn tôi đờ đẫn. “Tôi rất trân trọng việc cô đã đặt hàng và đây là điều tối thiểu tôi có thể làm được.”
“Gì cơ?” Tôi nhìn anh ta chằm chằm, không hiểu ra sao.
“Tôi rất trân trọng việc cô đã đặt hàng,” anh ta nhắc lại, nghe hơi máy móc một chút. “Đây là điều tối thiểu tôi có thể làm được.”
Ôi Chúa ơi. Sadie. Cô đang làm gì thế?
“Ờ... cảm ơn anh rất nhiều,” tôi nói, cảm thấy hơi xấu hổ. “Tôi rất cảm kích. Và tôi sẽ giới thiệu anh với tất cả bạn bè của tôi!”
Garetch Birch đi ra và tôi tíu tít dỡ mấy hộp đựng danh thiếp ra, biết bố mẹ đang nhìn mình, nôn nóng.
“Anh ta đã tự mình mang tới sao, đi cả quãng đưòng từ Hackney tới đây?” cuối cùng bố nói.
“Có vẻ là như thế.” Tôi cố nói nghe sao nhẹ tênh, như thể đây là một quá trình diễn tiến hoàn toàn bình thường của các sự việc. May thay, trước khi bố mẹ kịp nói thêm điều gì thì điện thoại đổ chuông và tôi vội trả lời.
“Xin chào, Magic Search xin nghe.”
“Làm ơn cho tôi nói chuyện với Lara Lington?” Đó là giọng một phụ nữ mà tôi không nhận ra.
“Cô nói đi.” Tôi ngồi xuống một cái ghế xoay mới cứng, hy vọng là cô không nghe thấy tiếng ken két của lớp ni lông bọc ghế. “Tôi có thể giúp gì được?"
“Tôi là Pauline Reed. Tôi là trưởng phòng nhân sự của Wheeler Foods. Tôi đang tự hỏi là liệu cô có muốn chúng ta gặp gỡ nói chuyện không? Tôi được nghe nói rất tốt về cô.”
“Ồ, tuyệt quá!” Tôi nhoẻn miệng cười với cái điện thoại. “Từ ai vậy, tôi có thể hỏi không? Janet Grady phải không?”
Im lặng. Khi Pauline Reed nói trở lại nghe giọng cô ta có vẻ lúng túng.
“Tôi không nhớ rõ là ai. Nhưng cô rất có tiếng trong việc tìm kiếm tài năng và tôi muốn gặp cô. Có cái gì đó mách bảo tôi rằng cô có thể mang lại lợi ích cho công việc kinh doanh của chúng tôi.”
Sadie.
“Ờ... thật tuyệt!” Tôi trấn tĩnh lại. “Để tôi xem nhật ký của mình nhé...” Tôi mở nhật ký ra và chốt lịch hẹn. Khi tôi cúp máy, cả bố và mẹ đều đang nhìn tôi với vẻ hồ như tràn trề hy vọng.
“Tin tốt lành chứ con yêu?” bố hỏi.
“Là trưởng phòng nhân sự của bên Wheeler Foods,” tôi không khỏi nói vẻ điềm nhiên. “Cô ấy muốn gặp mặt.”
“Wheeler Foods cung cấp đồ ăn sáng bằng yến mạch ư?” Mẹ nói nghe có vẻ cực kỳ phấn khích.
“Dạ.” Tôi toét miệng cười. “Có vẻ như thiên thần hộ mệnh của con đang canh chừng cho con.”
“Xin chào!” Tiếng Kate hổn hở cắt ngang, rồi cô đẩy bật cửa xộc vào, ôm một lẵng hoa to. “Xem cái gì vừa được gửi tới này! Chào hai bác ạ,” cô lịch sự nói thêm. “Hai bác có thích văn phòng mới của chúng cháu không? Nó tuyệt vời nhỉ?”
Tôi nhận lẵng hoa từ tay Kate và mở tấm thiệp nhỏ ra.
“Tặng toàn thể Magic Search,” tôi đọc to. “Chúng tôi hy vọng được biết các bạn với tư cách là khách hàng cũng như bạn bè. Thân ái, Brian Chalmers. Trưởng phòng Nhân sự Toàn cầu tại Dwyer Dunbar plc.” Và anh ta cho cả số đường dây riêng.
“Tuyệt quá đi mất!” Mắt Kate mở to. “Cô có biết anh ta không?”
“Không.”
“Cô có biết bất cứ ai ở Dwyer Dunbar không?”
“Ờ... không.”
Cả bố lẫn mẹ đều không nói được gì. Tôi nghĩ tốt hơn là tôi nên đưa họ ra khỏi đây trước khi có thêm bất cứ chuyện điên rồ nào khác xảy ra.
“Chúng tôi đi ăn trưa ở quán pizza,” tôi thông báo với Kate. “Đi cùng không?”
“Lát nữa tôi tới.” Cô gật đầu hớn hở. “Tôi phải sắp xếp một số thứ cái đã.”
Tôi đẩy bố mẹ ra khỏi văn phòng, đi xuống cầu thang để ra phố. Một ông linh mục già mặc áo thầy dòng và áo thụng đang đứng trên vỉa hè ngay bên ngoài tòa nhà, trông hơi ngơ ngác, và tôi tiến lại phía ông, không rõ liệu ông có ổn không.
“Chào ông. Ông có biết mình đang ỏ đâu không? Ông có cần cháu chỉ đường giúp không?”
“Ờ... vâng, tôi mới tới khu này lần đầu.” Ông ta nhìn tôi mê mụ. “Tôi đang tìm số nhà 59.”
“Chính là tòa nhà này, nhìn kìa.” Tôi chỉ về phía sảnh, nơi số “59” được rập nổi trên kính.
“À vâng, nó đây rồi!” Mặt ông ta giãn ra và ông ta tiến về phía lối vào. Nhưng ngạc nhiên thay, tôi thấy ông ta không đi vào trong. Ông ta chỉ đưa tay lên làm dấu thánh giá.
“Thưa Chúa, con cầu xin ngài hãy phù hộ cho tất cả những người làm việc trong tòa nhà này,” ông ta nói, giọng hơi run run. “Cầu chúc cho tất cả những nỗ lực và việc làm ăn ở đây, đặc biệt là vào lúc này Magic...”
Không thể nào.
“Nào!” Tôi chộp lấy cả bố lẫn mẹ. “Đi ăn pizza thôi.”
