Lục Thất đứng lẳng lặng trong viện, mắt nhìn về phương nam, im lặng suy tư như thế nào để tăng quân cho Tô Châu, trong đầu suy nghĩ điều động quân lực nơi nào là thích hợp. Cán Châu bên kia khẳng định là không thể động, một là có Sở quốc uy hiếp, hai là đạo quân bên đó có rất nhiều là lũ ô hợp, ba là quân đầu hàng cũng rất nhiều, nhất là nhóm quân hàng Hưng Hóa, đều là quân lính hùng dũng, rất khó quy quản, cho nên nhóm quân lực sùng kính hắn tại Cán Châu không thể lại điều đi.
Quân phủ Long Nguyên cũng không có thể động, nơi đó là nơi thủ hộ Chương Châu, Tuyền Châu, Phúc Châu, thậm chí cửa ngõ của Hải Châu, xem ra chỉ có điều ba vạn quân Mục Châu đi Tô Châu, sau đó điều ba vạn quân Tấn An Phủ đi Mục Châu.
Chỗ khuyết của Tấn An Phủ sẽ mộ binh bổ túc vào, tuy nhiên ba vạn quân Mục Châu trước phải điều đi Hải Châu, sau đó đi đường biển đến Tô Châu, lấy mục đích mê hoặc Việt Quốc, để Việt Quốc nghĩ rằng Tấn Quốc đang tiến hành luân chuyển quân lực bình thường, thay phiên đến Hải Châu khai hoang, khiến Việt Quốc lầm tưởng quân lực chỉ là điều đi Hải Châu.
Lục Thất cười khổ, kỳ thật hơn phân nửa quân lực của Mục Châu không phải cường quân, dù cho điều đi Tô Châu, biên độ tăng trưởng chiến lực cũng không lớn, nhưng nhất định phải điều quân đi qua. Có quân lực mới đến Tô Châu, sẽ cho quân lực Tô Châu một loại ảo giác, chính là Tô Châu không phải tứ cố vô thân, mà là bất cứ lúc nào cũng sẽ có càng nhiều quân lực có thể đến, mang ý nghĩa ổn định quân tâm, tăng chiến lực theo một nghĩa rộng.
Nhiều phần quân lệnh và thư tín nói rõ hàm ý đã được phát ra ngoài, dưới sự chủ đạo của Lục Thất quân lực của Tấn Quốc đã phát sinh thay đổi, các Quân soái và Chủ soái đều lặng lẽ ủng hộ Lục Thất điều quân, quân lệnh của Lục Thất có kẹp theo mật thư giải nghĩa, để các Thống soái hiểu được ý đồ mê hoặc Việt Quốc, cùng với trợ giúp phòng ngự Tô Châu và Thường Châu.
Năm ngày sau, Lục Thất nhận được thư của Lý Xuyên bẩm báo, hơn hai vạn tù binh đã được vận chuyển đến Đài Châu, y sẽ căn cứ sắp xếp của Lục Thất, áp giải từng nhóm chuyển đi các quân, một nửa sẽ đưa đi Bình Hải quân và Bành Hồ quân.
Tù binh của Thường Châu đa phần đều là thủy quân Đại Giang đóng quân tại Kinh Khẩu, vốn Trấn Hải quân của Đường Quốc chính là đại quân thủy bộ, cũng chỉ có Lý quốc chủ không hiểu quân sự, nên lý luận suông chiếu theo ý nghĩ của mình đi trị quân bố phòng.
Lại một ngày, đột nhiên có quân lệnh của Lâm Nhân Triệu đến, mệnh lệnh Lục Thất suất lĩnh đại quân đột kích Phủ Châu, qua Phủ Châu tiến binh áp sát biên giới Cát Châu, sau đó chờ đợi quân lệnh đánh vào phía bắc của ông ta. Lâm Nhân Triệu giải thích ý đồ dẫn dắt quân Sở đóng ở phủ Nam Xương phân quân đi phía nam.
Lục Thất tiếp nhận quân lệnh của Lâm Nhân Triệu, đồng thời trong lòng buông lỏng, cũng có nghi hoặc cổ quái, tâm buông lỏng là do, Lâm Nhân Triệu rốt cục lựa chọn dùng hắn thực thi kế hoạch chiến lược, trước kia hắn từng trao đổi với Lâm Nhân Triệu về khả năng binh biến tại Thường Châu, đây kỳ thật chính là tạo cho Lâm Nhân Triệu có một nhận thức ban đầu giữ vai trò chủ đạo.
Nếu như trước kia hắn không dối gạt qua Lâm Nhân Triệu, như vậy một khi Thường Châu xảy ra binh biến, phản ứng đầu tiên của Lâm Nhân Triệu sẽ cho rằng Thường Châu binh biến cùng hắn có quan hệ, tiến tới áp dụng một loạt biện pháp phòng bị như kẻ địch.
