Hai từ "Vân Hư" hệt như một gáo nước lạnh dội thẳng xuống đầu Nhạc Chi Dương, gã sợ hãi giật lùi lại, ngay cả thở mạnh cũng không dám, thầm nghĩ chả trách giọng nói lại quen tai đến như vậy, hóa ra là Vân đảo vương. Hành động của Vân Hư quả là kỳ lạ, nửa đêm canh ba không ngủ, lại chạy đến nơi này hành hạ một tên tù nhân.
Đang ngẫm nghĩ, người tù lại thét lên mấy tiếng, tiếng sau yếu hơn tiếng trước tựa như sắp lìa đời. Qua một lúc sau, Vân Hư lạnh lùng bảo:
- Thôi bỏ đi, chúng ta cứ phí thời gian như vậy, để ta xem ông có thể cầm cự được đến năm nào tháng nào!
Người tù cười khà khà:
- Năm khỉ tháng ngựa, ngài thấy sao?
Vân Hư xùy một tiếng, người tù lại bật cười:
- Thứ cho không tiễn.
Bóng đen trong hang chớp động, một người luồn thân lướt ra, tay xách đèn lồng. Dưới ánh sáng đèn soi tỏ, gương mặt gầy gò của Vân Hư hiện ra hằm hằm sắc giận, ông đứng nán lại cửa hang thoáng chốc rồi phất tay áo, xoay người bỏ đi.
Nhạc Chi Dương nằm rạp một bên không dám thở, đợi đến khi Vân Hư đi thật xa mới dám mò đến trước miệng hang, nương theo một sợi dây leo tuột xuống, thấp giọng gọi:
- Lão tiên sinh, lão tiên sinh...
Trong hang lặng im hồi lâu, người tù nhân nọ lạnh lùng hỏi:
- Nhóc con, ngươi đến đây làm chi?
Nghe thấy giọng nói vẫn còn yếu ớt, Nhạc Chi Dương cười đáp:
- Không phải tiền bối bảo ta đến hay sao?
Người nọ hỏi:
- Ta bảo ngươi đến hồi nào?
Nhạc Chi Dương mỉm cười, ngân giọng ngâm:
Ngửi mùi hoa quế độ ba thu
Cho buổi xa nhau chớm mịt mù
Rồi dưới Suối Vàng mai sau gặp
Lại nghe sáo ngọc réo vi vu
- Một bài thơ thì tính làm gì?
- Đây là một bài thơ chứa ẩn ý, bốn từ đầu tiên của bốn câu khi ghép lại với nhau, chẳng phải là "Canh ba đến gặp" hay sao?(*)
(ND chú: nguyên văn bài thơ: “Tam thu văn quế tử, canh hữu li biệt kì, lai nhật tuyền hạ phùng, hội hữu thính ngọc địch” khi ghép các từ đầu tiên lại được “Tam canh lai hội” có nghĩa là “Canh ba đến gặp”)
Người nọ trầm ngâm giây lát rồi chợt cất tiếng cười khà khà, bảo:
- Thằng nhóc con này, đến giờ ngươi mới phát hiện điều bí mật ấy ư? Tuy biết hơi chậm nhưng còn hơn là vô tri vô giác, đủ thấy tâm tư nhà ngươi cũng mẫn tiệp đủ để thảo luận với lão phu một phen.
Nói xong đèn lửa chợt hắt ra sáng rỡ từ một mảng song sắt, Nhạc Chi Dương tiến về phía trước, chỉ thấy sau song sắt là một đôi mắt tựa như hai vì sao lạnh in soi đáy giếng đang lặng lẽ quan sát gã. Gã lập tức chấp tay cười chào:
- Tiểu tử Nhạc Chi Dương, dám hỏi đại danh của lão tiên sinh?
- Ta là đạo sĩ. - Người nọ đáp: - Họ tục gia là Tịch, đạo hiệu Ứng Chân.
Nhạc Chi Dương mỉm cười:
- Hóa ra là một vị đạo trưởng. Thất kính, thất kính!
Trong lòng gã lại nghĩ thầm: "Ba chữ "Tịch Ứng Chân" có vẻ quen quen, hình như đã từng nghe qua ở đâu đó thì phải!"
Tịch Ứng Chân nhìn thấy sắc mặt của gã thì có chút ngạc nhiên, nghĩ bụng đa số đệ tử Đông Đảo đều biết rõ mồn một danh hiệu của mình, nhưng nom vẻ mặt của Nhạc Chi Dương thì hình như chả biết ất giáp gì cả, ông bèn hỏi:
- Thằng nhóc, ngươi không phải đệ tử Đông Đảo hả?
Nhạc Chi Dương đáp:
- Không phải.
Tịch Ứng Chân lại hỏi:
- Ngươi là con nuôi của Nhạc Thiều Phượng, cớ sao lại đến Đông Đảo?
Nhạc Chi Dương bèn vắt tắt thuật lại câu chuyện, Tịch Ứng Chân cười lạnh bảo:
- Tên tiểu tử Vân Hư, lừa gạt người ta thì không tính đi, lại còn vùi dập nhân tài như thế đúng là có mắt không tròng mà.
Nhạc Chi Dương không nhịn được hỏi:
- Tịch đạo trưởng, sao Vân Hư lại hành hạ ông như vậy?
- Kể ra thì dài lắm! - Tịch Ứng Chân cười khà khà: - Nhóc con, ngươi có biết Thái Hạo Cốc không?
Rồi không đợi cho Nhạc Chi Dương kịp trả lời, ông lại cười rằng:
- Ta hồ đồ rồi, ngươi không phải là người trong giang hồ thì làm sao mà biết các môn phái này chứ.
Lão đạo sĩ ngừng một lúc, lại tiếp lời:
- Thái Hạo Cốc của ta ngụ ở phương Bắc, vốn được vị cao nhân tiền triều là Liễu Tình sáng lập, về sau nhờ tổ sư Bách Ách phát dương quang đại, hai vị trên đều là những kỳ nữ trong giới Huyền Môn. Tổ sư Bách Ách vốn không định thu nhận nam đồ, mãi đến cuối đời chán nản, mới phá lệ thu nhận thầy của ta là Thiên Dịch chân nhân làm học trò, đến thời của ta đã truyền được bốn đời. Nhưng kể ra về gốc gác thì Thái Hạo Cốc và Đông Đảo cùng xuất phát từ một mạch, "Dịch Tinh Kiếm" của bổn cốc và "Phi Ảnh Thần Kiếm" của Đông Đảo đều có nguồn gốc từ "Quy Tàng Kiếm" của đại kiếm khách tiền triều Công Dương Vũ, tổ sư của hai phái lại càng có nhiều quan hệ dây mơ rễ má phức tạp với nhau.
Nhạc Chi Dương cười hỏi:
- Vậy trong hai loại kiếm pháp ấy, thứ nào lợi hại hơn?
Tịch Ứng Chân cười khà khà, trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi của gã:
- Luận về thân phận, ta cùng vai vế với Vân Xán, cha Vân Hư. Lúc ta xuất đạo đương vào lúc triều Nguyên hỗn loạn, thiên hạ nhiễu nhương bất an, bá tánh lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng. Năm ấy ta với bản tính nghĩa hiệp tuổi trẻ, vácc kiếm lên vai chu du thiên hạ, thấy bọn bắt nạt người lương thiện thì tất nhiên ra tay diệt trừ. Nhưng ta dần dần nhận ra, kẻ ác trên đời này giết mãi chẳng hết, thật khiến lòng người chán nản. Càng đau lòng hơn chính là đệ tử Đông Đảo tốt xấu lẫn lộn, cát cứ một phương mà phá luật làm ác, nhưng vì thuở trước gia sư có dặn không cho phép ta kết oán với Đông Đảo, cho nên ta trông thấy mà chẳng thể làm gì được.
- Một ngày nọ, ta đi qua địa giới Hào Châu, chợt bắt gặp có kẻ đang đánh nhau, trong đó bên ít người hơn toàn sử dụng võ công Đông Đảo; bên còn lại đều mặc áo lính, tuy quân số đông nhưng võ nghệ lại rất tầm thường. Bọn họ hô hào dũng cảm chiến đấu để bảo vệ một vị tướng quân. Vị tướng quân nọ lâm nguy không loạn, chỉ huy một nhóm quân sĩ bình thường ngăn cản một đám cao thủ võ học. Trong lòng ta lấy làm lạ bèn cẩn thận quan sát dung mạo người đó, không những dáng vẻ không xuất chúng mà thậm chí còn có phần xấu xí, tuy nhiên khí phách lớn như vậy thì là lần đầu tiên ta trông thấy. Hai bên chém giết đã lâu, Đông Đảo cuối cùng cũng chiếm được thượng phong, binh sĩ càng đánh càng ít đi, vị tướng quân nọ cũng sắp nguy khốn đến nơi. Ta thấy bọn người Đông Đảo ra tay ác hiểm, nhất thời nổi máu, liền vung kiếm xông ra đẩy lui đệ tử Đông Đảo, tuy nhiên ra tay cũng có phần nương nhẹ, chỉ đâm bị thương chân cẳng của chúng, tuyệt không hại đến tính mạng.
Nhạc Chi Dương nghe đến đây, trong dạ thầm kinh ngạc. Tịch Ứng Chân kể lại thì vắn tắt sơ sài, nhưng hai phe đang giao chiến, muốn làm bị thương chân cẳng từng kẻ địch mà lại không ảnh hưởng đến tính mạng họ, đủ thấy kiếm pháp của ông cao cường khó bề tưởng tượng.
Tịch Ứng Chân tiếp tục kể:
- Thủ lĩnh bên Đông Đảo nhận ra lai lịch của ta, bèn nói: “Linh Ngao Đảo và Thái Hạo Cốc như chim liền cánh cây liền cành, bổn đảo trước giờ kính nhường quý phái ba phần, cớ sao lại chõ mũi vào phá đám đại sự của chúng ta?”
- Trong lòng ta sẵn bực bội, bèn đáp: "Tiền bối của quý đảo ta đây hết sức khâm phục: Thích Thiên Phong, Công Dương Vũ, đại hiệp Vân Thù, Hoa Kính Viên chẳng phải là những con người kinh thiên động địa, lòng đầy hiệp nghĩa đấy sao? Còn hiện nay, các ngươi vì tranh giành thiên hạ, ai nấy đều đã quên tổ phản tông, thất tín bội nghĩa, chỉ nhăm nhe tranh quyền đoạt lợi, chẳng màng thiên hạ chúng sinh, phá hoại cả một vùng Giang Nam xương trắng đầy nội, chợ búa thành không, tiền bối của quý phái dưới đất kia nếu hay được chẳng biết sẽ có cảm nghĩ như thế nào?"
- Mắng sướng lỗ tai thật! - Nhạc Chi Dương vỗ tay khen hay.
Tịch Ứng Chân cũng bật cười, kể tiếp:
- Kẻ nọ nghe xong chỉ cười lạnh, bảo: "Mấy lời này ta sẽ nguyên văn thuật lại cho đảo vương nghe, những mong đạo trưởng nếu biết trước biết sau thì chớ có bỏ chạy mất tăm là được.”
- Cao thủ Đông Đảo nhiều như mây, sức ta một mình đơn lẻ, chỉ là tuổi trẻ thẳng tính, đầu óc nóng ran liền mở miệng đáp trả: "Trốn làm gì? Chuyện lớn đến đâu mình ta cũng gánh vác nổi."