“Lara,” bố nói yếu ớt, khi tôi gần như khiêng ông xuống phố. “Có phải bố bị điên không, hay là ông linh mục đó...”
“Con nghĩ là con sẽ ăn loại Bốn Mùa,” tôi tươi tỉnh cắt lời bố. “Và mấy cái bánh mì tròn. Còn bố mẹ thì sao?”
Tôi nghĩ bố mẹ đã mặc kệ rồi. Giờ họ cứ buông trôi theo dòng thôi. Vào lúc chúng tôi ai cũng có một ly vang valpolicella, mọi người đều đang mỉm cười và những câu hỏi tế nhị đều đã chấm dứt. Chúng tôi đều đã chọn pizza cho mình và đang ngốn bánh mì tròn nướng tỏi nóng hổi, và thấy khá hạnh phúc.
Ngay cả khi Tonya đến, tôi cũng không bị stress. Rủ chị ấy tới chính là ý của bố mẹ, và thật tình, dù chị hay cố tình chọc tức tôi nhưng dẫu sao chị vẫn là người thân. Tôi bắt đầu coi trọng ý nghĩa của điều đó.
“Ôi Chúa ơi.” Tiếng chào hỏi nhức óc của chị vọng khắp nhà hàng và có khoảng hai mươi cái đầu cùng ngẩng lên. “Ôi Chúa ơi. Mọi người có tin được chuyện về chú Bill không?”
Khi chị tới bàn rõ ràng là chị đang mong đợi mọi người phản ứng hơn thế.
“Chào, Tonya,” tôi nói. “Hai thằng bé sao rồi? Clive thế nào?”
“Mọi người có tin được không?” chị nhắc lại, nhìn chúng tôi không vừa ý. “Mọi người đọc báo chưa? Ý con là, đó không thể là sự thật. Đó là thứ rác rưởi trên báo lá cải. Có kẻ đang muốn thu hút sự chú ý.”
“Bố nghĩ chuyện thật đấy,” bố nhẹ nhàng chỉnh lại chị. “Bố nghĩ chính chú ấy đã thừa nhận đúng như vậy.”
“Nhưng, bố đã đọc những gì họ viết về chú ấy chưa?”
“Rồi.” Mẹ với chai valpolicella. “Bố mẹ đã đọc. Rượu vang chứ, con yêu.”
“Nhưng...” Tonya ngồi thụp xuồng ghế và nhìn khắp lượt chúng tôi với vẻ mặt phiền muộn, hoang mang. Rõ ràng chị cứ tưởng là tất cả chúng tôi sẽ giơ cả hai tay đứng về phía chú Bill. Chứ không phải hoan hỉ chén bánh mì tròn một cách ngon lành như vậy.
“Của con đây.” Mẹ đây ly rượu về phía chị. “Để mẹ lấy thực đơn cho con.”
Tôi có thể thấy đầu óc Tonya đang hoạt động khi chị cởi nút chiếc áo jacket và quàng lên thành ghế. Tôi có thể thấy chị xác định lại tình thế. Chị sẽ không bênh chú Bill nếu không có ai làm vậy.
“Thế ai đã phơi bày mọi chuyện?” Cuối cùng chị nói, và uống một ngụm vang. “Một tay nhà báo điều tra à?”
“Là Lara,” bố nói, hơi mỉm cười.
“Lara ư?” Trông chị phẫn nộ hơn bao giờ hết. “Em có ý định gì thế hả Lara?”
“Em đã khám phá ra chuyện về bà dì Sadie và bức tranh,” tôi giải thích. “Em ghép mọi chuyện lại với nhau. Đó là em.”
“Nhưng...” má Tonya phồng lên vì không tin nổi. “Nhưng em đâu có được nhắc đến trên báo?”
“Em không thích rùm beng,” tôi nói vẻ bí ẩn, giống như một người hùng biến vào bóng tối mà không để lại tên tuổi và không cần bất cứ một phần thưởng nào hơn là làm việc nghĩa.
Mặc dù nói thực là tôi cũng thích được xuất hiện trên báo lắm. Nhưng chẳng ai buồn tới phỏng vấn tôi cả, dù tôi đã duỗi tóc thẳng tưng để ngộ nhỡ có ai đến. Tất cả các bài báo đều chỉ nói, “Phát hiện trên là của một thành viên trong gia đình.”
“Thành viên trong gia đình.” Hừm.
“Nhưng chị không hiểu.” Cặp mắt xanh hiểm ác của Tonya đang chiếu vào tôi. “Trước hết là tại sao em lại đi sục sạo?”
“Bản năng mách bảo em là có gì đó không ổn về chuyện bà dì Sadie. Nhưng không ai muốn nghe em cả,” tôi không nhịn được nói thêm với giọng châm chọc. “Lúc ở lễ tang, mọi người đều nghĩ là em bị tâm thần.”
“Em đã bảo là bà ấy bị sát hại,” Tonya cự lại. “Bà không hề bị sát hại.”
“Một bản năng mơ hồ nào đó bảo em rằng có gì đó sai trái,” tôi nói với phong thái trang trọng. “Vậy nên em quyết định tự mình lần theo những nghi ngờ của mình. Và, sau một chút tìm hiểu, những mối nghi ngờ đó đã được chứng thực.” Mọi người nuốt lấy từng lời của tôi như thể tôi là giảng viên đại học vậy. “Rồi em tới gặp các chuyên gia ở Phòng tranh Chân dung London và họ xác minh lại phát hiện của em.”
“Đúng là họ đã làm vậy,” bố mỉm cười với tôi.
“Và chị biết không?” tôi hãnh diện nói thêm. “Họ đang xác định giá trị của bức tranh và chú Bill sẽ chia cho bố một nửa trị giá của nó!” “Không thể nào.” Tonya đưa tay lên bịt miệng. “Không thể nào. Sẽ là bao nhiêu?”
“Hàng triệu, hình như vậy.” Trông bố có vẻ ngại ngùng. “Hình như Bill đã rất cứng rắn.”
“Đó chỉ là thứ mà chú ấy nợ bố thôi mà,” tôi nói lần thứ một triệu. “Chú ấy đã đánh cắp nó của bố. Chú ấy là kẻ cắp!”
Tonya có vẻ hơi im lặng. Chị lấy một cái bánh mì tròn và dùng răng xé.
