Thạch Bình Nhi tiếp
tục đi về phía trước, vừa đi vừa nhắc mọi người lấy ra một thanh huỳnh
quang, khi cần thiết thì tôi và cô ấy một đi đầu một đi cuối soi đèn pin là đủ sáng, mọi người khỏi cần bật đèn pin, cứ thế đi theo là được.
Đi được một chập, Thạch Bình Nhi và tôi dùng máy thông tin để báo cho nhau biết sĩ số. Thạch Bình Nhi ở phía trước nói: “Có lẽ chỉ lát nữa chúng
ta sẽ gặp tổ B.” Tôi ngạc nhiên. Tổ B đã vào rồi à? Vào bằng cách nào?
Nghĩ một lát, tôi cho rằng cái động này không chỉ có một cửa vào, nếu
không, tổ B sẽ vào kiểu gì?
Kể từ lúc đi vào, tôi đã chú ý đến
cái động này, và thỉnh thoảng nhặt vài viên đá nhét vào túi đeo. Có vẻ
như đây là động thạch nhũ nhưng lại thiếu một thứ: nước. Động thạch nhũ
mà lại không có nước! Tôi sờ vào vài chỗ giống thạch nhũ buông xuống,
thấy khô cong, bóp hơi mạnh một chút, chúng tả ra thành cát rơi xuống.
Mặt đất bên dưới những sợi thạch nhũ cũng có những vấu lồi hình nấm, tuy có đeo găng tay nhưng tôi không dám sờ vào chúng, vì không biết chúng
có an toàn hay không, lỡ bị dính chất gì đó vào găng tay cũng không hay, nếu là chất ăn mòn thì lại càng đáng sợ.
Cái hang này sâu kinh
khủng, đi hơn nửa giờ rồi mà vẫn chưa nhìn thấy gì, và cũng tuyệt đối
không le lói một tia sáng; thỉnh thoảng có nhìn thấy chút ánh sáng thì
chỉ là do các sợi thạch nhũ phản quang từ ánh đèn pin mà thôi. Lúc này
Mễ Đâu bỗng kêu lên một tiếng, cả tổ đều dừng lại. Tôi nhìn thấy Mông
Nhân bước đến ôm lấy Mễ Đâu, lão Phó cũng bước lại, ông Chung Sênh thì
lùi một bước về phía tôi. Thạch Bình Nhi đi đầu, dùng máy thông tin hỏi
tôi rằng có chuyện gì. Tôi nói không biết. Cô bảo tôi cứ chờ, cô sẽ quay lại xem sao. Tôi thấy ánh đèn pin của Thạch Bình Nhi hắt về phía sau,
rồi cô dần tiếp cận. Tôi đang đứng rất gần Mông Nhân và Mễ Đâu nhưng lối đi quá hẹp, chỉ có thể một người lách qua, vì cả đoạn đường này na ná
như bậc cầu thang, hai bên lại mọc đầy thạch nhũ to nhỏ các cỡ… có vẻ
như Thạch Bình Nhi bước đi cũng không dễ gì.
Cô bước đến gần Mễ
Đâu, hỏi có chuyện gì thế? Mễ Đâu nói chân cô giẫm phải thứ gì đó mềm
mềm, hình như có lông. Lão Phó liền buông một câu: “Đưa phụ nữ đi theo
làm gì? Chỉ tổ rách việc!” Vừa dứt lời thì Mông Nhân “hừm…” một tiếng rõ to, lão Phó nín lặng. Thạch Bình Nhi bảo mọi người hãy lùi lại, đứng ở
chỗ hơi rộng một chút, để cho tôi đi lên.
Mọi người lùi về chỗ
bắt đầu vào đoạn đường này, tôi từ từ bước lên, đi đến chỗ Thạch Bình
Nhi đang đứng. Cô chỉ tay xuống bên dưới. Tôi nhìn xuống, thấy mặt đất
có một chiếc găng tay rất dày. Tôi nhặt chiếc găng tay lên, nói với
Thạch Bình Nhi: “Găng của ai thế? Cô đánh rơi à?”
Thạch Bình Nhi
cầm chiếc găng tay ấy huơ lên trước mặt tôi, nói: “Tôi không đánh rơi.
Nó cũng không phải găng tay của chúng ta đánh rơi.” Tôi bỗng ngẩn ra,
ngẫm nghĩ rồi nói: “Chắc là của tổ B đánh rơi cũng nên?”
Thạch
Bình Nhi gật đầu, rồi nhìn về phía sau tôi, khẽ nói: “Có một điều này
tôi buộc phải nói với anh: dù sao chúng ta cũng vào đây rồi… nhưng anh
phải hứa là không nói lại với người khác… Khoan đã, để tôi bảo họ cứ
đứng nguyên tại chỗ nghỉ một lúc, anh cứ đi lên phía trước đợi tôi, rồi
tôi sẽ nói cho anh biết, kẻo đứng đây nói thì họ sẽ nghe thấy.”