- Kẻ nọ cười lạnh bỏ đi, vị tướng quân nọ cũng tiến lên trước gặp ta, hai bên cùng xưng tên báo họ, ngươi nói thử xem người nọ là ai?
Nhạc Chi Dương suy nghĩ rồi đáp:
- Chẳng lẽ là Chu Nguyên Chương?
Tịch Ứng Chân í một tiếng, hỏi:
- Dựa vào đâu mà ngươi nói vậy?
- Ông kể nơi xảy ra sự việc là Hào Châu, đó là đất nổi dậy của Chu Nguyên Chương, ông nói tướng mạo người đó xấu xí nhưng khí phách kinh người, lâm nguy không loạn mà còn trực tiếp chỉ huy, đủ thấy ông đối với người đó hết sức khâm phục. Nhân vật như đạo trưởng đây, người có thể khiến ông khâm phục e rằng không nhiều, ngẫm đi nghĩ lại, cũng chỉ có Chu Nguyên Chương mà thôi.
Tịch Ứng Chân vỗ tay cười:
- Khá thật, lại bị ngươi đoán trúng rồi. Tiếc là thiếu rượu, bằng không phải cạn với ngươi một chung.
Nhạc Chi Dương củng mỉm cười:
- Đạo trưởng cứu Chu Nguyên Chương, hẳn là đã kết bạn với ông ta nhỉ?
- Thằng nhóc không biết trời cao đất dày. - Tịch Ứng Chân cười mắng: - Y dẫu sao cũng là đương kim thiên tử, thiên tử không có bạn, cả đạo lý này mà ngươi cũng không biết hay sao?
Nhạc Chi Dương biết Tịch Ứng Chân thích nói chuyện theo kiểu "Chê trước khen sau", liền cười bảo:
- Khi ấy Chu Nguyên Chương chưa phải là thiên tử, nếu không kết giao bạn bè rộng rãi, sợ rằng sẽ không có được thiên hạ đâu.
Tịch Ứng Chân sững người, thở dài:
- Thẳng quỷ con, tuổi còn nhỏ mà cũng thấu tình đạt lý gớm. Không sai, ta và y vừa gặp như đã quen thân, hai bên tính tình tương đồng, đã cùng nhau kết nghĩa ngay tại nơi ấy.
Nhạc Chi Dương giật mình:
- Hóa ra các người không phải bạn bè mà là huynh đệ.
- Đó đã là chuyện nhiều năm trước rồi. - Tịch Ứng Chân thở dài xa vắng: - Y hiện giờ một thân một mình, cái gì là huynh đệ công thần đều đã sớm không còn trong mắt của y nữa!
Nhạc Chi Dương vốn ở tại kinh thành, nghe xong tự nhiên hiểu thấu. Mấy năm gần đây, Chu Nguyên Chương trừ khử công thần, hở tí là diệt tộc, tịch biên tài sản. Nhạc Chi Dương tận mắt trông thấy, một khi tấm lệnh bài trảm quan được ném xuống thì bất kể là già trẻ nam nữ, đầu người đều phải lăn dài dưới mặt đất. Gã từng một lần chứng kiến và từ đó không muốn thấy lại lần nào nữa, ngược lại Giang Tiểu Lưu thì hào hứng vô cùng, mỗi dịp có sự kiện như vậy đều lâng lâng thích thú chạy đi xem náo nhiệt.
- Chu Nguyên Chương mời ta đảm nhiệm một chức vị quan trọng cho y, ta chả có hứng thú gì với chuyện đánh trận công thành nhưng lo sợ cao thủ Đông Đảo đến xâm phạm nên mới đồng ý ở lại Hào Châu làm cảnh vệ. Ba ngày đầu trôi qua bình yên vô sự, đến đêm ngày thứ tư, cao thủ Đông Đảo quả nhiên xâm nhập, một lần đến hơn sáu tên đều bị ta huơ kiếm đánh lui. Qua hai ngày sau lại có bốn tên mò đến, bốn tên này hết sức lợi hại, trong đó có một tên ta không kịp thu kiếm, lỡ tay đâm chết. Cho dù đã hai lần đẩy lùi kẻ địch, nhưng tốp đến sau càng lợi hại hơn tốp đến trước, trong lòng ta hết sức lo lắng, luôn sớm chiều cảnh giác không dám lơ là.
- Đến đêm ngày thứ tám, bỗng nhiên xuất hiện hai lão già, võ công cao cường vô cùng, tuy không nằm trong dòng tứ tôn nhưng cũng là nhân vật có địa vị cao. Ta cùng bọn họ giao thủ trên giáo trường, lấy một chọi hai, ta phải chống đỡ hết sức vất vả. Mắt thấy sắp thua đến nơi, ta chợt nghe tiếng một người đàn ông bật cười ở trên cao, ta ngước lên xem, trên đỉnh cột cờ có một kẻ đang đứng sừng sững. Cột cờ ấy cao đến hơn bốn trượng, kẻ này nhảy lên đó từ khi nào, ba người chúng ta đều không hay không biết, bản lĩnh cỡ này có gọi là xuất quỷ nhập thần cũng không đủ hình dung. Nhị lão Đông Đảo e ngại đây chính là trợ thủ ẩn mình của ta, một người trong bọn liền đột ngột tung chưởng phải, định bất ngờ đánh gãy cột cờ. Một chiêu này độc địa vô cùng, xung quanh cột cờ trống trải chênh vênh, người nọ không có điểm đặt chân nhất định sẽ phải ngã chết.
- Ôi chao. - Nhạc Chi Dương khẽ hô lên: - Như vậy người đó ngã chết ư?
- Nói cũng lạ, cột cờ rầm rầm đổ xuống còn người nọ thì lại không rơi xuống theo. Ta nheo mắt nhìn kỹ liền không khỏi kinh ngạc, y treo người lơ lửng ở trên không, sau đó bồng bềnh đáp xuống mặt đất, thế rơi hết sức ung dung, không giống như thân thể bằng xương thịt mà tựa như một cánh diều mang hình dáng con người. Đến khi người nọ hạ xuống đất, ta cẩn thận quan sát lần nữa, chỉ thấy y còn rất trẻ, cùng lắm chỉ mới hơn hai mươi một chút.
- Ông nói kẻ đó là người, không phải hồn ma à? - Nhạc Chi Dương lấy làm kinh sợ.
Tịch Ứng Chân ha ha cười lớn:
- Y đương nhiên là người, có điều võ công tu luyện hết sức kỳ diệu, lên trời hóa chim, xuống nước thành rồng, có thể khéo léo điều khiển lực hút của thiên địa tạo hóa.
- Có nhân vật lợi hại như thế sao? - Nhạc Chi Dương như đang nghe kể một câu chuyện thần thoại, cảm giác khó mà tin được.
- Chẳng những ta sửng sốt mà nhị lão Đông Đảo thấy y có bản lĩnh như vậy cũng kinh ngạc không kém. Người trẻ tuổi ấy cười rằng: "Hai vị già như vậy rồi, không chịu ở Đông Đảo hưởng phúc mà lại chạy đến Trung Thổ làm loạn. Ta theo dõi hai vị suốt ba ngày nay, dọc đường đi các vị cứ tác oai tác oái, chả làm chuyện gì có ích cả. Cái tên đảo chủ Vân Xán kia cai quản thuộc hạ không nghiêm, làm hổ thẹn lây cả tổ tiên, các người nếu như còn chút liêm sỉ thì hãy ngoan ngoãn rời khỏi nơi này mà trở về Đông Đảo tu tỉnh."
- Hai lão già nghe được y đã theo họ ba ngày, ai nấy đều tỏ vẻ không tin, một lão nói: "Tên tiểu tử nhà ngươi nói khoác không biết thẹn, vậy ngươi bảo xem ba ngày qua bọn ta đã làm những gì?"
- Người trẻ tuổi mỉm cười: "Đêm đầu tiên, hai vị tuổi già hồi xuân, ghé hưởng lạc ở đường Tập Khánh (T/G chú: nay là thành phố Nam Kinh), đã ăn bánh không trả tiền thì chớ lại còn đánh trọng thương gái thanh lâu nhà người ta. Sáng sớm ngày thứ hai, hai vị lão huynh gặp tai nạn bất ngờ, bèn chuyển sang cướp lấy một thớt ngựa, chủ ngựa tỏ vẻ phản kháng liền bị các ngươi đá cho một cước gãy đoạn chân trái. Cũng vào trưa ngày hôm đó, một đám dân đói đến xin ăn các ngươi, kết quả bị các ngươi quét cho hai chưởng, làm thương nặng ba người, gây thương nhẹ bốn người, một người trong số đó nếu không có ta cứu chữa kịp thời sợ rằng tính mạng cũng khó giữ được. Ngoài ra còn có một chuyện, các ngươi đến đây không chỉ có hai người mà là ba người, hai người phụ trách dẫn dụ vị đạo sĩ này đi khỏi để cho người còn lại ám sát đại tướng thành Hào Châu.
- Ta nghe xong lời này cảm thấy kinh ngạc lạ thường, sắc mặt nhị lão Đông Đảo lại càng khó coi hơn, một lão hét lên: "Người huynh đệ ấy của ta, ngươi đã làm gì hắn rồi?"
- Người trẻ tuổi nọ cười: "Cũng chẳng làm gì, hồi nãy ta đem treo hắn ở dưới lá cờ, tiếp đó không hiểu sao cột cờ lại gãy sụm, về sau hắn thế nào ta cũng không biết nữa.”
- Hai người kia biến sắc vội vã xông lên đằng trước, dưới lá cờ quả nhiên có che phủ một người, kẻ đó trông có vẻ bị người trẻ tuổi kia bắt giữ rồi điểm huyệt đạo, treo trên cột cờ. Mới rồi hắn ngã xuống theo cột cờ, vỡ đầu toạc óc chết tươi. Ta thấy tình hình như vậy mới thở phào một hơi. Nhị lão Đông Đảo giết nhầm đồng môn, bi phẫn cùng cực, nhảy chồm lên toan ra tay tàn độc với người trẻ tuổi nọ. Ta sợ y gặp nguy khốn, đang định bạt kiếm tương trợ, nào ngờ hai bên vừa chạm trán, nhị lão Đông Đảo đã song song té nhào, thậm chí đến nỗi người trẻ tuổi nọ ra tay thế nào ta cũng không kịp nhìn rõ.
Nhạc Chi Dương buột miệng hỏi:
- Người này là ai mà lợi hại thế?
Tịch Ứng Chân nghiêm trang đáp:
- Người này họ Lương, tên Tư Cầm
Ổng vẫn còn sống cơ à? - Nhạc Chi Dương hỏi.
- Đương nhiên là còn! - Tịch Ứng chân khẽ cao giọng: - Chỉ vì ông ấy còn sống mà suốt ba mươi năm qua, Vân Hư không dám rời khỏi Đông Đảo nửa bước.
- Lợi hại thiệt! - Nhạc Chi Dương buột miệng kêu lên.
