“Mọi ám hiệu trong ngôi mộ này đều tác động lên tâm của con người”, Hạ Hầu Anh lạnh lùng giải thích.
“Không phải là đại não hả em?”, tôi hỏi vặn lại.
“Có thật là khoa học hiện đại có thể chứng minh được những suy nghĩ, thậm chí linh hồn của con người đều nằm ở đại não không? Không thể, đúng không? Chữ ‘tâm’ mà em nói tới ở đây không phải là buồng tim, mà là nơi khởi nguồn của linh hồn và trí tuệ con người. Tuy người ta chưa biết rốt cuộc nó là cái gì và nằm ở đâu, nhưng chắc chắn một điều là nó tồn tại”.
“Theo suy đoán của em thì còn hai nét chấm nữa và nét chấm cuối cùng có lẽ là nơi quàn quan tài của chủ nhân ngôi mộ cổ này”.
Hạ Hầu Anh gật đầu: “Thường thì nơi cuối cùng bao giờ cũng là nơi quàn quan tài, không có ký hiệu ám thị. Ngoài gian mộ thất trước mặt chúng ta còn một gian mộ thất nữa có ký hiệu ám thị. Tính đến lúc này, những ám hiệu lần lượt là khiếp sợ, chán nản, tức giận, ám thị tiếp theo chắc cũng là một trạng thái tâm lý tiêu cực”.
Ông lão Vệ Bất Hồi lấy từ trong ba lô ra một lọ chất lỏng, đổ ra một ít xoa lên đế giày và bảo: “Ta đi trước, hai người đi sau, giẫm lên dấu chân của ta nhé. Phải nhìn cho rõ, đừng giẫm chệch, nếu chệch nhiều quá chúng ta sẽ thành nhím xù cả đấy”.
Ông lão Vệ Bất Hồi từ từ tiến lên phía trước. Mỗi bước đi là một lần để lại dấu chân màu đỏ. Đi được ba bước, ông lão đột nhiên dừng lại, hai tay nắm chặt, làm tôi rụng rời tim gan. May thay, vài giây sau, ông lão tiếp tục cất bước.
Chúng tôi đi vòng vèo trong gian mộ thất, vòng qua ba cái xác, bình an vô sự tới bên dưới chiếc cổng vòm. Ông lão Vệ Bất Hồi làm dấu tay ra hiệu rồi lại bắt đầu xoa một ít chất lỏng màu đỏ lên đế giày, để bước tiếp.
Hạ Hầu Anh đi trước, tôi đi sau, lần theo dấn chân màu đỏ, cẩn thận tiến lên phía trước, từng chút, từng chút một. Cách bước đi kiểu này rất khó giữ thăng bằng, khoảng cách giữa các bước chân lúc lớn lúc nhỏ. Vừa đi được chừng hai, ba bước, tới bước thứ tư người tôi hơi lảo đảo, tôi không giữ nổi thăng bằng khiến người nghiêng về một bên suýt ngã. Lúc này, tôi mới sực hiểu, vì sao khi nãy ông lão Vệ Bất Hồi đột nhiên đừng lại. Theo cách giải thích của Hạ Hầu Anh, bây giờ tôi đã hoàn toàn ở trong lực trường tâm lý do những kí hiệu ám thị dày đặc xung quanh tạo thành, cảm giác nặng nề hơn gấp bội so với lúc đứng ở cổng vòm và quan sát từ xa. Nỗi u uất và muộn phiền trĩu trong lồng ngực, ngọn lửa không tên ấy chỉ dịu đi khi tôi nhìn vào “kí hiệu sống” đang di chuyển trước mặt.
Giẫm lên dấu chân của ông lão Vệ Bất Hồi để tiến lên phía trước, việc đó chỉ suôn sẻ với Hạ Hầu Anh. Còn tôi, do bàn chân to hơn bàn chân ông lão Vệ Bất hồi hai cỡ, nên nó luôn thò ra ngoài dù tôi định vị cực kì chính xác. Tuy thế, tôi vẫn yên lòng vị sự sai lệch chút xíu ấy không đủ để khởi động các bẫy ngầm.
Lúc bước vòng qua ba cái xác, tôi thấy tim mình nức nở. Cũng bởi thế, hơn một nửa bàn chân tôi thì ra ngoài dấu chân ông lão Vệ Bất Hồi. Mồ hôi lạnh chảy tràn trên người. Toát mồ hôi có nghĩa tôi vẫn ổn.