“Em đã xem bài xã luận trên tờ Times chưa?” cuối cùng chị nói. “Tàn bạo.”
“Nó hơi bị hung dữ.” Bố nhăn mặt. “Dù thế nào, bố mẹ thấy thương Bill...”
“Không đúng thế!” mẹ cắt lời. “Đấy là về phía anh thôi.”
“Pippa!” Trông bố sửng sốt.
“Em không thấy thương chú ấy dù chỉ mảy may.” Mẹ nhìn khắp bàn với vẻ bướng bỉnh. “Em thấy... tức giận. Đúng. Tức giận.”
Tôi há hốc miệng nhìn mẹ vì kinh ngạc. Suốt đời mình tôi không nghĩ là đã bao giờ nghe thấy mẹ thực sự nói mẹ tức giận chưa. Bên kia bàn, Tonya trông cũng sững sờ y như thế. Chị nhướng mày lên hỏi tôi và tôi hơi nhún vai đáp lại.
“Việc làm của chú ấy thật đáng xấu hổ và không thể tha thứ được,” mẹ nói tiếp. “Bố các con luôn cố gắng nhìn thấy mặt tốt của mọi người; để tìm lời biện hộ. Nhưng đôi khi không hề có mặt tốt nào cả. Không có một lời biện hộ nào cả.”
Tôi không biết là mẹ lại có tinh thần chiến đấu đến thế. Má mẹ hồng lên và mẹ nắm chặt ly vang của mình như thể sắp cầm nó giơ thẳng lên trời.
“Cừ lắm mẹ!” tôi kêu lên.
“Và nếu bố các con cứ cố gắng bào chữa cho chú ấy...”
“Anh không bào chữa cho chú ấy!” bố nói ngay lập tức. “Nhưng chú ấy là em trai anh. Chú ấy là người thân. Thật khó...”
Ông thở dài sườn sượt. Tôi có thể thấy sự thất vọng hằn lên trong những nếp nhăn dưới mắt bố. Bố muốn thấy sự tốt đẹp ở mọi người. Đó là một phần bản chất con người bố.
“Sự thành đạt của em trai anh đã trùm một cái bóng lớn lên gia đình ta.” Giọng mẹ run lên. “Nó ảnh hưởng tới tất cả chúng ta theo cách khác nhau. Giờ đã đến lúc tất cả chúng ta được giải thoát. Em nghĩ vậy. Chấm hết.”
“Bố mẹ biết không, con đã giới thiệu cuốn sách của chú Bill với câu lạc bộ sách của con,” Tonya đột nhiên nói. “Con đã bán tám bản cho chú ấy.” Trông chị hầu như phẫn nộ vì chuyện này hơn bất cứ chuyện gì khác. “Thế mà nó là những lời dối trá! Chú ấy thật đáng khinh!” Đột nhiên chị quay sang bố. “Và nếu bố không cùng nghĩ như vậy, bố à, nếu bố không cảm thấy giận tái người với chú ấy, thì bố là đồ ngốc!”
Trong thâm tâm tôi không khỏi cảm thấy thích thú. Đôi khi cái kiểu trực tính, không thèm đếm xỉa của Tonya là cái mà người ta cần.
“Bố rất giận,” cuối cùng bố nói. “Đương nhiên là thế. Đó chỉ là một sự điều chỉnh. Nhận ra rằng em trai mình là một kẻ khốn kiếp ích kỷ... bất lương đến thế.” Bố thở ra nặng nhọc. “Ý bố là, cái đó nói lên điều gì?”
“Nói rằng chúng ta sẽ quên chú ấy đi,” mẹ nói dứt khoát. “Tiến lên. Bắt đầu sống nốt quãng đời còn lại của mình mà không cảm thấy mình như là công dân hạng hai.”
Giọng mẹ cứng cỏi hơn so với cái giọng tôi từng nghe bao năm nay! Tiến lên nào mẹ!
“Vậy, ai đang xử lý mọi chuyện với chú ấy?” Tonya cau mày. “Chẳng phải là chuyện này đòi hỏi phải khôn khéo một chút sao?”
“Lara đã làm mọi chuyện,” mẹ nói hãnh diện. “Nói chuyện với chú Bill, nói chuyện với phòng tranh, cắt đặt mọi thứ... và đã mở công ty mới của chính mình! Con bé đã trở thành một ngọn tháp vững chãi!”
“Tuyệt!” Tonya cười rộng ngoác, nhưng tôi có thể thấy là chị đang khó chịu. “Em cừ lắm, Lara.” Chị nhấp một ngụm vang và đảo trong miệng vẻ suy nghĩ. Tôi biết là chị đang tìm một điểm nhạy cảm nào đó; một cách để giành lại uy thế...
“Vậy chuyện với Josh thế nào rồi?” Chị ra vẻ thông cảm. “Bố đã kể với chị là bọn em quay lại với nhau một thời gian nhưng rồi lại chia tay hẳn? Chuyện đó chắc phải khổ tâm lắm. Thật choáng váng.”
“Chuyện đó ổn rồi.” Tôi nhún vai. “Em đã vượt qua.”
“Nhưng chắc em phải cảm thấy bị tổn thương lắm,” Tonya dai như đỉa, đôi mắt như mắt bò của chị xói vào mắt tôi. “Sự tự tin của em hẳn đã bị giáng một đòn đau. Nhớ rằng điều đó không có nghĩa là em không hấp dẫn, Lara. Phải không?” Chị lôi kéo bố mẹ. “Có những người đàn ông khác...”
“Bạn trai mới của em đã làm em vui lên,” tôi tươi tỉnh nói. “Vậy thì có gì em phải lo.”
“Bạn trai mới?” Miệng chị há ra. “Đã có rồi?”
Chị ấy không cần phải sửng sốt như thế.
“Anh ấy là một cố vấn người Mỹ sang đây theo diện biệt phái. Anh ấy tên Ed.”
“Rất đẹp trai,” bố xen vào hỗ trợ.
“Anh ấy đã đưa bố mẹ đi ăn trưa tuần trước!” mẹ phụ họa.
“Ồ.” Trông Tonya có vẻ ngượng. “Thế thì... tuyệt. Nhưng sẽ khó khăn khi anh ta trở lại Mỹ, phải không nào?” Trông chị rõ là hoan hỉ. “Những mối quan hệ xa cách dễ có khả năng tan vỡ nhất đáy. Nào là những cuộc gọi từ bên kia Đại Tây Dương... rồi múi giờ khác nhau...”
“Ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra?” Tôi nghe thấy mình nói ngọt sớt.
“Tôi có thể khiến anh ta ở lại!” Tiếng Sadie khẽ nói vào tai tôi khiến tôi giật thót. Tôi quay sang thì thấy cô đang lơ lửng ngay cạnh tôi, mắt sáng lên cả quyết. “Tôi là thiên thần hộ mệnh của cô mà. Tôi sẽ khiến Ed ở lại Anh!”
“Xin lỗi một chút,” tôi nói với cả bàn, “Con phải gửi một tin nhắn...”
Tôi lôi điện thoại ra và viết tin nhắn, đặt màn hình ỏ góc độ Sadie có thể nhìn thấy.
“Chuyện ổn mà. Cô không cần phải khiến anh ấy ở lại. Cô đã ở đâu thế?”
“Hoặc tôi có thể khiến anh ta hỏi cưới cô!” cô kêu lên, phớt lờ câu hỏi của tôi. “Quả thú vị! Tôi sẽ bảo anh ta cầu hôn, và tôi sẽ đảm bảo chắc chắn anh ta chọn một chiếc nhẫn cực kỳ lộng lẫy, việc sửa soạn cho lễ cưới sẽ vui lắm đấy...”
“Không, không, không!” tôi vội viết. “Sadie, thôi đi! Đừng bắt Ed làm bất cứ việc gì. Tôi muốn anh ấy tự quyết định. Tôi muốn anh ấy lắng nghe tiếng nói của chính mình.”
Sadie hơi đằng hắng khi cô đọc tin nhắn của tôi. “Tôi nghĩ là giọng của tôi hay hơn chứ,” cô nói, và tôi không khỏi mỉm cười.
“Nhắn tin cho bạn trai em à?” Tonya nói, quan sát tôi.
“Không,” tôi nói lập lờ. “Chỉ là... một ngưòi bạn thôi. Một người bạn tốt.” Tôi quay đi và gõ vào, “Cảm ơn vì tất cả mọi việc cô đã giúp tôi. Cô không cần phải làm thế.”
“Tôi muốn thế!” Sadie nói. “Nó thú vị lắm! Cô đã uống sâm banh chưa đấy?”
“Chưa,” tôi nhắn lại, muốn bật cười. “Sadie, cô là thiên thần hộ mệnh tốt nhất TRẦN ĐỜI.”
“Ờ, tôi cũng thấy khá là tự hào.” Cô tự khen mình. “Nào, tôi ngồi đâu được?”
Cô bay lơ lửng bên trên bàn và ngồi vào một chiếc ghế trống ở phía cuối bàn, ngay lúc ấy Kate đi vào, mặt ửng hồng vì phấn khích.
“Biết gì không!” cô nói. “Chúng ta vừa nhận được một thùng sâm banh từ một cửa hàng bán rượu chai ở góc phố! Người đàn ông đó nói rằng nó là để chào đón chúng ta đến với khu vực này! Và cô nhận được rất nhiều cuộc gọi, Lara ạ, tôi đã ghi lại tất cả các số điện thoại... và bưu phẩm gửi đến, được chuyển tiếp từ căn hộ của cô. Tôi không mang theo tất cả ở đây nhưng có một cái gói mà tôi nghĩ có lẽ là quan trọng, nó được gửi từ Paris...” Cô đưa cho tôi cái túi Jiffy, kéo ghế ra và toét miệng cười với mọi người. “Cả nhà đã gọi đồ chưa ạ? Cháu đói nhũn cả rồi! Chào chị, chúng ta chưa gặp nhau, tôi là Kate...”
Khi Kate và Tonya tự giới thiệu còn bố rót thêm rượu cho tôi, tôi nhìn chằm chằm vào cái túi Jiffy, đột nhiên hiểu ra mà nín thở. Nó được gửi đi từ Paris. Bên ngoài có nét chữ viết tay của con gái. Khi ấn vào, tôi cảm thấy có gì đó cưng cứng và mấp mô ở bên trong. Cứng và mấp mô như một chuỗi hạt.
Tôi từ từ ngước mắt lên. Sadie đang nhìn tôi chăm chú từ bên kia bàn. Tôi biết cô cũng đang nghĩ như tôi.
“Tiếp tục đi.” Cô gật đầu.
Hai bàn tay run run, tôi xé cái bọc ra. Tôi ngó vào bên trong thì thấy một đống giấy lụa. Tôi đẩy đống giấy sang một bên thì thấy một ánh vàng óng ánh, nhợt nhạt lóe lên. Tôi ngước lên, nhìn thẳng vào Sadie.
“Chính là nó phải không?” Cô trắng bệch ra. “Cô đã lấy lại được nó.”
Tôi gật đầu, chỉ một cái. Rồi, hầu như không biết mình đang làm gì, tôi đẩy ghế ra.
“Con phải... gọi điện.” Giọng tôi đột nhiên sàn sạn. “Con đi ra ngoài đây. Chốc nữa sẽ quay lại.”
Tôi lách qua đống bàn ghế để đi ra phía sau nhà hàng, nơi có một cái sân trong nhỏ và khuất. Tôi băng qua cửa thoát hiểm khi có cháy, đi về phía cái góc xa, rồi mở cái túi Jiffy ra lần nữa, lôi gói giấy lụa ra và nhẹ nhàng dỡ gói bọc.
Sau ngần ấy thời gian. Tôi đang cầm nó. Chỉ là như thế.
Sờ vào nó ấm hơn tôi tưởng. Cảm giác thật hơn thế nào đó. Một tia nắng chớp lên làm những viên kim cương giả lấp lánh và những cái hạt trở nên long lanh. Nó lộng lẫy đến độ đột nhiên tôi khao khát được đeo nó lên cổ. Nhưng thay vì thế tôi lại ngước lên nhìn Sadie, cô đang lặng lẽ quan sát tôi.
“Của cô đấy. Nó là của cô.” Tự nhiên tôi cứ cố quàng nó vào cổ cô như thể đang trao cho cô một chiếc huy chương Olympic. Nhưng hai tay tôi lại lút hẳn qua người cô. Tôi cố làm lại mấy lần, dù biết chẳng ích gì.
“Tôi không biết phải làm sao!” Tôi nửa cười, nửa mếu. “Nó là của cô! Cô phải được đeo nó! Chúng ta cần một phiên bản dành cho ma...”