Tịch Ứng Chân cười khà khà, kể tiếp:
- Lương Tư Cầm chế ngự nhị lão nhưng tuyệt không xuống tay giết người mà lại thả cho bọn họ đi, lúc thả có dặn: "Các người thay ta chuyển lời cho Vân Xán, ngày nay thiên hạ đại loạn, lý ra phải trừ hại an dân, cứu vớt chúng sinh. Nếu y còn chút lương tâm thì tốt nhất nên quản thúc lại đám người trên đảo, không thì trời cao sẽ chẳng buông tha cho y đâu". Nhị lão đưa mắt nhìn nhau, cất giọng hỏi: "Ngươi tên họ là chi? Võ công từ đâu học được?" Lương Tư Cầm đáp: "Ta họ Lương, đến từ hải ngoại". Hai người nọ tái mét mặt mũi, chẳng nói chẳng rằng, xoay người bỏ đi một mạch, ngay cả thi thể đồng môn cũng không thèm quan tâm đến. Ta cảm kích trong dạ bèn tiến lên phía trước làm quen với Lương Tư Cầm, trong lúc chuyện trò mới hay người này chẳng những võ công tuyệt đỉnh mà học vấn cũng cao vời, tài trí trác tuyệt, lại có chí hướng giúp đỡ giang sơn xã tắc, ta liền khuyên y đầu quân về dưới trướng Chu Nguyên Chương. Nhưng y bản tính đạm bạc, không muốn làm tướng làm quan, trước sau chỉ muốn làm một viên phụ tá nhỏ. Về sau lúc truy diệt quần hùng, Lương Tư Cầm nghĩ ra diệu kế, tạo lập thần cơ, ra tay mạnh mẽ, quần hùng Đông Đảo liên tiếp đón nhận thất bại, trong lòng họ hiểu rõ, một ngày không diệt trừ đi Lương Tư Cầm thì chuyện thắng được Chu Nguyên Chương chỉ là vọng tưởng. Thế nên, Vân Xán mới hạ chiến thư, mời Lương Tư Cầm đến Đông Đảo quyết một trận tử chiến."
- Một mình ổng thôi à? - Nhạc Chi Dương không khỏi kinh ngạc.
- Ta vốn định cùng y đi đến đó, nhưng y bảo đối phương tráo trở, biết đâu lại là kế điệu hổ ly sơn, dặn ta ở lại bên cạnh Chu Nguyên Chương, phòng ngừa Đông Đảo ra tay ám sát. Vì thế sự tình sau đó, ta cũng chưa từng tận mắt chứng kiến, chỉ nghe kể lại rằng y một mình theo hẹn, vượt trùng dương đánh bại hết tất cả cao thủ ở Đông Đảo, lại khắc lên bảy chữ trên bia đá đầu đảo: "HỮU BẤT HÀI GIẢ NGÔ KÍCH CHI"(*)
(ND chú: đại loại là ~ hễ ai không thuận theo thì ta đánh hết!)
Nhạc Chi Dương tặc lưỡi liên hồi:
- Hóa ra hàng chữ ở trước đảo là do ổng viết, thảo nào, thảo nào...
Tịch Ứng Chân nói:
- Từ sau trận chiến ấy, Đông Đảo thất bại toàn tập, Vân Xán vừa thọ thương cộng thêm uất hận, không lâu sau thì lìa đời, trước khi chết cứ căn đi dặn lại con trai Vân Hư nhất định phải báo thù cho mình. Sau này Vân Hư luyện thành kiếm pháp, trong vòng mười năm đã khiêu chiến Lương Tư Cầm ba lần, kết quả đều thất bại cả ba. Lần thứ ba ấy, y trở về Đông Đảo, trong lúc tức giận đã phát lời thề độc, nếu không luyện thành võ công đánh bại Lương Tư Cầm thì cả đời sẽ quyết không rời khỏi Đông Đảo nửa bước.
Nhạc Chi Dương vỗ tay cười:
- Chả trách Vân Hư mặt mày khổ não như vậy, hóa ra là một kẻ thua cuộc cay đắng.
- Lương Tư Cầm vốn là vô địch thiên hạ, thua dưới tay ông ta cũng không đến nỗi mất thể diện! - Tịch Ứng Chân từ tốn bảo: - Vả lại Vân Hư trước nay giao đấu cũng chỉ thua mỗi ba lần duy nhất ấy, phóng mắt khắp thiên hạ, nhân vật có thể so vai với y chắc cũng không quá năm vị.
- Là năm vị nào? - Nhạc Chi Dương cảm thấy tò mò cực điểm.
Tịch Ứng Chân chầm chậm đáp:
- Nếu sau này ngươi vào giang hồ thì tự nhiên sẽ biết thôi.
- Lương Tư Cầm còn ở triều đình không vậy? - Nhạc Chi Dương không nhịn nổi thắc mắc:
- Sao ta chưa từng nghe nhắc đến danh của ổng?
Tịch Ứng Chân lặng im một thoáng mới trả lời:
- Bởi chính kiến không hợp nhau, y đoạn tuyệt với Chu Nguyên Chương rồi bỏ đi Tây Vực ẩn thân lánh đời, hiện nay ba từ "Lương Tư Cầm" chính là từ cấm kỵ ở triều đình, ai mà nhắc đến sẽ phạm vào tội chết.
Nhạc Chi Dương ngạc nhiên tột độ:
- Sao lại như thế chứ?
Tịch Ứng Chân ồ lên một tiếng bảo:
- Lạ nhỉ, Nhạc Thiều Phượng không kể cho ngươi nghe chuyện này à? Theo ta biết, lệnh tôn mất đi chức quan cũng là vì liên lụy đến cái án của Lương Tư Cầm.
Nhạc Chi Dương giật thót mình, lập tức hỏi ngay:
- Tịch đạo trưởng, nghĩa phụ ta và Lương Tư Cầm thân nhau lắm ư?
- Nói thân cũng không hẳn, Lương Tư Cầm tinh thông âm luật, năm ấy trong lúc bàn thảo Nhã Nhạc cho Đại Minh, Nhạc tiên sinh và y có qua lại giao thiệp với nhau một thời gian. Về sau Lương Tư Cầm gặp chuyện, lệnh tôn cũng chịu liên can, nhưng thời may là ông đã từ quan nên bảo toàn được tính mạng, còn những người khác thì không có được vận hạnh ấy.
Tịch Ứng Chân nói đến đây, thầm thở dài một hơi.
Nhạc Chi Dương nghe tim đập mạnh thình thịch, gã hỏi:
- Tịch đạo trưởng, cha của tôi có kẻ thù nào hay không?
Tịch Ứng Chân bảo:
- Việc này thì không nghe, lệnh tôn dựa trên âm nhạc mà làm quan, chưa từng lâm trận giết địch, cũng không tham gia chính sự, theo lẽ thì chẳng có kẻ thù nào.
Nói đến đây, ông lấy làm lạ hỏi lại:
- Nhóc con, ngươi hỏi việc này chi vậy?
Nhạc Chi Dương cố nén nhịn nỗi đau, mang cái chết của Nhạc Thiều Phượng kể lại một lượt. Tích Ứng Chân nghe xong, trầm ngâm bảo:
- Xuống tay tàn độc như thế hẳn là do huyết hải thâm thù, ta với lệnh tôn qua lại không được thân thích, rất nhiều chuyện cũng không rõ cho lắm.
- Liệu có phải là... - Nhạc Chi Dương hít sâu một hơi mới tiếp lời: - Là Chu Nguyên Chương?
- Không đâu! - Tịch Ứng Chân trầm tư bảo: - Nếu là Chu Nguyên Chương thì đã sớm giết lệnh tôn từ lâu rồi, hà tất phải chờ đến lúc này?
Trái tim Nhạc Chi Dương bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, nếu Chu Nguyên Chương không phải là hung thủ, gã và Chu Vi cũng không phải gặp nhau trong thù hận nữa, nhưng nếu không phải Chu Nguyên Chương, vậy thì là ai?
Muôn mối tơ vò, gã đành dẹp sang một bên, hỏi tiếp:
- Tịch đạo trưởng, ông là bạn thân của đương kim hoàng thượng, vì sao lại bị nhốt ở chốn này?
- Nói ra thì dài lắm! - Tịch Ứng Chân khẽ thở dài. - Năm ấy thiên hạ được bình định, ta không muốn làm quan bèn đi vân du tứ phương. Nhưng Chu Nguyên Chương nhớ lại giao tình thuở trước liền tìm cách triệu hồi ta về kinh đô, một mặt giao nhi nữ của mình cho ta truyền thụ võ công, mặt khác ban cho ta nhiều danh hiệu, để ta ở lại kinh thành quản lý Đạo giáo trên khắp thiên hạ.
- Vốn là người trong Huyền Môn, bất quản cả trời đất, ta tham dự cuộc phân tranh trong thiên hạ cùng lắm chỉ là nhất thời ngẫu nhiên, vinh hoa phú quý không phải thứ ta thích, tiêu diêu tự tại mới là sở cầu của ta. Còn cái bọn hoàng tử hoàng tôn ấy được mấy bà vú nuôi lớn trong chốn thâm cung, nếu không phải loại hèn nhát tầm thường thì cũng là loại bạo ngược bất nhân, dạy dỗ chúng xem ra còn khó hơn lên trời, tính đi tính lại, chỉ có ba người là học được chân truyền của ta, trong đó có một cô bé mà ta hết sức tâm đắc. Chao, cô bé tốt tính như vậy mà lại sinh ra trong nhà đế vương thật là uổng phí.
Nhạc Chi Dương nghe kể đến đây, trong lòng ngưa ngứa, bèn hỏi:
- Cô bé ấy tên là gì?
- Tên nó độc mỗi chữ Vi. - Tịch Ứng Chân hờ hững đáp: - Hiệu là Bảo Huy công chúa.
Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy một bầu máu nóng dâng đến đỉnh đầu, trống ngực thình thịch đập vang. Gã cuối cùng cũng nhớ ra, trong phường hát Trương Thiên Ý đã từng bảo, Chu Vi chính là đệ tử của Tịch Ứng Chân, hèn chi cái tên ấy lại nghe quen tai đến như vậy. Thật không ngờ được, tại cái xứ khỉ ho cò gáy này lại gặp được sư phụ của tiểu công chúa.
Tịch Ứng Chân dòm qua chấn song thấy thần sắc của gã là lạ liền hỏi:
- Sao vậy? Ngươi từng nghe tên nó rồi à?
Nhạc Chi Dương không muốn liên lụy đến Chu Vi bèn lắc đầu giục:
- Xin đạo trưởng kể tiếp đi ạ.
- Ta không thích ở lại kinh thành bèn mượn cớ đi giám sát các đạo quán trong thiên hạ để tiện bề ra ngoài chu du. Chừng đâu hai năm trước, Vi nhi gởi thư cho ta, bảo đã lâu rồi không gặp, trong lòng nhung nhớ không thôi. Ta liếc qua phong thư, cũng có phần nhơ nhớ cô bé đồ đệ này, vì vậy mới chuyển hướng về kinh. Mấy năm qua Chu Nguyên Chương giết chóc quá nhiều, công thần bạn cũ tan tác quá nửa, tuy ông ấy không nói ra ngoài miệng nhưng trong lòng thì hết sức cô đơn, gặp được người bạn xưa đã lánh đời như ta liền níu giữ ở miết trong cung cùng ông ấy chơi cờ uống rượu. Một ngày nọ, chơi xong hai ván cờ, ông ấy chợt đề cập đến hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, trong lòng vô cùng phiền muộn. Thái tôn tuy thừa đức hạnh nhưng lại không đủ hùng tài, tuy ông ta đã có trăm kế đề phòng nhưng vẫn lo sợ có sơ suất. Chướng ngại ở triều đình trước mắt đã bị quét sạch, đám quân thần hung hãn khó chế ngự đều bị tru diệt, tuy nhiên bên ngoài triều đình thì vẫn ẩn chứa mầm họa, đặc biệt là dư nghiệt của Đông Đảo. Nhiều năm qua như vậy, đám tro tàn lại âm ỉ bùng cháy, dạo gần đây bọn chúng đã đôi phen xông vào cung cấm, mặc dù chưa thể thành công nhưng cũng cần đề cao cảnh giác. Ông ấy hỏi ta có biết vị trí của Đông Đảo ở đâu không, định đóng tàu chinh phạt, đánh thẳng vào sào huyệt.