Hạ Hầu Anh đi phía trước đã sắp bước tới cổng vòm. Ông lão Vệ Bất Hồi chuẩn bị xong xuôi, vừa tiếp tục cuộc hành trình thì chỉ trong nháy mắt, ông lão kêu ré lên, tay bịt vai trái, nhảy lùi lại về phía lối vào bên dưới chiếc cổng vòm.
“Ting ting’, một chuỗi âm thanh vang lên liên tiếp mấy giây trước khi ngừng.
Lẽ nào “Vua trộm mộ” lại làm khởi động các cơ quan ngầm?
Ông lão Vệ Bất Hồi quay người lại nói, giọng khàn đặc: “Các cháu dừng lại đã”.
Dù “Vua trộm mộ” không nói thế, tôi và Hạ Hầu Anh vẫn phải ngừng bước, vì lối đi phía dưới cổng vòm chỉ đủ chỗ cho một mình ông lão. Hạ Hầu Anh cách ông chỉ một bước chân và tôi cũng đứng ở vị trí không xa. Trong hoàn cảnh này, bước chân của chúng tôi không thể ngừng lại ngay khi chúng tôi muốn, chúng tôi buộc phải giữ nguyên tư thế của sải bước chân ban đầu. Tôi và Hạ Hầu Anh đứng trơ trơ như một bức tượng, bước xong không dám nhúc nhích, dáng vẻ thật vô cùng hài hước, nhưng giây phút này, làm sao cười nổi cơ chứ.
“Có chuyện gì thế bác? Không vượt qua cơ quan phía trước được ạ?”, Hạ Hầu Anh hỏi.
“Ta vừa giẫm chệch”, ông lão Vệ Bất Hồi lấy trong ba lô ra một mảnh vải bịt lên vết thương, sau đó lại tiếp tục xoa xoa chất lỏng màu đỏ xuống đế giày.
“Quả là nguy hiểm!”, tôi thở dài ớn lạnh. Lẽ nào tới tận đây rồi mà đành ngậm ngủi chịu cảnh chỉ thiếu một bước, việc lớn không thành.
Ông lão Vệ Bất Hồi lắc đầu: “Không phải do các cơ quan, mà là do tác động quỷ quái của những kí hiệu. Ta không biết cảm giác của hai người thế nào, nhưng với ta, cứ qua mỗi một đoạn đường, nhất là mỗi chiếc cổng vòm thì tác động của những kí hiệu đó lên tâm lý của ta mỗi lúc một ghê gớm. Ban nãy, ta vừa đi được hai bước, đã không chống trụ nổi, giẫm chệch một bước, cũng may ta tức thì cảm nhận được ngay khi bàn chân vừa chạm xuống, lùi lại thật mau, nếu không cái mạng già này đã chấm dứt rồi. Tên không có độc, xem như ta gặp vận son”.
“Cháu cũng có cảm giác giống như bác, không biết những kí hiệu trong mộ thất phía trước mặt chúng ta sẽ gây ra tác động gì?”
“Là một thứ tâm trạng gần giống với tức giận, nhưng nặng nề hơn, làm ta bỗng chốc như người bị mắc bệnh hoang tưởng, kích động tới nỗi muốn gầm thét cho thỏa sức”.
“Tâm trạng ấy có lẽ là điên cuồng đấy bác ạ, vì có một loại ám hiệu có thể khiến người ta phát điên”, Hạ Hầu Anh tiếp lời.
“Hầu Anh, bây giờ chúng ta phải làm thế nào?”, tôi hỏi Hạ Hầu Anh.
“Em hơi sơ ý, tác động những kí hiệu trong mấy gian mộ thất này mỗi lác một tăng dần và tích tụ lại trong tâm lý của con người tạo ra sức công phá mạnh có thể kích động mọi trạng thái tâm lý tiêu cực của con người. Vệ lão tiên sinh, bác cho cháu mượn lọ chất lỏng ban nãy bác dùng để xoa đế giày được không ạ?”
“Cầm lấy này!”, vừa nói ông lão Vệ Bất Hồi vừa ném chiếc lọ nhỏ bằng nhựa về phía Hạ Hầu Anh.
Hạ Hầu Anh vặn nắp lọ, ngón trỏ chấm vào một ít rồi bảo ông lão Vệ Bất Hồi: “Bác chìa tay phải của bác ra, tay trái của bác bị thương rồi. Cháu vẽ kí hiệu ám thị lên tay bác, bác vừa đi vừa nhìn, nó sẽ làm giảm tác động của những kí hiệu trong mộ thất với bác. Cháu mong nó sẽ không làm bác phân tâm”.