“Thôi đi!” Giọng Sadie vót lên vì đột ngột căng thẳng. “Đừng có...” Cô ngừng sững lại và tránh tôi, mắt dán vào những tấm lát trên sân. “Cô biết cô phải làm gì.”
Im lặng ngoại trừ tiếng rú của xe cộ đều đều vọng vào từ đường Iớn. Tôi không thể nhìn Sadie. Tôi chỉ đứng đó, nắm chặt chuỗi hạt, tôi biết đây là cái mà chúng tôi đã theo đuổi, truy lùng và ao ước. Nhưng giờ khi đã có nó.. tôi lại không muốn nó tới đây. Không hề. Chuỗi hạt là lý do Sadie ám tôi. Khi cô lấy lại được nó...
Những ý nghĩ của tôi lập tức chuyển hướng. Tôi không muốn nghĩ về chuyện đó. Tôi không muốn nghĩ tới nó một chút nào.
Một cơn gió nhẹ làm chút lá rơi xào xạc trên nền đất, Sadie ngước nhìn lên, trắng bệch và kiên quyết.
“Cho tôi một chút thời gian.”
“Được.” Tôi nuốt nghẹn. “Được thôi.” Tôi cất chuỗi hạt vào trong túi xách và trở vào trong nhà hàng. Sadie đã biến mất.
Tôi không nuốt nổi pizza. Tôi không trò chuyện cho ra hồn. Tôi không tập trung được khi trở về văn phòng, mặc dù có thêm sáu cuộc gọi nữa từ các quản lý nhân sự của các hãng lớn muốn hẹn lịch gặp tôi. Túi tôi đang đặt trong lòng; tay tôi đang tóm chặt chuỗi hạt trong túi và tôi không thể bỏ ra.
Tôi nhắn tin cho Ed bảo tôi bị đau đầu và cần ở một mình, về tới nhà, tôi không thấy Sadie đâu, điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Tôi nấu bữa tối nhưng không ăn, rồi ngồi xuống giưòng với chuỗi hạt quàng trên cổ, xoắn các hạt lại và xem những bộ phim có trên kênh TCM, thậm chí không buồn cố gắng chợp mắt. Cuối cùng, khoảng năm rưỡi, tôi dậy, mặc quần áo rồi đi ra ngoài. Màu xám dịu của buổi ban mai đã nhuốm sắc chói lọi, hồng đỏ của mặt trời mọc. Tôi đứng yên, nhìn đăm đăm vào những dải màu đỏ trên bầu trời một lúc, và bất kể mọi chuyện thế nào tôi vẫn cảm thấy tinh thần phấn chấn lên. Rồi tôi mua một ly cà phê ở quán, bắt xe buýt đi về phía Waterloo, ngây người nhìn ra ngoài khi xe buýt đi qua các con phố. Khi tôi đến nơi thì đã gần sáu rưỡi. Người người đang bắt đầu xuất hiện trên cầu và ngoài phố. Mặc dù vậy Phòng tranh Chân dung London vẫn đóng cửa. Khóa và trống rỗng; không có ma nào bên trong. Dù sao thì đó là chuyện hiển nhiên.
Tôi thấy một bức tường gần đó, ngồi xuống và nhám nháp cà phê chỉ còn hơi âm ấm nhưng vẫn ngon lành đối với một cái dạ dày trống rỗng. Tôi đã chuẩn bị tinh thần ngồi đây cả ngày, nhưng khi chuông ở ngôi nhà thờ gần đổ điểm tám giờ thì cô hiện ra trên cầu thang, trên mặt lại xuất hiện cái nhìn mơ màng đó. Cô mặc một bộ váy đẹp tuyệt khác, bộ này màu xám ngọc trai với chân váy vải tuyn cắt hình cánh hoa. Một cái mũ không vành màu xám chụp lên đầu, và mắt cô hơi khuất. Không muốn làm cô hoảng nên tôi đợi cho đến khi cô phát hiện ra tôi và giật mình ngạc nhiên.
“Lara.”
“Chào.” Tôi giơ một bàn tay lên. “Tôi nghĩ là cô ở đây.”
“Chuỗi hạt của tôi đâu?” Giọng cô chói tai vì hoảng sợ. “Cô làm mất rồi à?”
“Không! Đừng lo. Tôi mang theo nó đây. Nó không sao cả. Nó ở ngay đây. Nhìn xem.”
Không có ai quanh đó, nhưng tôi cứ liếc phải liếc trái đề phòng. Rồi tôi lôi chuỗi hạt ra. Trong ánh sáng rõ mặt người trông nó ngoạn mục hơn bao giờ hết. Tôi để nó chảy xuống trên hai tay và những cái hạt khẽ lách cách va vào nhau. Cô nhìn chằm chằm vào nó một cách trìu mến, đưa tay ra như định đón lấy nó, rồi lại rụt lại.
“Tôi ước mình có thể chạm vào nó,” cô thì thầm.
“Tôi hiểu.” Vô vọng, tôi đưa nó về phía cô, như thể dâng một lễ vật. Tôi muốn quàng nó lên cổ cô. Tôi muốn hợp nhất cô với nó.
“Tôi muốn có lại nó,” cô nói khẽ. “Tôi muốn cô trả nó về lại với tôi.”
“Ngay bây giờ? Hôm nay ư?”
Sadie nhìn vào mắt tôi. “Ngay bây giờ.”
Cổ họng tôi đột nhiên nghẹn thắt. Tôi không thể thốt ra bất cứ điều gì tôi muốn nói. Dẫu vậy, tôi nghĩ là cô cũng hiểu mà.
“Tôi muốn có lại nó,” cô nhắc lại, nhẹ nhàng nhưng dứt khoát. “Tôi đã không có nó quá lâu rồi.”
“Được thôi.” Tôi gật đầu vài lần, tay nắm chặt chuỗi hạt đến mức tôi nghĩ chúng có thể bị mẻ mất. “Vậy là, cô cần phải có nó.”
Chuyến đi quá ngắn. Taxi phóng qua những con phố quá dễ dàng. Tôi muốn bảo người lái xe đi chậm lại. Tôi muốn thời gian ngừng trôi. Tôi muốn chiếc taxi bị tắc đường sáu tiếng... Nhưng thình lình chúng đỗ lại trên một con phố nhỏ ở ngoại ô. Chúng tôi đã tới nơi.