- Tuy ta biết Đông Đảo ở đâu nhưng Thái Hạo Cốc và Đông Đảo như cây liền cành như chim liền cánh, sao ta có thể tiết lộ vị trí, đẩy họ vào đường cùng cho được? Cho nên ta đành nói qua quýt, rằng Đông Đảo cách xa Trung Thổ, giữa vùng mênh mông khói sóng, trừ đệ tử Đông Đảo ra, không ai biết đảo ở vị trí nào. Năm ấy Đại Nguyên cũng từng phái binh đi chinh phạt nhưng cũng như mò kim đáy bể, xiết bao lượt công cốc trở về. Chu Nguyên Chương tiêu tan hy vọng, đành nói nếu lần sau còn có đệ tử Đông Đảo xông vào hoàng cung sẽ để cho "Âm Ma" Lãnh Huyền bắt sống, bất kể phải dùng thủ đoạn gì cũng phải ép hỏi cho ra nơi tọa lạc của Đông Đảo.
- Vậy toi rồi còn gì? - Nhạc Chi Dương nói: - Mấy tên ở Đông Đảo này hết sức cuồng vọng, nhất định sẽ còn lén trở lại hoàng cung.
- Ta cũng suy đoán như vậy. - Tích Ứng Chân thở dài: - Ta với Đông Đảo có dính dấp rất nhiều, năm ấy hai bên xem nhau như kẻ thù cũng vì tình thế chẳng đặng đừng, nay tuổi tác ta đã cao, cũng chẳng còn gì mà lo lắng, chi bằng xả thân dấn bước, cho dù chết hay sống thì cũng nên giải quyết nốt mối ân oán này. Nghĩ bụng như thế, ta mượn cớ vân du rời kinh thành, cưỡi thuyền vượt biển, mấy độ lênh đênh mới đến được Đông Đảo. Vân Hư trông thấy ta cũng hết sức ngạc nhiên, nhưng y thân là tông chủ một phái nên cũng không gây khó dễ gì cho ta mà ngược lại còn khách khí dò hỏi ý đồ đến đây của ta.
- Ta đem chuyện vì sao đến đây nói cho y biết, lại bảo: "Giờ đây thiên hạ thái bình, bá tánh lạc nghiệp. Ta với ông đều đã kinh qua chiến loạn, biết bao nhiêu thảm cảnh không dám ngoảnh đầu nhìn lại, nếu dấy binh biến lần nữa liệu sẽ có bao nhiêu người dân vô tội phải tan nhà nát cửa? Dám mong Vân đảo vương lấy bá tánh làm trọng, cứ một cõi xưng hùng ngoài hải ngoại, vứt bỏ đi thù xưa hận cũ". Vân Hư nghe xong chẳng mảy may biểu lộ cảm xúc, chỉ bảo: "Thái Hạo Cốc và Đông Đảo ta có dây mơ rễ má sâu xa, tổ sư Liễu Tình đạo trưởng của ông và tổ sư Công Dương Vũ của bản môn vốn giao tình không nhẹ, năm xưa đạo trưởng ở doanh trại kẻ địch cũng nhiều lần giơ cao đánh khẽ, chừa cho Đông Đảo ta một đường sống. Nhớ đến chuyện cũ ta đây kính ông ba phần. Nhưng mà, theo lời đạo trưởng nói, thật sự phải cân nhắc đôi điều. Từ khi nhà Tống mất ở Nhai Sơn thì Đông Đảo ta luôn nung nấu quyết tâm chống lại giặc Nguyên, trong suốt trăm năm ấy chả biết đã chết mất bao nhiêu anh hùng hảo hán. Về sau Đại Nguyên loạn chính cũng là lúc đệ tử Đông Đảo đồng loạt nổi dậy, muôn vạn người cùng chít khăn hồng. Trận chiến ở Cao Bưu, thừa tướng Đại Nguyên là Thoát Thoát dùng trăm vạn đại quân vây thành, một thành trì bé tẹo đã mấy phen suýt tan vỡ, là nhờ ai đã liều mạng khổ chiến, đại phá quân Nguyên khiến cho chúng chẳng thể tiến xuống phương Nam chứ? Bằng không, Thoát Thoát mà phá được Cao Bưu rồi, thừa thế cuống phăng Giang Nam, Chu Nguyên Chương cho dù có tài năng trùm trời đi nữa cũng phải thành ma dưới đao của bọn Nguyên. Kết quả thì sao chứ, đệ tử Đông Đảo chúng ta máu chảy đầu rơi nơi tiền tuyến, còn hắn thì ở hậu phương trắng trợn khuếch trương thực lực. Đáng hận nhất chính là cái tên Lương Tư Cầm, tổ tiên của hắn vốn là đại tướng triều Nguyên đã nhẫn tâm vứt bỏ đi áo mũ Đại Hán chúng ta. Đạo trưởng tương trợ Chu Nguyên Chương còn có thể cho là vì thiên hạ bá tánh, còn hắn giúp Chu Nguyên Chương chỉ là vì không muốn để cho Đông Đảo bọn ta đạt được ý nguyện, cho nên trăm phương ngàn kế phá hoại đại sự của bọn ta. Mối hận này cao đến trời xanh, Vân mỗ nếu không trả thù rửa hận thì quả là uổng thân nam tử bảy thước".
- Ta nghe xong lời này, đành nói: "Đánh đuổi rợ Nguyên, Đông Đảo đúng là lập công lớn. Đời có câu: "Tận nhân sự, an thiên mệnh"(*), chống lại giặc Nguyên rõ là quý đảo đã làm hết sức, không phụ lòng của thiên hạ bá tánh, thế nhưng để thống nhất thiên hạ thì không thể thiếu đi ít nhiều sự may mắn. Năm ấy đại chiến mấy bận, nếu Đông Đảo có cơ hội thủ thắng thì biết đâu chừng Chu Nguyên Chương cũng sẽ có họa diệt vong, mọi người ai cũng cố hết sức, thắng bại cũng rõ ràng rành mạch. Con người sinh ra ở đời phải biết chấp nhận thất bại, cứ mồm miệng oang oang không dứt như lũ đàn bà thì đâu có giống hành vi của một người đàn ông tốt."
(ND chú: có nghĩa là khi đã làm hết sức mình rồi, thì chuyện còn lại nên để cho số trời an bài.)
Nhạc Chi Dương bật cười:
- Đạo trưởng nói vậy chỉ e đắc tội người khác rồi.
Tịch Ứng Chân cười khà khà, kể tiếp:
- Vân Hư nghe xong nổi giận đùng đùng. Nhưng y tự cao tự đại, không tiện phác tác ra ở đó, hậm hực một lúc mới bảo: "Hóa ra đạo trưởng là thuyết khách của Chu Nguyên Chương". Ta thấy y ngu xuẩn cố chấp, trong lòng phát bực bèn nói: "Ta đi thuyết phục ông làm gì? Ông mà đi đầu hàng Chu Nguyên Chương, dựa vào thủ đoạn của ông ta, chắc gì chừa cho ông cửa sống. Ta chỉ vì nhớ lại mối quan hệ của đời trước, không nỡ chứng kiến Đông Đảo bị tận diệt nên mới mạo hiểm đến đây nhắc nhở ông một câu, đừng bao giờ trở về gây nhiễu loạn cho Trung Thổ nữa, nhỡ đâu chọc giận Chu Nguyên Chương, để ông ta đóng thuyền chinh phạt, vậy thì nguy to". Vân Hư nghe xong liền đáp: "Chu Nguyên Chương giết hại công thần, không chừa lại dư lực, đạo trưởng cứ năm lần bảy lượt bán mạng cho hắn thì có gì hay đâu? Năm đó Lương Tư Cầm lập cho hắn ta biết bao công lao, kết quả vì không hợp ý là lập tức trở mặt thành thù. Một người chủ bạo ngược như vậy đạo trưởng không cảm thấy đáng sợ hay sao?". Ta không thể khuyên nhủ được Vân Hư, ngược lại còn để y kích động ta, trong lòng thấy buồn cười liền nói: "Đánh giá một vị hoàng đế, hãy xem cách ông ta đối xử với bá tánh như thế nào. Có thể khiến cho thiên hạ thái bình, bá tánh lạc nghiệp, đó chính là một vị hoàng đế tốt, còn những chuyện khác bần đạo chẳng quan tâm". Vân Hư nói: "Xem ra, đạo trưởng không tác động được ta, ta cũng không thuyết phục được đạo trưởng, thôi thì như vầy, chúng ta cùng phát xuất từ một nguồn, đều dựa vào kiếm pháp mà rạng danh, ta và ngươi so kiếm pháp, nếu ngươi thắng thì ta sẽ tự quản thúc đệ tử, không gây khó dễ cho Chu Nguyên Chương nữa; còn nếu ngươi thua thì hãy lén trở về bên cạnh Chu Nguyên Chương, đoạt lấy cái đầu chó của tên ăn mày ấy cho ta!".
- Ta trong dạ giật bắn, vội nói: "So kiếm thì so kiếm, nhưng việc hành thích bần đạo nhất quyết không đồng ý". Vân Hư mỉm cười: "Việc này đạo trưởng không tự quyết định được, nếu không đồng ý, sợ là đạo trưởng không thể rời khỏi hòn đảo này đâu". Ta hỏi: "Ta thắng rồi thì có thể đi chứ?". Vân Hư đáp: "Tất nhiên!" Ta liền nói: "Đao kiếm không có mắt, Đông Đảo là địa bàn của ông, ông có giết ta cũng chẳng hề gì, còn ta mà lỡ làm bị thương ông, đệ tử của quý đảo chắc gì sẽ chấp nhận, lúc ấy ta vẫn không thể rời khỏi Đông Đảo. Hay là đổi sang cách này, có thể phân thắng bại mà không làm tổn thương hòa khí". Vân Hư hỏi là biện pháp nào, ta đáp: "Lúc bần đạo cưỡi thuyền đến đây có trông thấy một hang đá, nơi ấy chim yến ra vào thành từng bầy, hay là chúng ta dùng kiếm đâm yến, hễ chim rơi xuống đất mà không bị thương thì đạt yêu cầu, nếu như làm bị thương bao nhiêu con thì cứ căn cứ vào số con trên mặt đất mà trừ đi bấy nhiêu, trong vòng một nén nhang, ai làm rơi nhiều yến hơn là người thắng cuộc."
Nhạc Chi Dương giật mình:
- Dùng kiếm đâm yến, sao có thể không làm yến bị thương mà rơi xuống đất được chứ?
- Kể ra thì ảo diệu khó tin lắm, kiếm pháp khi luyện đến một cấp độ nhất định thì chuyện đó không có gì là khó nữa. Chỉ cần xuất kiếm êm, nhanh, đúng lúc, vận kình chuẩn xác, mũi kiếm chưa đâm đến nhưng kình lực đã xuyên vào cơ thể của chim yến trước, khiến cho khí huyết nó ngừng lại, mất đi khả năng bay liệng.