“Phân tâm một chút vẫn tốt hơn bị hoang tưởng nhiều”, ông lão Vệ Bất Hồi hơi nghiêng người về phía trước, chìa bàn tay phải ra cho Hạ Hầu Anh vẽ.
Hạ Hầu Anh vẽ xong, ông lão Vệ Bất Hồi xoay người, tiếp tục tiến lên phía trước.
“Lần này thì ổn rồi”, nghe ông lão Vệ Bất Hồi báo bình an, tấm lòng thấp thỏm của tôi mới bình yên trở lại.
Chẳng mấy chốc, tôi đã bước tới vị trí của Hạ Hầu Anh ban nãy và cũng chìa bàn tay ra để cô ấy vẽ kí hiệu. Tôi có cảm giác rất kì lạ khi ngón tay búp măng của Hạ Hầu Anh lượn vòng trong lòng bàn tay tôi. Nó hơi ngứa ngứa khiến tôi muốn rụt tay về.
“Có lẽ anh đã biết tại sao Tôn Huy Tổ lại vặt đầu người chết chạy ra ngoài rồi”, tôi tìm một chủ đề khác để chuyển hướng sự chú ý của bản thân, “gian mộ thất này tạo ra ám thị tức giận và nó lập tức tác động lên tâm trí tức giận và nó lập tức tác động lên tâm trí của Tôn Huy Tổ khi lá cờ vừa bị xé rách. Nhưng nhờ sức vóc phi thường nên hằng hà sa số những mũi tên găm trên cơ thể không thể đánh gục ông ta trong chốc lát. Cũng bởi thế, ông ta tận mắt trông thấy anh em ruột tử nạn, lửa giận ngút trời, một lòng muốn báo thù rửa hận cho huynh đệ, bèn xông thẳng vào bên trong. Ma lực của gian mộ thất tiếp theo khiến người ta phát điên, chẳng khác nào thêm dầu vào lửa. Tôn Huy Tổ trong cơn cuồng loạn đã vặt đầu người chết, dù ông ta dũng mãnh đảm lược hơn người cũng không thể chạy ra xa hơn được”.
Hạ Hầu Anh rụt tay lại, khẽ thở dài, quay người tiếp tục bước về phía trước theo dấu chân của ông lão Vệ Bất Hồi.
Gian mộ thất tiếp theo quả nhiên là một nét chấm. Nền nhà la liệt những mũi tên sắt ngắn ngủn, không phân biệt rõ đâu là những mũi tên của năm xưa, đâu là những mùi tên vừa bắn ra ban nãy do ông lão Vệ Bất Hồi sơ ý khởi động bẫy ngầm. Tôi sợ những bẫy ngầm trong ngôi mộ này hoạt động theo cơ chế tự động, có thể tự động nhiều lần. Tôn Huy Tổ năm nữa chạm đến chúng, cả người bị tên găm chi chít, thế mà bây giờ những múi tên sắt ấy vẫn còn và lại tiếp tục bắn ra ngoài.
Tôi vừa giẫm lên dấu chân trên nền nhà vừa nhìn vào ký hiệu quái dị trong lòng bàn tay, cuối cùng chúng tôi cũng vào tới gian mộ thất cuối cùng, không kinh sợ, không hoảng loạn và không gặp nguy hiểm.
Gian mộ thất cuối cùng này được tạo nên bởi nhiều mảnh của một phiến đá đen khổng lồ được cắt ra và ghép lại với nhau, bề mặt của nó nhẵn nhụi, không có kí hiệu hay bất cứ cơ quan ngầm nào. Chính giữa đặt một chiếc quan tài ngọc cực lớn. Nắp quan tài bị đập vỡ, những mảnh vụn bắn tung tóe ra ngoài.
Cảnh tượng bày ra trước mắt làm tôi hơi bất ngờ. Chủ nhân ngôi mộ cổ này là người có thân phận tôn quý, chiếc quan tài ngọc bệ vệ có thể chưa nhiều đồ tùy táng, nhưng so với những chiếc quan tài thiết kế nhiều ngăn thạch thất đựng vô số đồ tùy táng của các bậc vương hầu thì nó lại quá đỗi đơn giản.