“Ờ, nhanh thật, phải không?” Giọng Sadie tươi tỉnh một cách dứt khoát.
“Đúng thế!” Tôi cố mỉm cười. “Nhanh đến kinh ngạc.”
Khi ra khỏi taxi tôi cảm thấy một nỗi khiếp sợ siết chặt lấy ngực tôi cứng như sắt. Một bàn tay tôi tóm chặt lấy chuỗi hạt, đến mức những ngón tay bị co rút. Nhưng tôi không thể khiến mình nới lỏng ra, ngay cả khi tôi phải đánh vật mới trả được tiền cho người lái xe bằng tay còn lại.
Chiếc taxi rồ ga phóng đi, Sadie và tôi nhìn vào nhau. Chúng tôi đang đứng trước một dãy cửa hàng nhỏ, một trong số đó là cửa hàng dịch vụ tang lễ.
“Nó kia kìa.” Tôi chỉ vào cái biển hiệu đề “Nhà nguyện Yên nghỉ” một cách không cần thiết. “Trông như là nó đang đóng cửa vậy.”
Sadie đã lướt đến chỗ cánh cửa khóa im ỉm và ngó vào qua ô cửa sổ. “Tôi cho rằng tốt hơn là ta nên đợi.” Cô nhún vai và trở lại bên cạnh tôi. “Chúng ta có thể ngồi ở đây.”
Cô ngồi xuống cạnh tôi trên một băng ghế gỗ dài và trong một lúc cả hai chúng tôi đều im lặng. Tôi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Tám giờ năm mươi nhăm. Họ mở cửa hàng lúc chín giờ. Ý nghĩ đó khiến tôi đột nhiên thấy hoảng sợ, vì vậy tôi tránh không nghĩ tới nó. Chưa nghĩ tới. Tôi sẽ chỉ tập trung vào chuyện tôi đang ngồi đây, cùng Sadie.
Mà này, váy đẹp đấy.” Tôi nghĩ tôi nói nghe khá là bình thường. “Cô chôm được của ai vậy?”
“Chẳng ai cả,” Sadie nói, nghe có vẻ bị xúc phạm. “Nó là của tôi.” Cô đưa mắt nhìn tôi một lượt, rồi nói miễn cưỡng, “Giày của cô cũng đẹp đấy.”
“Cảm ơn.” Tôi muốn mỉm cười, nhưng miệng tôi lại không mở ra nổi như thế. “Tôi mua hôm trước. Thật ra là Ed đã giúp tôi chọn. Bọn tôi đi mua sắm muộn. Bọn tôi đã tới trung tâm mua sắm Whiteleys. Họ có tất cả những mặt hàng đặc biệt này...”
Tôi không biết mình đang nói gì, tôi chỉ đang nói để mà nói thôi. Vì nói thì tốt hơn là chờ đợi. Tôi liếc đồng hồ lần nữa và thấy đã chín giờ hai phút. Họ đã trễ. Buồn cười là tôi lại cảm thấy biết ơn, giống như chúng tôi được hoãn thi hành án vậy.
“Anh ta rất được về khoản ấy phải không?” đột nhiên Sadie nói suồng sã. “Ý tôi là Ed ấy. Mà cả cô cũng không tồi.”
Khoản ấy ư?
Cô không định nói là...
Không. Không.
“Sadie” Tôi đột ngột tấn công. “Tôi biết ngay mà! Cô đã xem bọn tôi!"
“Gì cơ?” Cô cười phá lên rung cả người. “Tôi đã náu kỹ lắm cơ mà! Cô không hề biết là tôi ở đó.”
“Cô đã nhìn thấy gì?” tôi rên rỉ.
“Mọi thứ,” cô nói tỉnh queo. “Và đó đúng là một màn trình diễn thú vị, tôi có thể nói với cô như vậy.”
“Sadie, cô thật quá thể!” tôi vọc tay lên tóc, “Cô không được nhìn người ta làm tình với nhau! Có luật cấm đấy!”
“Tôi chỉ chê chút xíu,” cô nói, phớt lờ tôi. “Hoặc, đúng hơn là... gợi ý. Một kiểu mà vào thời tôi bọn tôi hay làm.”
“Không!” tôi thốt lên kinh hoàng. “Không gợi ý gì hết!”
“Cô lúng túng rồi kìa.” Cô nhún vai và ngắm nghía móng tay thỉnh thoảng liếc xéo tôi một cái từ dưới hàng mi.
Ôi vì Chúa. Đương nhiên, giờ thì đến lượt tôi nổi cơn tò mò. Tôi muốn biết gợi ý của cô là gì.
“Được rồi,” cuối cùng tôi nói. “Nói cho tôi biết thủ thuật làm tình đặc trưng của thập niên hai mươi xem nào. Nhưng tốt hơn hết là đừng có dính dáng đến một thứ bột nhão kỳ dị không thể gột sạch được đấy nhé.” “Ờ...” Sadie bắt đầu, tiến lại gần hơn. Nhưng cô chưa kịp tiếp tục thì ánh mắt tôi đột nhiên hướng qua vai cô. Tôi cứng đờ lại và hít vào một hơi. Một người đàn ông lớn tuổi mặc áo khoác dài đang mở khóa cửa hiệu dịch vụ tang lễ.
“Gì vậy?” Sadie nhìn theo ánh mắt của tôi. “Ồ.”
“Đúng thế.” Tôi nuốt nước bọt.
Giờ thì người đàn ông lớn tuổi đó đã nhìn thấy tôi. Tôi nghĩ là tôi khá dễ nhận ra vì cứ ngồi thẳng đơ trên chiếc ghế dài nhìn thẳng vào ông ta.
“Cô có ổn không?” ông ta nói vẻ cảnh giác.
“Ừm... chào ông.” Tôi gượng đứng dậy. “Thật ra là tôi... tôi tới để thăm... để tỏ lòng thành kính. Đó là bà dì tôi. Sadie Lancaster. Tôi tin ông là... đây là nơi...”
“À à.” Ông ta gật đầu ủ ê. “Vâng.”
“Tôi... có thể... nhìn bà được không?”
“À à.” Ông ta lại cúi đầu lần nữa. “Đương nhiên rồi. Cho tôi một phút để mở cửa nơi đó, sắp xếp lại cho ngay ngắn, rồi tôi sẽ đi vào cùng cô, cô...”
“Lington.”