Nhạc Chi Dương hít ngược vào một hơi lạnh, buột miệng hô:
- Việc đó khó vô cùng!
- Nếu không khó thì đâu có thể hiện được bản lĩnh. Ta cứ nghĩ Vân Hư chưa chắc ưng thuận, ngờ đâu y không hề ngập ngừng, gật đầu đồng ý ngay, lại hỏi ta, nếu như ta thua thì có chịu đi hành thích Chu Nguyên Chương hay không? Ta không trả lời rõ ràng, chỉ bảo nếu ta thua thì tùy y xử trí. Y mỉm cười không nói gì thêm. Thế rồi chúng ta đi đến phía trước hang yến, đầu tiên giăng lưới cá ra phủ trước cửa hang tránh làm cho yến bay lật tổ, tiếp đó nổi trống lên, đàn yến trong hang giật mình, thi nhau tung cánh bay tán loạn, nhưng vì lưới cá ngăn cản, chúng chỉ biết hoảng hốt chao liệng ngay tại cửa hang. Hai chúng ta ở ngay phía trước lưới, mỗi người đều cầm trường kiếm đâm yến. "Phi Ảnh Thần Kiếm" với sở trường tốc độ, một khi tung chiêu, hệt như ngư long giỡn sóng, rọi bóng chim hồng, màng lưới kiếm kết thành từ lưỡi gươm ấy còn chằng chịt hơn cả tấm lưới cá ngoài kia, ánh kiếm lia đến đâu, hầu như nơi đó khó có con yến nào thoát được. Chốc lát sau, y đã loác xoác đâm rụng hơn mười con yến biển, tiếc thay trong số đám chim rơi dưới mặt đất thì số chết đã chiếm một phần ba còn bị thương đã hơn quá nửa, chỉ có một vài con là còn miễn cưỡng chấp nhận, nhưng nếu trừ đi số chim chết và bị thương thì y đến một con cũng không có dư, thậm chí còn bị âm không ít.
Lão đạo sĩ nói đến đây thì bật cười khùng khục. Nhạc Chi Dương cũng vỗ tay cười theo:
- Vân Hư tự cao quá trớn, lần này đã trúng kế rồi, đạo trưởng trước đây đã từng luyện qua chiêu đâm chim yến hay sao?
- Chưa luyện bao giờ, nhưng ta đề nghị đâm chim yến thì trong bụng cũng có sẵn tính toán. Kể từ khi đại hiệp Vân Thù sáng chế ra "Phi Ảnh Thần Kiếm" đến nay, đường kiếm pháp này thường áp dụng trong chiến tranh, trên chiến trường có ngươi thì không có ta, chuyên dùng để giết địch chớp nhoáng, thường thường đối thủ còn chưa nhìn rõ thì đã bị y một kiếm đâm chết, mà dù có nhìn rõ cũng chẳng thể nào đỡ nỗi một cú nhanh như điện xẹt ấy. Cho nên, đường kiếm pháp này chính là kiếm pháp đoạt mạng, sở hữu một khí thế không thể cản phá. Chim yến vốn nhỏ bé yếu mềm, dùng "Phi Ảnh Thần Kiếm" dũng mãnh như vậy, nếu không cẩn thận thì sẽ đâm xuyên qua mình chim. Còn Thái Hạo Cốc của ta bốn đời đều là đạo sĩ, Huyền Môn ý chính là ở hai từ "Xung Hư". Thánh nhân dạy: "Đại Doanh Nhược Xung, Kỳ Dụng Bất Cùng."(*) Chỉ có giữ lại đường lui ở khắp nơi thì sự sống mới không ngừng sinh sôi nảy nở. Cho nên "Dịch Tinh Kiếm" một khi luyện đến cảnh giới nhất định có thể chuyển Hư thành Xung, mỗi một lần đâm kiếm luôn giữ lại một ít kình lực, một là để tránh làm người khác bị thương nặng, mang ý nghĩa tha thứ của đạo môn, hai là những chiêu thức nhìn tưởng trống rỗng nhưng hậu chiêu thì lại nhiều vô cùng, bất kể đối thủ biến hóa thế nào, ta đều có cách để ứng biến.
(ND Chú: trích đạo đức kinh C45 của lão tử, ý nghĩa là thứ đầy đủ nhất là những thứ nhìn thì như rỗng không nhưng tác dụng nó mang lại thì lại nhiều vô kể)
- Ta hiểu rồi. - Nhạc Chi Dương vỗ tay cười: - Kiếm của Vân Hư là loại kiếm giết chóc, còn của đạo trưởng là kiếm nhân từ, nếu muốn chim yến không chết không bị thương thì loại kiếm nhân từ đương nhiên dễ dàng làm được.
- Thí dụ đúng rồi đó! - Tịch Ứng Chân vỗ tay cười lớn, có cảm giác như gặp được tri kỷ: - Kiếm pháp của ta tuy không dũng mãnh như Phi Ảnh Thần Kiếm thế nhưng kình lực có thể thu phát tùy tâm, mũi kiếm vừa chạm vào thân chim liền thuận theo thế bay của chim mà thu hồi lại phần lớn kình lực, phần dư lực sót lại có thể đâm rơi chim yến mà không gây ra bất kỳ thương tổn nào cho nó. Hiển nhiên không thể nói là "Dịch Tinh Kiếm" trội hơn "Phi Ảnh Thần Kiếm" được, chỉ là phong cách của cả hai không giống nhau, khi lâm trận giết địch, "Phi Ảnh Thần Kiếm" tất nhiên lợi hại nhưng nếu để đâm rơi chim yến thì "Dịch Tinh Kiếm" hiệu quả hơn nhiều.
Nhạc Chi Dương ngấm ngầm khâm phục, nhủ bụng lão đạo sĩ này cừ khôi thật, chỉ trong chốc lát ngắn ngủi mà cũng nghĩ ra được một cách có lợi cho mình như vậy. Nghĩ đến đây, gã lại thấy khó hiểu:
- Nói như vậy, đạo trưởng đáng lý phải thắng mới đúng, sao vẫn còn bị giam ở trên đảo?
- Ta chỉ lo nghĩ đến kiếm pháp mà quên đi mất lòng người. - Tịch Ứng Chân thở dài một hơi: - Lúc bắt đầu, Vân Hư cho rằng việc đâm yến quá sức đơn giản, lại ỷ vào khinh công và kiếm thuật, nhất định có thể giành chiến thắng ngay, đến khi y hiểu ra điểm khó khăn bên trong thì đã rơi xuống thế hạ phong quá sâu rồi. Mắt thấy nén nhang sắp tàn, bại cục đã định, y bèn phất tay bắn ra vô số "Dạ Vũ Thần Châm", thế là toàn bộ đám yến còn sống ở đằng trước ta đều bị ghim chết sạch trên mặt đất.
Nhạc Chi Dương hét lên:
- Như vậy không phải phạm quy hay sao?
- Đúng, ta cũng tố y phạm quy, Vân Hư lại bảo rằng: "Chúng ta chỉ nói không đâm chết yến của mình chứ đâu có nói không được đâm chết yến của đối thủ đâu. Đạo trưởng nếu có khả năng thì cứ đến đâm chết đám yến của ta cũng được mà." Lý lẽ này hết sức vô lại nhưng cũng khó mà phản bác, nén nhang nhanh chóng cháy tàn, ta đành phải buông kiếm nhận thua.
- Rõ ràng là xằng bậy. - Nhạc Chi Dương tỏ ra phẫn nộ: - Đạo trưởng sao có thể nhân thua!
- Chuyện này không minh không bạch, có thể nói là làm bậy, cũng có thể cho là lợi dụng kẽ hở trong quy tắc. Nếu là đám vô lại chợ búa thì hẳn có thể tranh cãi một trận ra trò, nhưng lão đạo ta một đời rộng lượng, sao có thể làm cái trò xấu xa như mấy bà thím ấy? Vân Hư thấy ta buông kiếm nhận thua, lại ép ta đi hành thích Chu Nguyên Chương. Ta nói "Ta cam nhận thất bại, muốn chém muốn giết ta đều nhận hết, nhưng việc hành thích thì vạn lần không thể. Bần đạo xuất thân ở Huyền Môn, cũng biết đến hai từ "nhân nghĩa", ta và Chu Nguyên Chương có giao tình kết bái, sao có thể vì sự bức ép của ông mà đi sát hại huynh đệ của mình, huống chi dù ta có đồng ý trước mặt nhưng về đến Trung Thổ ta lập tức nuốt lời thì sao?". Vân Hư bảo: "Nói cũng phải, đề phòng trường hợp này ta sẽ có hậu chiêu". Nói xong, y giơ ngón trỏ phải điểm năm lần xuống người ta, cảm giác tê-buốt-đau-ngứa, mỗi loại đều khác nhau, ta không kềm được liền hỏi: "Ông làm gì đấy?". Y nói: "Ngươi nghe qua ‘Nghịch Dương Chỉ’ chưa?".
- Ta vừa nghe cái tên đó thì hết hồn, ngón chỉ kình này chính là môn kỳ công mà năm xưa "Tây Côn Luân" Lương Tiêu trong lúc phá giải kỳ độc "Ngũ Hành Tán" đã ngộ ra. Thông thường khí huyết trong cơ thể vận hành đều hợp theo đạo ngũ hành, chỉ kình của "Nghịch Dương Chỉ" lại đảo ngược với ngũ hành, khắc chế toàn bộ khí huyết trong cơ thể. Chỉ kình ẩn nấp lâu ngày trong cơ thể, thường ngày người trúng chỉ không có vẻ gì khác với người bình thường, nhưng cứ mỗi bảy hôm lại phác tác một lần, mỗi lần phác tác thì sống không bằng chết"
Nhạc Chi Dương kinh hãi:
- Nói như vậy, cứ qua bảy ngày, đạo trưởng lại bị phác tác một lần hay sao?
- Ừm! - Tịch Ứng Chân thở dài: - Loại chỉ kình này chỉ có mình đảo vương hiểu rõ, đây vốn là cách thức chuyên dùng để trừng trị những tên phản đồ của Đông Đảo, Vân Hư sử dụng lên người ta, ý đồ hết sức rõ ràng: nếu ta không chịu nổi đau đớn khi chỉ kình phác tác sẽ phải khuất phục trước y rồi thay y đi hành thích Chu Nguyên Chương.
- Vậy đạo trưởng đã khuất phục rồi ư? - Nhạc Chi Dương vừa hỏi vừa nghĩ thầm, nếu như khuất phục thì Chu Nguyên Chương đã chết nhăn răng từ lâu, Tịch Ứng Chân cũng đã không bị nhốt ở cái nơi quái quỷ này nữa.