Một khi bị Lâm Nhân Triệu coi như kẻ địch, Lâm Nhân Triệu ngay lập tức sẽ điều quân trở về phủ Nam Xương, bước kế tiếp là tước đoạt quyền lĩnh quân của Lục Thất, cũng sẽ không tiếp tục dùng Lục Thất đi thực hiện hành động đột kích Kinh Quốc, mà sau khi Lục Thất biết được chiến lược của Lâm Nhân Triệu, cũng cảm thấy đó là một bố cục chiến lược có lợi cho Tấn Quốc.
Một khi chiến lược tập kích Kinh Quốc của Lâm Nhân Triệu được tiến hành, sẽ khiến cho Đường Quốc và Sở Quốc chân chính tiến nhập tranh phong, cuối cùng bất kể là ở Tây Bộ giành được thắng lợi hay không, đều đối với Tấn Quốc có lợi, mà Lục Thất cũng rất có hứng thú đối với Kinh Quốc kia.
Lục Thất coi trọng Kinh Quốc là xuất phát từ suy nghĩ chiến lược sâu xa, đất Kinh Quốc là trọng địa chiến lược thích hợp nhất để đột kích Ba Thục và Chu Quốc, nếu như Lâm Nhân Triệu đã phát động chiến sự đột kích với Kinh Quốc, dựa theo kế hoạch sau khi đột kích Kinh Quốc, sẽ rút quân về đột kích Nhạc Châu, tiến tới lại đánh phá Đàm Châu kinh thành của Sở Quốc.
Một khi quân lực Ngạc Châu đột kích tới Đàm Châu, Sở Quốc tất nhiên sẽ hoảng hốt điều quân cần Vương (cứu giúp triều đình trong cơn hoạn nạn), nếu như Sở Quốc điều đi quân lực tiếp giáp Cống Châu, như vậy cớ gì quân lực Cống Châu không xuất mười vạn quân đột kích Sâm Châu, lại tiện đà đột kích Hoành Châu, đánh hạ Hoành Châu là có thể thẳng tiến đến Đàm Châu. Hoặc là không cùng Đường Quốc tranh đoạt Đàm Châu, mà trước tiên đổi sang tiến công châu vực của Động Đình Hồ ở Tây bộ, đánh thông đến quốc vực mới của Kinh Quốc, sau đó lại mưu đồ những vùng đất bị Đường Quốc chiếm lĩnh.
Suy nghĩ chiến lược càng cao xa, giả tưởng bố cục tranh hùng càng nhiều, đối với Lục Thất mà nói, chiến lược của Lâm Nhân Triệu có lợi đối với Tấn Quốc, vậy thì đáng để phối hợp, trong lúc phối hợp vì Tấn Quốc tối đa hóa cơ hội tìm kiếm lợi ích. Sở Quốc bị đánh bại, đương nhiên Tấn Quốc cũng muốn mượn cơ hội cướp đoạt càng nhiều.
Tuy nhiên khiến Lục Thất nghi hoặc cổ quái chính là, Lâm Nhân Triệu thế nào sẽ để hắn suất quân đột kích Phủ Châu, đi binh bức quân Sở của Cát Châu. Hắn chỉ có hơn ba vạn quân lực, chẳng lẽ Lâm Nhân Triệu muốn cho Sở quân Cát Châu nghĩ rằng, Tấn Quốc đã liên minh với quân Đường, muốn cùng nhau tiến công quân Sở ở Cát Châu, khiến cho quân Sở Cát Châu cầu viện quân lực Hồng Châu.
Sau khi Lục Thất cẩn thận suy xét, hắn sai người đi báo cho Yến Khôi Sơn, bảo Yến Khôi Sơn tăng cường quân lực khu vực Vũ Di Sơn, tốt nhất là xây dựng quân trại hiểm yếu, chuẩn bị nhiều trúc mâu, trúc mâu chính là thân tre vót nhọn, bởi vì võ bị thiếu thốn, cho nên Lục Thất phát triển quân ném mâu, dùng tre thay mâu, sau đó để tướng sĩ khỏe mạnh luyện tập quăng phóng, nếu là hơn mấy trăm ngàn tướng sĩ cùng nhau ném mâu, thì lực sát thương còn lợi hại hơn so với cung tiễn, chỉ là cự ly phóng không xa bằng cung tiễn, tuy nhiên nếu như mâu từ trên cao phóng xuống, thì tuyệt đối so với cung tiễn thực dụng hơn.
Lục Thất lệnh hơn ba vạn đại quân xuất phát tập kích bất ngờ Phủ Châu, đồng thời tung ra đại lượng thám báo từ xa thăm dò phía Phủ Châu và phủ Nam Xương, Lục Thất lo lắng bị Lâm Nhân Triệu tính kế, nếu phát hiện chỗ không đúng, hắn sẽ lập tức lui quân đi Kiến Châu hoặc Hấp Châu, một nơi là hang ổ của hắn, một nơi là phòng tuyến Ninh Quốc quân của Dương Côn.