Tôi bước lại gần chiếc quan tài ngọc. Thi thể bên trọng đã vun mún. Năm xưa Tôn Huy Tổ trong cơn điên loạn đã muốn hủy hoại nó. Đồ tùy táng vẫn nguyên vẹn. Bộ xương bị dập nát, cột sống gãy thành mấy khúc, xương cánh tay phải bị bẻ gãy, cái xác không đầu nằm ngoẹo về một bên.
Tôi có thể nhận ra cách xếp đặt ban đầu bên trong chiếc quan tài ngọc, chính giữa là di thể của chỉ nhân ngôi mộ cổ, phía bên tay trái đặt một ít binh khí, bên tay phải đặt rất nhiều thẻ tre, phía dưới chân là tửu khí[1]. Nhưng bây giờ, bố cục ấy đã trở nên lộn xộn.
[1] Tửu khí: dụng cụ để uống rượu.
Hạ Hầu Anh lần tay dọc theo quan tài, nhìn trân trối vào bộ xương mất đầu, trầm ngâm không nói.
Ông lão Vệ Bất Hồi thở một hơi rất dài: “Sinh thời kiêu hùng biết bao nhiêu - Ngoảnh đầu về nghiệp bá là không – Xương kia rồi cũng tro tàn nát tan”.
Có lẽ Hạ Hầu Anh cũng biết thân phận của chủ nhân ngôi mộ này, nhưng tôi biết cô ấy đang giữ bí mật. Tôi chịu ơn cứu mạng của người ta, không tiện hỏi đến cùng, nghe khẩu khí của Vệ Bất Hồi thì hình như ông lão cũng biết điều còn ẩn giấu ấy?
“Bác biết người nằm trong quan tài ngọc này là ai ạ?” Tôi không thể kìm nén nổi thắc mắc lớn nhất trong lòng lâu hơn được nữa.
“Nực cười, nếu ta không biết chủ nhân ngôi mộ cổ này là ai thì năm xưa đâu cần mất nhiều tâm sức để nghiên cứu nó đến thế? Còn anh, cho đến tận bây giờ vẫn không biết đây là mộ của Tào Tháo Tào Mạnh Đức sao?”
Trong phút chốc, tôi như bị sét đánh, kinh ngạc tới nỗi không thể nói thành câu hoàn chỉnh: “Tào… Tào Tháo ư?”
Đây chính là Tào Tháo, gian hùng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, chủ nhân nước Ngụy thời Tam Quốc, thần từ ép thiên tử lệnh cho chư hầu, thác xuống suối vàng còn bố trí 72 ngôi mộ giả ư?!
Ông lão Vệ Bất Hồi quay đầu liếc sang phía Hạ Hầu Anh, hỏi: “Cô mang họ Hạ Hầu, ta nghĩ chắc cô có liên quan nào đó với Tào Tháo?”
Tào? Hạ Hầu? Những điều ghi chép có liên quan đến hai dòng họ này trong bộ “Tam Quốc Chí” viết rằng, phụ thân của Tào Tháo – Tào Tùng vốn họ Hạ Hầu, do nhận hoạn quan Tào Đằng làm nghĩa phụ nên đổi họ thành Tào. Hạ Hầu là một gia tộc lớn, sau khi Tào Tùng tự tách thành một chi và đổi họ, những người khác vẫn giữ họ Hạ Hầu. Hai vị mãnh tướng dưới trướng của Tào Tháo là Hạ Hầu Uyên và Hạ Hầu Đôn trên thực tế là họ hàng thân thích của Tào Tháo.
Hạ Hầu Anh lúc này mới lấy lại tâm trạng gật đầu đáp lời: “Tào Tháo là tổ tiên của cháu, tính ra, cháu là hậu duệ đời thứ 47 của ngài”.
“Thì ra Tào Tháo có con mắt thứ ba!”, tôi buột miệng.
“Con mắt thứ ba nào cơ?”, Hạ Hầu Anh cau mày, hoàn toàn không hiểu ý của tôi.
“Chính là con mắt thứ ba ở phía trên chính giữa cung lông mày ấy”.
“Đó không phải là con mắt thứ ba đâu anh ạ”, Hạ Hầu Anh lắc đầu phủ nhận sau khi hiểu rõ ý tôi.
Lần này, cả ông lão Vệ Bất Hồi cũng bàng hoàng nhìn Hạ Hầu Anh. Rõ ràng ông cũng muốn tỏ tường lời giải.