Chỉ nghe Tịch Ứng Chân đáp:
- Ta lên đảo ngót hai năm, mùi vị của Nghịch Dương Chỉ đã hơn trăm lần nếm trải, mỗi lần như vậy Vân Hư đều đến bức ép ta tuân theo lệnh y nhưng ta đều phớt lờ. Nếu y muốn giết ta cũng dễ thôi, chỉ cần khoanh tay đứng nhìn, đợi cho khí huyết của ta chảy ngược thì sau cùng cũng chết tốt. Nhưng y tính khí ngang ngạnh, ta càng không khuất phục y lại càng không để ta chết dễ dàng, đến thời điểm nghìn cân treo sợi tóc cuối cùng y luôn ra tay cứu chữa, còn nói: "Để ta xem ngươi chịu đựng đến bao giờ, một năm không được thì hai năm, hai năm không được thì ba năm, cỡ nào ta cũng sẽ bắt ngươi ngoan ngoãn khuất phục, thay ta đi giết tên cẩu hoàng đế đó". Ta cũng trả đũa lại: "Hai ba năm bõ bèn gì, sao không đợi qua hai ba chục năm ấy, khi đó Chu Nguyên Chương đã cưỡi rồng lên trời, không cần ta giết ông ấy thì ông cũng trả được mối thù". Miệng tuy nói thế nhưng nỗi đau đớn cứ mỗi bảy ngày kéo đến ấy quả thật không dễ chịu chút nào.
Tịch Ứng Chân nói hết sức nhẹ nhàng nhưng Nhạc Chi Dương lại cảm giác sống lưng lạnh toát. Thử tưởng tượng, nỗi đau đớn bảy ngày đến một lần này nếu đổi lại là chính gã, cho dù không khuất phục thì cũng phải phát điên phát cuồng. So ra, trận đòn bằng trượng kia đơn giản là chả thấm vào đâu cả. Nghĩ đến đây, gã chợt nảy sinh một niềm kính trọng dành cho Tịch Ứng Chân, bất kể Chu Nguyên Chương là tốt hay xấu thì nghĩa khí của lão đạo sĩ đều hết sức tuyệt vời.
Đang suy nghĩ, gã chợt nghe Tịch Ứng Chân bảo:
- Nhóc con, đệ tử Đông Đảo đi tuần đêm từ canh hai đến canh ba một lần, canh năm đến bình minh một lần, giờ đã qua canh năm, ngươi muốn về cũng khó đấy.
Nhạc Chi Dương nghĩ thầm chả trách ông ta lại kêu mình "Canh ba đến gặp", bèn vội vã chấp tay tạm biệt, lại hỏi:
- Tịch đạo trưởng, tối mai ta có thể đến nữa không?
Tịch Ứng Chân cười bảo: "Chân cẳng trên người của ngươi, ngươi muốn đến thì ai mà cản được?"
Nhạc Chi Dương mừng rỡ, bấu lấy dây leo trèo lên phía trên, mắt thấy nguyệt hằng sắp khuất dạng nẻo tây, gã vội vã trở về Yêu Nguyệt Phong, ngủ qua loa chốc lát rồi lại trở dậy đi làm việc.
Hôm sau vào giờ nghỉ trưa, Nhạc Chi Dương lấy mặt sắt của cây bừa bẻ ra một đoạn, dùng lửa nung cho đỏ mềm rồi rèn thành một sợi len thép dài mảnh. Ngủ đến canh ba, gã chạy đến hang Tinh Ẩn, lại phía trước cánh cửa đá, rút sợi len thép ra hí hoáy làm gì đó trên lỗ khóa. Tịch Ứng Chân nghe tiếng lách cách, bèn hỏi:
- Ngươi làm gì đó?
Nhạc Chi Dương im re không đáp, loay hoay một hồi, "Tách tách" - ổ khóa theo tiếng bật mở, Tịch Ứng Chân ồ lên bảo:
- Thằng nhóc giỏi, ngươi biết mở khóa à?
Nhạc Chi Dương sống lẫn trong đám ô hợp ven sông Tần Hoài, mấy trò mánh khóe hạ lưu đê tiện chẳng trò nào là không rành, bản lĩnh nhập nha này gã từ một lão thợ khóa già mà học được, sau khi học xong thì đây là lần đầu tiên dùng đến. Vừa nghĩ đến cảnh Tịch Ứng Chân có thể thoát khỏi nơi đây, gã cảm thấy vui mừng khôn xiết, nhưng nhìn mãi mà bên trong cửa đá vẫn tối u u, gã bất giác kêu lên:
- Tịch Đạo Trưởng?
Lão đạo sĩ thở dài, thắp sáng một bát đèn dầu. Nhạc Chi Dương nheo mắt nhìn vào, trong buồng giam là một ông lão râu tóc hoa râm đang ngồi, áo đạo màu xám, dáng hình gầy gò, đôi mắt sáng ngời minh mẫn ẩn bên dưới hàng chân mày mảnh dài khe khẽ rũ xuống.
Nhạc Chi Dương cười:
- Tịch đạo trưởng, sao còn chưa ra?
Tịch Ứng Chân vươn người đứng dậy, mỉm cười không đáp. Nhạc Chi Dương lấy làm lạ:
- Bộ ông không muốn rời Đông Đảo sao?
Tịch Ứng Chân khe khẽ lắc đầu:
- Nhóc con, ta trúng Nghịch Dương Chỉ, rời Đông Đảo cùng lắm chỉ sống được bảy ngày, ở lại đây tốt xấu gì cũng còn một tia hy vọng.
Nhạc Chi Dương nói:
- Đi Trung Thổ chuyến này chỉ mất không quá hai ba ngày đường, lên đến bờ rồi ông có thể đi tìm đại phu chữa trị.
- Đại phu? - Tịch Ứng Chân bật cười chua chát: - Có đại phu nào trên đời giải được Nghịch Dương Chỉ đâu!
- Ngón chỉ lực này thật sự vô phương cứu chữa sao? - Nhạc Chi Dương thầm cảm thấy tuyệt vọng.
- Không hẳn là không có cách. - Tịch Ứng Chân xòe lên hai ngón tay: - Trên đời này trừ Vân Hư ra, vẫn còn một người có thể phá giải được.
- Ai vậy? - Nhạc Chi Dương vội hỏi.
- Nói cũng vô ích thôi! - Tích Ứng Chân sắc mặt buồn rượi: - Người nọ ở tận núi Côn Luân ngoài Tây Vực, cách trở vạn dặm, nước xa không cứu được lửa gần.
- Tây Vực... - Trong đầu Nhạc Chi Dương lóe lên một ý nghĩ, gã buộc miệng: - Ông nói Lương Tư Cầm à?
Tịch Ứng Chân trầm ngâm không nói, Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy nhiệt huyết dâng trào, nhịn không được bật thốt lên:
- Đạo trưởng cứ an tâm, nếu tôi có thể rời khỏi Đông Đảo, nhất định sẽ đến núi Côn Luân tìm vị Lương tiền bối ấy, mời ông ấy đến đây cứu ông.
- Tiểu huynh đệ thật là tốt bụng! - Tịch Ứng Chân mỉm cười lắc đầu: - Nhưng với bản lĩnh của cậu, sợ là chẳng thể rời khỏi hòn đảo này được đâu.
Nhạc Chi Dương nghe xong cảm thấy chán nản vô cùng, lại thấy bên trong buồng giam để lỉn kỉn không ít vật dụng thường ngày, thậm chí còn có vài ba pho sách mục. Tịch Ứng Chân nhìn ra suy nghĩ của gã, bèn cười:
- Vân Hư tuy nhốt ta ở đây nhưng thức ăn thường ngày cũng chưa cắt xén đi bữa nào, chỉ hiềm thiếu mỗi bộ cờ vây. Ta đây, một hôm mà không sờ đến quân cờ là cảm thấy ngứa chân ngứa tay lắm, hai năm rồi chưa được chơi cờ, quả là bức bối muốn phát bệnh.
Nhạc Chi Dương cười:
- Sao đạo trưởng không nói sớm? Mai ta làm một bộ mang đến cho ông.
Tịch Ứng Chân xua tay bảo:
- Một mình ta vừa tung vừa hứng thì có ý nghĩa gì chứ!
Ngẫm nghĩ một lát, ông liền gọi:
- Nhóc con, ngươi qua đây.
Nhạc Chi Dương ậm ừ bước đến, Tịch Ứng Chân chợt phất tay, một luồng gió mạnh liền phất thẳng vào mặt gã.
Thiếu niên vừa cảm thấy hô hấp khó khăn, bàn tay của lão đạo sĩ đã chạm đến chóp mũi của gã.
Nhạc Chi Dương chẳng biết phải làm sao, trống ngực đập mạnh thình thịch. Tịch Ứng Chân bất ngờ thu tay về, trầm ngâm bảo:
- Quái lạ, lúc ta thấy ngươi đến đây, thân thủ có vẻ cũng khá lắm, rõ ràng là biết võ công, sao giờ ta chỉ tiện tay tung chưởng mà ngươi không đỡ được?
Nhạc Chi Dương ấp úng đáp:
- Chẳng dám giấu đạo trưởng, lúc trước ta có học qua một ít nội công, còn mấy thứ công phu khác thì chả học được môn nào cả.
Tịch Ứng Chân đưa tay bắt lấy mạch môn của gã, chỉ cảm thấy bên trong tràn trề sung mãn, nội công đã ở mức tương đương cơ bản. Ông bất giác lắc đầu:
- Đáng tiếc, đáng tiếc.
- Đáng tiếc gì ạ? - Nhạc Chi Dương thắc mắc.
- Năm xưa, tổ sư Bách Ách có thu nhận một gã đệ tử từng học qua võ công, kẻ nọ sau khi thành tài thì phạm phải tội nghiệt tày trời, vì vậy tổ sư trước lúc lâm chung có để lại di huấn: phàm đệ tử Thái Hạo Cốc thu nạp, nhất định phải không biết võ công. Ta thấy ngươi căn cơ không tệ, người cũng lanh lẹ, hiềm vì thân mang nội công, không thể làm đệ tử của ta được.
Nói đến đây, Tịch Ứng Chân không kềm được xót xa, lại cất lên hai từ "Đáng tiếc".
Nhạc Chi Dương nghe xong những lời này, trong lòng có cảm giác hẫng hụt, gã ngẫm nghĩ rồi mỉm cười bảo:
- Làm thầy trò thì đương nhiên là tốt, nhưng nếu là bằng hữu cũng đâu có tệ.
Tịch Ứng Chân ngẩn người, kế đó bật cười:
- Không sai, bần đạo trứ tướng(*) rồi, làm bằng hữu không câu nệ không ràng buộc, so với làm sư đồ sướng khoái hơn nhiều.
(ND chú: một từ trong kinh Phật, đại ý là cố chấp với những thứ bên ngoài mà xa rời bản chất)
Nói đến đây, ông lại suy nghĩ gì đó rồi hỏi dò:
- Nhạc Chi Dương, ngươi có muốn học võ công không?
Nhạc Chi Dương ngạc nhiên đáp:
- Ông không thể dạy tôi thì tôi học thế nào?
Tịch Ứng Chân nói:
- Võ công trong thiên hạ nhiều vô số kể, đâu chỉ có mỗi Thái Hạo Cốc chúng ta, tổ sư Bách Ách dặn là không được học võ công của bản phái, còn võ công môn phái khác chẳng lẽ ta không dạy cho ngươi được chắc?!"
Nhạc Chi Dương như mở cờ trong bụng, luôn miệng đáp "Phải". Tịch Ứng Chân võ học uyên bác, công phu của mỗi môn mỗi phái đều biết qua sơ lược, trước tiên dạy từ mã bộ trạm thung(*), sau khi căn cơ đã vững rồi lại chọn ra một số bài quyền thuật, dần dần từng bước truyền dạy cho Nhạc Chi Dương. Từ đó về sau, Nhạc Chi Dương cứ mỗi canh ba đều đến Tinh Ẩn Cốc tập võ. Gã mang trong mình "Linh khúc chân khí", lại luyện qua "Linh vũ", hai thứ này đều là võ công thượng thừa từ cổ chí kim, lấy chúng làm nền tảng, cho dù học bất cứ môn võ công nào cũng giống như "Cao ốc kiến linh, thủy đáo cừ thành"(**). Tịch Ứng Chân chỉ cần giảng giải qua mấy lần, gã liền có thể học được y chang.