“Lington.” Mặt ông ta thoáng qua một tia nhận ra. “Đương nhiên rồi, đương nhiên rồi. Nếu cô muốn vào đợi trong phòng của gia đình tôi..."
“Lát nữa tôi sẽ vào đó.” Tôi gần như mỉm cười. “Chỉ là... có cuộc điện thoại phải gọi...”
Ông ta biến vào trong. Tôi hoàn toàn không cử động nổi mất một lúc. Tôi muốn kéo dài khoảnh khắc lãng quên này. Tôi muốn chúng tôi ngừng làm việc đó lại. Nếu tôi không thừa nhận nó, có lẽ nó sẽ không thật sự xảy ra.
“Có chuỗi hạt ở đó chưa?” Giọng Sadie cất lên bên cạnh tôi.
“Ngay đây rồi.” Tôi lôi nó ra khỏi túi.
“Tốt.” Cô mỉm cười, nhưng đó là một nụ cười căng thẳng, lạnh nhạt. Tôi có thể thấy là cô đã bỏ qua chủ đề những thủ thuật làm tình của thập niên hai mươi rồi.
“Vậy, cô sẵn sàng chưa?” Tôi cố nói sao cho nghe có vẻ bình thản. “Những nơi như thế này có thể khá là đáng thất vọng đấy...”
“Ô, tôi đã vào trong đó rồi,” Sadie nói thờ ơ. “Tôi sẽ ngồi ở đây chờ. Tốt hơn nhiều.”
“Được.” Tôi gật đầu. “Ý hay đấy. Cô không muốn...”
Tôi nói nhỏ dần, không thể nói tiếp - mà cũng không thể nói ra điều tôi thật sự nghĩ. Cái ý nghĩ cứ lởn vởn trong đầu tôi như một giai điệu báo điềm gở, càng lúc càng to.
Chẳng lẽ sẽ không ai trong chúng tôi nói ra điều đó?
“Vậy.” Tôi nuốt nước bọt khó khăn.
“Vậy sao?” Giọng Sadie tươi tỉnh và lanh lảnh như mảnh kim cương vỡ - và ngay lập tức tôi hiểu ra. Ý nghĩ đó cũng đang diễn ra trong đầu cô.
“Cô nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi tôi... khi...”
“Có phải cô muốn nói là cuối cùng cô sẽ dứt được tôi?” Sadie nói, xấc xược như mọi khi.
“Không! Tôi chỉ muốn nói là...”
“Tôi biết. Cô đang chỉ muốn mau mau chóng chóng thoát khỏi tôi thôi. Chán nhìn thấy cái mặt tôi rồi.” Cằm cô run lên nhưng cô lại thoáng mỉm cười với tôi. “Ờ, tôi nghĩ chuyện đó phải mất ít lâu đấy.”
Mắt cô nhìn vào mắt tôi và tôi có thể thấy trong đó thông điệp. Đừng để mất nó. Đừng đắm mình. Hếch cằm lên.
“Vậy thì tôi mắc kẹt với cô rồi.” Không hiểu sao tôi lấy được giọng chế giễu. “Tuyệt thật.”
“E là vậy.”
“Đúng là thứ mà mọi cô gái đều cần.” Tôi đảo mắt. “Một con ma hách dịch quanh quẩn bên mình mọi lúc mọi nơi.”
“Một thiên thần hộ mệnh hách dịch,” cô sửa lại tôi một cách kiên quyết.
“Cô Lington?” Người đàn ông lớn tuổi nọ ló đầu ra khỏi cửa. “Khi nào cô sẵn sàng thì gọi nhé.”
“Cảm ơn ông! Tôi xong ngay đây!”
Khi cánh cửa đóng lại tôi đứng lên và chỉnh trang lại chiếc áo jacket một cách không cần thiết tới vài lần liền. Tôi giật cái thắt lưng, cho chắc là nó đã hoàn toàn thẳng thớm, câu giờ thêm ba mươi giây nữa.
“Vậy tôi sẽ bỏ chuỗi hạt này lại đó và gặp lại cô sau ít phút nhé?” Tôi cố ý nói giọng thản nhiên.
“Tôi sẽ ở đây.” Sadie vỗ lên chiếc ghế mà cô đang ngồi.
“Chúng ta sẽ đi xem phim. Đại loại thế.”
“Ừ.” Cô gật đầu.
Tôi đi một bước - rồi dừng lại. Tôi biết chúng tôi đang chơi một trò chơi. Nhưng tôi không thể bỏ đi như thế. Tôi quay người lại, thở khó nhọc, nhất quyết là tôi sẽ không để mất nó, tôi sẽ không để cô thất vọng.
“Nhưng... chỉ là đề phòng thôi. Phòng khi chúng ta...” Tôi không thể nói ra điều đó. Tôi thậm chí không thể nghĩ tới nó. “Sadie, thật...”
Chẳng có gì để nói cả. Không một lời nào đủ hay. Chẳng có gì diễn tả nổi chuyện được quen biết Sadie giống như thế nào.
“Tôi hiểu,” cô thì thào, và mắt cô giống như hai vì sao lấp lánh đen thẫm. “Tôi cũng thế. Đi đi.”
Khi tới chỗ cánh cửa hiệu dịch vụ tang lễ, tôi ngoái lại nhìn lần cuối. Cô đang ngồi thẳng với tư thế hoàn hảo, cổ cao và trắng như mọi khi, bộ váy phủ lên khung người mảnh dẻ. Mặt cô hướng thẳng về phía trước, hai bàn chân xếp thẳng hàng gọn ghẽ, hai bàn tay đặt trên đầu gối. Hoàn toàn im lặng. Như thể cô đang chờ đợi.
Tôi không thể tưởng tượng nổi chuyện gì đang diễn ra trong đầu cô.
Khi tôi đứng đó cô bỗng nhận ra là tôi đang nhìn cô, cô bèn hếch cao cằm lên và đột nhiên mỉm cười bướng bỉnh, mê hồn.
“Chiến!” cô kêu lên.
“Chiến,” tôi đáp lại. Theo bản năng tôi tặng cô một cái hôn gió. Rồi tôi quay đi và quyết tâm đẩy cửa bước vào. Đã đến lúc phải làm việc này.
Người điều hành đám tang đã pha cho tôi một tách trà và vội kiếm cho tôi hai miếng bánh quy bơ giòn, đặt vào cái đĩa được trang trí hoa hồng. Ông ta là một người đàn ông có cái cằm lẹm đáp lại mọi lời bình phẩm chỉ với một tiếng “À à” trầm trầm, ảm đạm trước khi thực sự trả lời. Cái kiểu đó thật bực mình.