*****
Khi thời khắc đại quân Lục Thất tiến vào Phủ Châu, trong phủ Nam Xương cũng lâm vào tình huống tranh chấp kịch liệt, nhân vật chính tranh chấp là Chu Lệnh Vân và Lâm Nhân Triệu. Chu Lệnh Vân cầm một phong mật thư, để Lâm Nhân Triệu nhìn xem, y bảo Lâm Nhân Triệu lập tức điều Lục Thiên Phong trở về.
Sau khi Lâm Nhân Triệu xem xong thư, lập tức nhíu mày, trong mật thư nói, ba vạn quân Trung Ngô mới được tổ chức phụng ý chỉ Quốc chủ điều đi Thường Châu trú quân, không ngờ sau khi đến Thường Châu, đột nhiên bị mười vạn đại quân đột kích bất ngờ, đã làm cho ba vạn quân toàn quân bị diệt.
Thông qua mật thám ẩn núp tại Thường Châu lẩn trốn đến Giang Ninh hồi báo, không ngờ là hai vạn Trung Phủ dũng tạo phản, đầu hàng quân Giang Âm Trương Thị. Sau khi Giang Âm Trương Thị đạt được hai vạn quân Trung Phủ dũng quy hàng, gộp thành mười vạn quân tập kích tiêu diệt ba vạn Trung Ngô quân, sau đó mười vạn đại quân tụ tập trú tại huyện Tấn Lăng, đã hoàn toàn chiếm cứ Thường Châu. Mà trước đó, trên thực tế Giang Âm Trương Thị đã chiếm cứ Tô Châu.
Mật thư nói sau khi Giang Ninh nhận được hồi báo, Lý quốc chủ kinh hãi ngất đi, sau khi tỉnh lại liền hạ chỉ điều quân, điều ba vạn Ninh Quốc quân đi huyện Kim Đàn, điều hai vạn Khang Hóa quân cũng chạy tới huyện Kim Đàn, điều Đông Ngô quân lập tức rời khỏi Tây bộ, cũng đi huyện Kim Đàn.
Chu Lệnh Vân dựa vào mật thư, nghiến răng nói, việc Thường Châu xảy ra binh biến thoát không được quan hệ với Lục Thiên Phong, bởi vì Lục Thiên Phong có thể hiệu lệnh Trung Phủ dũng của Thường Châu, cho nên tuyệt không thể để cho Lục Thiên Phong tiếp tục ở ngoài lãnh quân.
Lâm Nhân Triệu cũng lâm vào rối rắm, ông ta nhận được hồi âm của Ngạc Châu, Vu Tướng quân nguyện ý đột kích Kinh Quốc, cho nên ông ta mới cho Lục Thất quân lệnh. Ngược lại, ông ta không có lòng dạ tính kế Lục Thất, không phải vì tín nhiệm Lục Thất, mà là ông ta cần Lục Thất phụ trợ, đi thực hiện kế hoạch chiến lược. Trên thực tế ông ta đối với Lục Thất không có bao nhiêu hảo cảm, đánh giá là một hạng người gian xảo ích kỷ.
Lâm Nhân Triệu rất nhanh cự tuyệt yêu cầu của Chu Lệnh Vân, lý do chính là Thường Châu bên kia, bởi vì ý chỉ của Quốc chủ bệ hạ, sở thuộc phủ Quận chúa của Lục Thiên Phong toàn bộ trở về Giang Ninh, trên thực tế Lục Thiên Phong đã mất đi ảnh hưởng đối với Thường Châu, hơn nữa không có công văn chính thức của triều đình, ông ta không thể một mình có bất kỳ hành động hoài nghi nào với Lục Thiên Phong.
Lâm Nhân Triệu đương nhiên có ý nghĩ của mình, ông ta cho rằng cho dù binh biến tại Thường Châu có liên quan tới Lục Thiên Phong, hiện giờ đi điều Lục Thiên Phong quay lại đã muộn. Khi Lục Thiên Phong gửi tới cho ông ta thư thượng cáo của Chủ soái, ông ta liền hiểu được, Lục Thiên Phong tất nhiên sẽ thực hiện nắm giữ ba vạn Kỳ quân, hiện tại ông ta cho quân lệnh điều về, nếu như Lục Thiên Phong thật sự có liên quan tới sự việc Thường Châu, thì còn có thể trở về phủ Nam Xương sao? Chỉ sợ sẽ dẫn theo ba vạn quân trốn chạy rồi.
Chu Lệnh Vân thấy Lâm Nhân Triệu không chịu điều đại quân trở về, tức giận phẫn nộ rời đi. Trở về soái phủ của mình, lập tức viết một phần quân lệnh, giao cho một Chủ soái của một quân đoàn ba nghìn quân khôn khéo, lệnh Chủ soái kia cầm quân lệnh, suất lĩnh thuộc hạ đi Tín Châu gặp ba Chủ soái Kỳ quân, lệnh ba Chủ soái Kỳ quân phụng lệnh quay lại phủ Nam Xương. Chu Lệnh Vân không dám mệnh lệnh bắt giữ Lục Thất, dù sao triều đình còn không có công văn ý chỉ giáng tội, mà y cũng không biết rằng Lục Thất đã phụng mệnh đi Phủ Châu.