(*ND chú: Mã bộ trạm thung là một trong tam đại khí công, là công pháp trở thành căn bản của "nội kình nhất chỉ thiền" của Thiếu Lâm khí công, có tác dụng lưu thông "khí" toàn thân, cường hóa phần dưới cơ thể, nhất là chân. Phương pháp này làm khí huyết lưu thông toàn thân tốt hơn, cường hóa hạ bàn, được cho là có tác dụng duy trì sức khỏe và là phần căn bản của khí công)
(**ND chú: "Cao ốc kiến linh" nghĩa là nhà cao làm ngói máng, ý nói chỗ cao dễ xuống chỗ thấp, còn “Thủy đáo cừ thành” là câu thành ngữ Trung Quốc ý nói rằng thành công sẽ tự nhiên đến khi có đầy đủ các điều kiện cần thiết mà không cần phải nhất mực truy cầu)
Tịch Ứng Chân thấy gã tiến bộ thần tốc, miệng tuy không nói nhưng trong lòng lại sửng sốt vô cùng, chỉ cảm thấy trên đời này dẫu có là thiên tài thì tốc độ tinh tiến cũng không thể nhanh như vậy được. Trong lúc truyền thụ quyền thuật, có đôi chỗ Nhạc Chi Dương chưa thể thông thạo ngay nhưng đến khi xuất chiêu thì gã luôn luôn có thể tùy ý thay đổi, nhẹ nhàng bổ khuyết đi chỗ còn thiếu sót, quyền cước trở nên tròn trịa tự nhiên, so với chiêu thức gốc còn có vẻ cao minh hơn một bậc.
Lão đạo sĩ tri thức hơn người, thầm biết Nhạc Chi Dương còn có một mối kỳ ngộ nào khác, nhưng tính ông vốn chẳng tò mò, cũng không tiện truy tận nguồn cơn. Nhạc Chi Dương không nói, ông cũng lười hỏi nhiều.
Chỉ lực của "Nghịch Dương Chỉ" cứ mỗi bày ngày phát tác một lần, thời gian rơi vào khoảng trước sau giờ Tý. Vào đêm hôm ấy, Vân Hư nhất định sẽ đến nơi này, Tịch Ứng Chân sợ y và Nhạc Chi Dương chạm mặt, cho nên mỗi khi đến ngày phát tác thì không cho phép Nhạc Chi Dương tiến vào đáy hang nữa. Nhạc Chi Dương trong bụng cảm thấy khó chịu, thầm hận bản thân võ công thấp kém, không thể giúp đỡ người bạn già này thoát khỏi nguy khốn, nghĩ như vậy gã lại càng dốc lòng học võ nhiều hơn.
Khổ luyện vài tháng, quyền cước của Nhạc Chi Dương dần dần thuần thục, "Linh khúc chân khí" dồn nén trong cơ thể cũng bị dẫn phát ra, lúc giơ tay nhấc chân hệt như cuốn theo gió mạnh. Tịch Ứng Chân càng cảm thấy kinh ngạc, nhìn quyền phong của gã mãnh liệt như vậy chí ít cũng mất ba bốn năm khổ luyện, bản thân ông truyền cho gã đa phần là công phu ngoại gia, không hề tu luyện nội lực, nhưng quan sát Nhạc Chi Dương lúc này, trong thì ẩn chứa tinh hoa, ngoài thì sức mạnh bùng phát, rõ ràng đã mang dáng vóc của cao thủ nội gia.
Đêm ấy, Nhạc Chi Dương tiến vào đáy cốc, mở cánh cửa đá ra, vừa cười vừa réo:
- Tịch đạo trưởng, ông xem đây là gì?
Tịch Ứng Chân đón lấy bao vải trong tay gã, mở ra xem thử, hóa ra là một bộ cờ vây, quân đen là những viên đá sẫm màu được tuyển lựa tỉ mỉ, quân trắng là những vỏ sò được mài nhẵn, viên nào viên nấy đều tròn đầy bóng loáng, đủ thấy đã hao phí rất nhiều tâm sức.
Tịch Ứng Chân lòng thầm cảm động, thật lâu không thốt nên lời. Nhạc Chi Dương bất giác hỏi:
- Tịch đạo trưởng, bộ có gì không đúng à?
Lão đạo sĩ giật mình tỉnh ra, vuốt râu cười khà khà:
- Chẳng có gì không đúng cả.
Ông bị nhốt trên đảo, cứ tưởng cả đời này vô vọng, nào ngờ trời còn sai một người bạn nhỏ đến đây giúp cho tâm hồn già cỗi của ông tươi mới trở lại. Ông lập tức cười bảo:
- Bộ cờ này làm khéo vô cùng, nhóc con, ngươi biết đành cờ chứ?
- Đủ để tiếp lão gia mấy ván.
Nhạc Chi Dương mở túi, lấy than đen vẽ trên nền đất một bàn cờ, lại lôi ra một bầu rượu nóng hệt như dùng ảo thuật. Tịch Ứng Chân mừng rỡ ngoài dự kiến, cảm giác chẳng còn mong cầu gì hơn, vì thế hai người ngồi đối diện nhau, bắt đầu chơi cờ dưới ánh đèn dầu.
Tịch Ứng Chân với trình độ chơi cờ tuyệt diệu đủ để đứng đầu cả nước, nếu thật sự so về tài nghệ chơi cờ thì Nhạc Chi Dương chạm còn không đến một góc nhỏ của ông, thế nhưng Nhạc Chi Dương đầu óc linh hoạt, lúc nào cũng nảy ra những suy nghĩ quái đản, năm lần bảy lượt thế cờ tưởng đâu chết chắc bỗng đâu lại được cải tử hoàn sinh.
Tịch Ứng Chân liên tục thắc mắc:
- Nhóc con, năng khiếu chơi cờ của ngươi rất cao, nếu không vào được môn phái của ta quả thật đáng tiếc. Nền tảng "Dịch Tinh Kiếm" của bản phái được đúc kết từ dịch lý đời trước, về sau tổ sư Liễu Tình lấy thêm cảm hứng từ Tây Côn Luân-Lương Tiêu, mang tinh tượng vũ trụ gộp vào trong kiếm pháp. Sư phụ Thiên Dịch chân nhân cùng ta rất thích chơi cờ, lại đem kỳ đạo dung hợp vào trong kiếm đạo. Nghĩa của "Dịch Tinh" chính là lấy trời xanh làm bàn cờ, lấy thiên hà làm quân cờ, lấy ngôi sao làm công thức, di tinh hoán đẩu, tung hoành Sâm-Thương(*). Bởi kỳ đạo và tinh tượng có liên quan với nhau, nên khi thiên văn càng rõ thì sức cờ cũng càng cao, đường kiếm pháp này cũng trở nên siêu việt hơn.
(ND chú: di tinh hoán đẩu là thay đổi vị trí của các vì sao, còn sao Sâm-Thương là 2 ngôi sao cách nhau rất xa và không bao giờ xuất hiện cùng lúc trên bầu trời, dân gian quen gọi là sao Mai-sao Hôm)
- Bình sinh ta có thu nhận bốn người đệ tử, đại đệ tử Đạo Diễn, kỳ đạo và thuật số đều tinh thông, đã học được chân truyền của ta. Nhị đệ tử Chu Lệ, sức cờ cao cường nhưng lại khá kém về thiên văn thuật số, may nhờ vóc dáng to cao, kiếm khí mịt trời, tuy tài kiếm thuật không bằng Đạo Diễn nhưng nhìn chung cũng hết sức khả quan. Tam đệ tử Chu Quyền, trời sinh sẵn tính thông minh, bất kể là học cái gì, hễ học là học đến nhuần nhuyễn, trong bốn người thì thiên phú của hắn cao nhất, chả bù với tiểu đồ đệ Chu Vi kia, bản tính con nhóc ấy chỉ yêu thích âm nhạc, không muốn đánh đánh giết giết, học võ nhưng không hề chuyên chú cho nên cảnh giới chỉ làng nhàng mức trung bình.
Nghe đến hai từ "Chu Vi", Nhạc Chi Dương lại thấy nhoi nhói trong tim, bất giác đưa tay dốc thêm vài chung rượu, rượu cạn rồi chợt thấy chếnh choáng men say, gã ngước mắt nhìn lên trời cao, nơi ấy vầng trăng đang rót ánh sáng trong trẻo xuống mặt đất, soi chiếu đáy cốc sáng lên vằng vặc. Nhất thời men rượu bốc lên đầu, gã chồm dậy, múa một bài quyền dưới bóng trăng.
Đầu tiên, gã thi triển một bài "Thái tổ trường quyền" rồi lại chuyển sang "Du thân bát quái chưởng", cả chân lẫn tay đều thấp thoáng chiêu thức của "Cửu cung bộ". Gã càng đánh càng nhanh, miệng khẽ hú dài, trong lòng nổi lên "Chu Thiên Linh Phi Khúc", bất chợt tâm tư lâng lâng, "Linh Vũ" rót vào quyền cước hệt như liễu nương theo gió, mây trôi chớp lóe, đánh đến mức quên mất cả bản thân đang ở đâu. Bỗng nhiên khi quay đầu lại, gã nhát thấy bên cạnh mình thò ra một bóng đen, chân trái hạ thấp, tay phải co vào như thể đang muốn chạy xộc đến, ẩn tàng nguy hiểm.
Nhạc Chi Dương không thèm nghĩ ngợi nhiều, chân trái đá về phía đối thủ, chỉ nghe "cốp" một tiếng, bóng đen lập tức ngã phịch ra đằng sau còn xương ngón chân Nhạc Chi Dương lại truyền đến một cơn đau nhói.
- Thằng nhóc ấm đầu hả? - Tịch Ứng Chân vỗ tay cười phá lên: - Đương không ngươi kích vào hòn đá làm gì vậy?
Nhạc Chi Dương tỉnh rượu đã quá nửa, giương mắt nhìn kỹ lại, hai má chợt nóng bừng lên, thì ra bản thân đã hất phải một pho tượng đá, gã mà không dựng pho tượng ấy lên, ngày mai đệ tử mang cơm đến phát hiện ra thì thế nào cũng lòi đuôi chuột. Nghĩ vậy, gã tiến lên phía trước đỡ pho tượng ấy dậy, vô tình thế nào lại sờ trúng bệ đá bên dưới tượng. Ngón tay vừa chạm vào liền cảm thấy lồi lồi lõm lõm, dường như bề mặt có khắc rất nhiều con chữ. Gã vội gọi Tịch Ứng Chân, lão đạo sĩ thắp sáng đèn dầu, đến gần xem xét, phía dưới bệ tượng có chạm trổ nhiều hình nhân nhỏ xíu, dáng hình đương tung bay nhảy nhót hết sức mạnh mẽ và nhanh nhẹn, xung quanh còn có những văn tự chú dẫn.
Tịch Ứng Chân săm soi cẩn thận, lặng lẽ không nói gì. Nhạc Chi Dương không nén nổi tò mò, hỏi:
- Đạo trưởng, đây là gì vậy?