Ông ta dẫn tôi xuống một hành lang màu tùng lam, rồi ý tứ dừng lại bên ngoài một cánh cửa gỗ đề “Buồng Hoa huệ.”
“Tôi sẽ để cô ở một mình một lát.” Ông ta mở cánh cửa ra bằng một cú vặn thành thạo và đẩy hé cửa ra một chút, rồi nói thêm, “Có đúng bà ấy từng là cô gái trong bức tranh nổi tiếng đó không? Bức tranh được nhắc đến trên báo ấy?”
“Đúng thế.” Tôi gật đầu.
“À à.” Ông ta cúi đầu. “Thật phi thường. Người ta khó mà tin nổi chuyện đó. Đúng là một bà cụ đã rất, rất già. 105, phải không nhỉ? Một cái tuổi cổ lai hy.”
Mặc dù biết là ông ta đang cố gắng tỏ ra ân cần nhưng lời lẽ của ông ta khiến tôi thấy bị đụng chạm.
“Tôi không nghĩ về bà như vậy,” tôi nói xẵng. “Tôi không nghĩ bà đã già đến thế.”
“À à.” Ông ta vội gật đầu. “Đúng rồi.”
“Mà này. Tôi muốn đặt một thứ vào... quan tài. Thế có được không? Có an toàn không?”
“À à. Khá an toàn, tôi đảm bảo.”
“Và riêng tư,” tôi nói dữ dằn. “Tôi không muốn bất cứ ai khác vào đây sau tôi. Nếu họ muốn, ông sẽ liên lạc với tôi trước tiên được chứ?”
“À à.” Ông ta nhìn đôi giày của mình một cách kính cẩn. “Đương nhiên rồi.”
“Được rồi. Cảm ơn ông. Tôi sẽ... đi vào đó ngay bây giò.”
Tôi bước vào trong, đóng cửa lại sau lưng và cứ đứng đó một lát. Giờ tôi đã ở đây, giờ tôi đang thực sự làm việc này, hai chân tôi cảm giác hơi ướt. Tôi lại nấn ná thêm một chút nữa, cố gắng kiềm chế bản thân, tự nhủ mình không được sợ hãi. Sau một phút tôi ép mình bước được một bước về phía cỗ quan tài gỗ to đùng. Rồi bước nữa.
Đó là Sadie. Sadie thực sự. Bà dì 105 tuổi của tôi. Người đã sống và đã chết mà tôi chưa bao giờ biết đến. Tôi tiến lên, thở khó nhọc. Khi bước tới nơi tôi chỉ thấy một mớ tóc bồng bạc trắng khô và thoáng thấy một làn da già nua đã khô quắt.
“Của bà đây, Sadie,” tôi thì thầm. Nhẹ nhàng, cẩn thận, tôi quàng nó quanh cổ bà. Tôi đã hoàn tất việc đó.
Cuối cùng. Tôi đã hoàn tất việc đó.
Trông bà nhỏ bé và teo tóp quá. Quá yếu ớt. Suốt thời gian vừa qua tôi đã muốn được chạm vào Sadie, tôi đang nghĩ vậy. Những lần tôi cố siết lấy cánh tay bà hay ôm bà... và giờ bà đang ở đây. Bằng xương bằng thịt. Tôi thận trọng vuốt tóc bà và kéo bộ váy của bà cho phẳng phiu, ao ước hơn tất cả mọi điều là bà có thể cảm thấy sự động chạm của tôi. Cái thân hình dễ vỡ vụn bé xíu, già nua, mỏng manh ấy đã là nơi trú ngụ của Sadie suốt 105 năm. Đây thật sự là bà.
Khi đứng đó tôi cố gắng thở cho đều đặn; tôi đang cố nghĩ những ý nghĩ phù hợp, thanh thản. Có lẽ là vài từ để nói to lên. Tôi muốn làm một việc đúng đắn. Nhưng đúng lúc đó có một nhịp đập gấp gáp trong tôi, càng lúc càng lớn lên theo từng khoảnh khác tôi ở trong này. Sự thật là trái tim tôi không ở trong căn phòng này.
Tôi phải đi. Ngay bây giờ.
Chân tôi run run bước tới cánh cửa, vặn mạnh nắm đấm và đâm bổ ra ngoài, trước sự ngạc nhiên ra mặt của người cử hành tang lễ, đang quanh quẩn ngoài hành lang.
“Mọi chuyện ổn chứ?” ông ta hỏi.
“Ổn,” tôi nuốt ực, chân đã kịp bước rồi. “Mọi chuyện ổn. Cảm ơn ông rất nhiều. Tôi sẽ liên lạc lại. Nhưng giờ tôi phải đi. Tôi xin lỗi, chuyện này khá quan trọng...”
Ngực tôi cô cảm giác bị siết đến mức cơ hồ không thở nổi. Đầu tôi rung lên với những ý nghĩ tôi không muốn có. Tôi phải ra khỏi đây. Không hiểu sao tôi lại xuống được cái hành lang màu tùng lam và gần như chạy qua gian sảnh, gần như chạy. Tôi tới chỗ cửa ra và xộc thẳng ra phố. Và tôi dừng khựng lại, tóm chặt lấy cánh cửa, hơi hổn hển, nhìn thẳng sang bên kia đường.
Chiếc ghế trống không.
Tôi hiểu ra ngay.
Đương nhiên là tôi hiểu.
Nhưng chân tôi vẫn kéo tôi chạy sang bên kia đường. Tôi nhìn xuôi nhìn ngược vỉa hè một cách tuyệt vọng. Tôi gọi to “Sadie? SADIE?” cho đến khi khản cả tiếng. Tôi quệt nước mắt và lảng tránh câu hỏi của những người lạ tốt bụng rồi nhìn xuôi nhìn ngược con phố lần nữa và tôi sẽ không bỏ cuộc, cuối cùng tôi ngồi xuống chiếc ghế, chộp lấy nó bằng cả hai bàn tay. Để ngộ nhỡ. Và tôi đợi.
Khi cuối cùng trời đã nhá nhem và tôi bắt đầu run... thì tôi biết. Từ trong sâu thẳm, nơi nó có ý nghĩa.
Cô sẽ không trở lại. Cô đã sống tiếp.