Nói rồi Thạch Bình Nhi đi về phía mọi người đang đứng, còn tôi thì từ từ đi lên phía trước, chỗ lúc nãy Thạch Bình Nhi dừng lại. Vừa đi tôi vừa chú ý mặt đất, nhận ra mặt đất ở đây rất khác thường, lúc thì là bùn, lúc
thì là đất cục, rồi lại toàn cát là cát. Đi một chập, có lẽ đã đến vị
trí cần thiết, tôi bỗng phát hiện ra phía trước có những dấu chân nhưng
hoàn toàn không phải dấu chân của chúng tôi. Vì chúng tôi đều đi giày
leo núi cùng một kiểu, khi bước trên đất mềm thì luôn để lại hai cái lỗ
khá sâu trên mặt đất chứ không giống như các dấu chân phía trước luôn
kéo dài ra, đế giày của chúng tôi cũng không có hoa văn. Dấu chân này
rất sâu, chứng tỏ chủ nhân của nó có trọng lượng rất nặng hoặc là phải
đeo vác những vật nặng.
Tôi đang mải nhìn thì bỗng có một bàn tay vỗ mạnh vào tôi, tôi giật mình, run bần bật suýt nữa thì quỳ sụp xuống. Giọng Thạch Bình Nhi: “Nói anh là gã nhát như cáy, anh còn không chịu
công nhận kia đấy!”
Cô ngoảnh nhìn lại phía sau, rồi nói: “Anh đã nhìn thấy dấu chân ấy rồi à?” Tôi gật đầu. Cô nói tiếp: “Dấu chân ấy
không hẳn là do tổ B để lại. Anh chú ý nhìn bên cạnh dấu chân ấy mà
xem.” Tôi nhìn vào chỗ Thạch Bình Nhi chiếu đèn pin. Bên cạnh một dấu
chân ở giữa, còn có một chuỗi dấu chân khác, giống như những dấu giày
của tổ chúng tôi. Thạch Bình Nhi nói đó mới là dấu chân do tổ B để lại.
Cô mím môi nhìn tôi, định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Thấy vậy, tôi định giẫm lên, bước qua. Một lát sau Thạch Bình Nhi mới nói, câu nói của cô
khiến tôi suýt ngã phệt xuống đất vì quá bất ngờ.
“Tổ B đã vào đây… từ ba năm trước.” Cô nói.
Tôi chưa kịp mở miệng hỏi thì Thạch Bình Nhi đã nói tiếp: “Nói cách khác,
họ là tổ A, chúng ta mới là tổ B. Chúng ta là nhóm người thứ hai vào
đây, họ là nhóm người thứ nhất.”
Tôi lắc đầu, không hiểu. Thạch
Bình Nhi bảo tôi ngồi xuống, tựa lưng vào đám thạch nhũ, cô nói thật nhỏ vì không muốn các vị kia nghe thấy. Nhóm người đã vào động này, do công ty Mục Lâm chuẩn bị từ 5 năm trước đây, khi mọi công tác chuẩn bị đã
hoàn tất thì cách đây 3 năm, tổ chức cho họ vào bằng cách dùng thuốc nổ
để mở cửa vào động, chứ không chờ cửa hang cứ 30 năm một lần tự mở.
Tổ B gồm bốn người, một người trong đó là của tập đoàn Mục Lâm, người ấy
là chị gái của Thạch Bình Nhi tên là Thạch Mai. Trong ba người kia có
một người đến từ Thái Lan, là trợ giảng cho giáo sư tại một trường đại
học lớn, và cũng là nhà tổ chức của Tổ chức thám hiểm tìm báu vật có tên là “Bayca”. Hai người còn lại, một người đến từ Hàn quốc, một người đến từ Cam-pu-chia. Phụ thân của người Hàn quốc này năm 1985 từng đi cùng
một người Anh tên là Michel Hartcher trục vớt một con tàu chìm dưới biển phía nam Trung Quốc, và kiếm được một khoản tiền kếch xù. Sự kiện này
khiến giới khảo cổ Trung Quốc quan tâm và bắt đầu chú ý đến công tác
khảo cổ dưới biển, rồi năm 1987 họ phát hiện ra con tàu chìm mang tên
“Nam Hải -1” nổi tiếng. Về người đến từ Cam-pu-chia, nghe nói đã có
tuổi, cũng là thành viên của tổ chức thám hiểm Bayca, vốn là một quân
nhân phục viên - nói cách khác, ông ta là “lính đánh thuê” cho chuyến
thám hiểm ấy.
Tốp bốn người do Thạch Mai dẫn đầu tiến vào động,
và chưa đầy 24 giờ sau đã hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài. Nửa tháng sau, tập đoàn Mục Lâm nhận định rằng tốp người này đã bỏ
mạng, nhưng lãnh đạo cao nhất của Mục Lâm vẫn không từ bỏ quyết tâm khám phá động Tỵ Vân. Hành động khám phá động Tỵ Vân của họ vốn không được
nhà nước cho phép, họ luôn phải tiến hành một cách bí mật. Lãnh đạo tập
đoàn Mục Lâm dự định 5 năm sau mới tổ chức tiến vào động, nhưng cũng
trong thời kỳ này họ phát hiện ra rằng cứ 30 năm một lần cửa động sẽ tự
mở, và hiện tượng tự mở cửa lần này xảy ra trong năm nay. Họ bèn chuẩn
bị tổ chức đội ngũ để tiến vào động. Đương nhiên, đội ngũ ấy không phải
những người hiện giờ. Nhưng, vì xảy ra một sự việc đột xuất, họ phải cho giải tán đội ngũ ấy, rồi lại tập hợp một đội ngũ mới, chính là những
người không chuyên nghiệp chúng tôi hiện giờ.