- Đây là quyền phổ "Vong Ưu Quyền" - Tịch Ứng Chân trầm ngâm đọc: - Quyền pháp do đảo chủ đời thứ năm Thích Mại Luân sáng tạo.
Nhạc Chi Dương cẩn thận đọc hàng chữ khắc, quả đúng như Tịch Ứng Chân nói, gã kinh ngạc hô:
- Quyền phổ sao lại được khắc ở đây? Không sợ có người học lén hay sao?
Tịch Ứng Chân đứng dậy bật cười:
- Tinh Ẩn Cốc vốn là nơi các đời đảo chủ tịnh tâm tu luyện, đệ tử bình thường khó mà vào trong được, mấy pho tượng đá này do đảo chủ những đời trước tạo ra, được chúng đệ tử trên đảo xem là thần vật, chả ai dám tùy tiện động vào chứ đừng nói đến chuyện lật đổ chúng để săm soi phần đáy bệ.
Tượng đá có tổng cộng tám pho, hai người lần lượt xem qua, bên dưới của tượng đa số là chạm khắc quyền phổ, duy chỉ có một pho tượng là ngồi yên xếp bằng, chẳng biểu lộ tư thế cũng không ghi tạc kinh thư, thay vào đó là những đường vạch chi chít trên thân. Nhạc Chi Dương lấy làm lạ bèn quay sang hỏi:
- Tịch đạo trưởng, đây là võ công gì thế?
Tịch Ứng Chân nhìn ngắm một lúc, lắc đầu bảo:
- Đây không phải võ công.
- Không phải võ công?
Nhạc Chi Dương hết sức ngạc nhiên, ngắm nghía kỹ lại lần nữa, hầu hết pho tượng khác đều có ghi danh diệu của đảo chủ, chỉ trừ pho tượng này là trơn nhẵn không có dòng chữ nào. Nhạc Chi Dương nhìn ngắm pho tượng vô danh, trong lòng đương cảm thấy khó hiểu, chợt nghe Tịch Ứng Chân lại nói:
- Đây là một tấm bản đồ hàng hải.
Nhạc Chi Dương mỉm cười:
- Đạo trưởng có học về hàng hải ư?
Tịch Ứng Chân đáp:
- Trước khi ta đến Đông Đảo có học qua thuật hàng hải một thời gian, bức hải đồ này chỉ rõ vị trí một hòn đảo nhỏ nằm ở phía Tây Bắc, cách đảo Linh Ngao khoảng hơn bốn trăm dặm.
- Trên đảo ấy có gì vậy? - Nhạc Chi Dương tò mỏ hỏi.
Tịch Ứng Chân nhíu mày, chăm chú nhìn bản đồ một lúc rồi chậm rãi nói:
- Hình như là chỗ của một ngôi mộ.
- Mộ à? - Nhạc Chi Dương chưng hửng: - Mộ của ai vậy?
- Trên đây không có ghi. - Tịch Ứng Chân lắc đầu bảo: - Đây là cấm địa của nhà họ Thích, chủ nhân của mộ phần chắc có lẽ là một vị tiền bối của nhà họ.
- Khắc bản đồ ở đây bộ không sợ có người đi trộm mộ ư?
Tịch Ứng Chân cười:
- Bản đồ này vốn truyền lại cho dòng dõi họ Thích, ta với ngươi có cơ may xem được chẳng qua chỉ là trùng hợp mà thôi, nếu là con cháu họ Thích thì ai lại đi đào mồ mả tổ tiên mình lên chứ?
Nhạc Chi Dương nhìn tấm bản đồ, ngẫm nghĩ điều gì đó mà đoán mãi không ra, đành lắc đầu nêu thắc mắc:
- Tại sao các đời đảo chủ ở nơi đây đều mang họ Thích, trong khi hiện giờ đảo vương thì lại họ Vân?
Tịch Ứng Chân đáp:
- Đông Đảo có tên gốc là đảo Linh Ngao, vốn được tổ tiên nhà họ Thích là Thích Ấn Thần sáng lập nên. Chỉ là trong vòng trăm năm trở lại đây xảy ra một vài biến cố, thế nên ngôi vị đảo chủ mới truyền lại cho nhà họ Vân. Theo tình hình không có vị đảo chủ họ Vân nào lập tượng ở nơi đây, nên ta đoán ngoại trừ Thích gia ra, trên đảo không ai biết đến bí mật của những bộ quyền kinh này cả.
Nói đến đây, ông vươn người đứng lên, mang đèn dầu tiến sang một góc, lặng im trong chốc lát rồi chợt bật cười khà khà. Nhạc Chi Dương nghe lấy làm lạ:
- Tịch đạo trưởng, ông cười gì đó?
Tịch Ứng Chân cười bảo:
- Ta đang rầu nhà ngươi tiến bộ nhanh quá, luyện mấy thứ võ công hạng ba hạng tư thì có phần uổng phí tài nghệ. Công phu trên mấy pho tượng này đúng là trời cao ban tặng, nếu ngươi luyện thành toàn bộ thì sẽ được liệt ngay vào hàng cao thủ đấy.
Nhạc Chi Dương phấn khởi vội hỏi:
- Đạo trưởng sẽ dạy ta chứ?
- Dạy thì không dám. - Tịch Ứng Chân cười cười: - Nhưng giải thích một chút cũng được thôi.
Ông chỉ vào một pho tượng bảo:
- Bộ "Côn Bằng Chưởng" này được đảo vương đời thứ tư sáng tạo ra, trong chưởng pháp có pha trộn thân pháp, thi triển thì như đại bàng xuyên mây, thu lại tựa cá kình vượt sóng, quạ đen hóa ngư, biến hóa thần kỳ.
Ông miệng nói tay chỉ, dốc lòng truyền dạy, Nhạc Chi Dương học được vài chiêu, chỉ cảm thấy vô cùng phức tạp, những thay đổi biến hóa bên trong bộ chưởng pháp này vượt xa những môn quyền cước trước đây gã từng học. May mà gã có căn bản của "Linh Vũ", mỗi khi rẽ sang chiều hướng thiếu hiệu quả, khúc nhạc trong lòng lại trỗi dậy, chân khí tự nhiên rót đầy khắp tứ chi, thường xuyên chuyển nguy thành an, vượt qua cửa ải trắc trở trong tu hành một cách dễ dàng.
Tịch Ứng Chân quan sát thấy gã như vậy, trong lòng thầm cảm thấy thắc mắc. Hai người cứ như vậy tiêu tốn hết khoảng một canh giờ, miễn cưỡng cũng luyện thành xong ba chiêu, Nhạc Chi Dương tuy là mới học nhưng cũng nhìn ra sự lợi hại của bộ chưởng pháp này. Đột nhiên nhớ đến Giang Tiểu Lưu, gã bảo:
- Tịch đạo trưởng, ta có một người bạn rất thân, tối mai ta dẫn hắn đến cùng học có được không?
- Bạn thân? - Tịch Ứng Chân suy nghĩ một chút, đoạn hỏi: - Ngươi nói đến thằng nhóc hôm trước đến đây?
Nhạc Chi Dương gật đầu lia lịa, Tịch Ứng Chân lắc đầu bảo:
- Hắn không nhận ra bài thơ ẩn chữ đầu của ta chứng tỏ không có duyên với ta. Ta là người thuộc Huyền môn, vạn pháp tùy duyên, ngươi chớ nên miễn cưỡng nữa.
Nhạc Chi Dương ngó thần sắc của ông, biết là ông không thích Giang Tiểu Lưu, bụng thầm than đáng tiếc, nhưng nhớ lại lần trước đến đây, Giang Tiểu Lưu có nhận ra chiêu thức của "Vô Định Thối" và "Côn Bằng Chưởng", dường như hắn đã học qua rồi, có dẫn đến cũng bằng thừa. Tịch Ứng Chân lại căn dặn:
- Chuyện chúng ta gặp gỡ chỉ có ta và ngươi biết, không được để người thứ ba biết, cho dù có là người bạn thân đó cũng không ngoại lệ. Một khi tiết lộ sự tình, ta thì không hề hấn gì, nhưng đối với ngươi chính là một bất lợi lớn.
Nhạc Chi Dương nghe xong gật gật đầu, lại thấy canh năm sắp gần kề, gã vội đỡ tượng người lên, cáo từ lão đạo sĩ rồi trở về Yêu Nguyệt Phong.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, hai năm lặng lẽ trôi qua, mới hôm nào đến Đông Đảo, Nhạc Chi Dương chỉ là thằng nhóc mười bốn mười lăm tuổi, ban ngày trồng trọt, tối về tập luyện, chớp mắt chỉ trong hai năm ngắn ngủi ấy, gã thiếu niên yếu đuối thuở nào đã trở thành một chàng trai cao lớn đầy năng động. Nhờ chăm chỉ lao động hàng ngày, không ngại dầm mưa dãi nắng mà màu da của gã rắn rỏi như đồng, mỗi khi hé cười lại lộ ra hàm răng trắng đều, trông hết sức khỏe mạnh và sáng sủa.
Giang Tiểu Lưu bận rộn tập võ, rất hiếm khi đến tìm gã thăm hỏi. Về phần Diệp Linh Tô, sau lần chia tay ở hang yến ấy, hai người gặp lại nhau không quá ba bận, mỗi bận như vậy thiếu nữ đều tỏ ra không quen không biết, lời lẽ hết sức lạnh lùng, Nhạc Chi Dương thấy tình hình như vậy, trong lòng khó chịu vô cùng.
Gã ru rú quanh năm suốt tháng trên đảo, không tránh khỏi cô đơn nhàm chán, may mà khi đêm về còn có người bạn vong niên là Tịch Ứng Chân để trò chuyện. Hai người tập võ chơi cờ, bàn huyền luận đạo thâu đêm suốt sáng, vui vẻ đến mức quên cả mỏi mệt. Bảy đại tuyệt kỹ của đảo Linh Ngao đều là võ công nội gia, nếu như không hiểu rõ biến hóa của các huyệt vị kinh mạch, thiếu đi bệ phóng này cũng khó mà phát huy được uy lực, thế nên Tịch Ứng Chân ngoài truyền trụ lý thuyết quyền pháp ra còn giảng giải rất nhiều về kinh mạch nội gia. Nhạc Chi Dương trước đây từng tu luyện "Linh khúc chân khí", chỉ biết làm theo như vậy chứ nào biết nguyên nhân lý do. Tịch Ứng Chân vẽ ra hình người, chỉ điểm vị trí các huyệt đạo kinh mạch, Nhạc Chi Dương lúc này mới vỡ lẽ, mỗi một khúc nhạc trong "Chu thiên linh phi khúc" đều ngầm chứa đựng một đoạn kinh mạch trong cơ thể, âm nhạc khởi-thừa-chuyển-hợp, có liên quan đến sự lưu động khí huyết giữa các huyệt đạo. Gã y theo lý thuyết mà Tịch Ứng Chân vừa nói đối chiếu vào nội công tâm pháp của Diệu Nhạc Linh Phi Kinh, từ đó rất nhiều chỗ mù mờ khó hiểu cũng dần được khai sáng.
Hôm ấy khi gã luyện quyền cước xong thì trời cũng vừa hửng sáng, Nhạc Chi Dương rời khỏi Tinh Ẩn Cốc trở về nhà sớm, vừa hay đến lúc giờ Dần giao với giờ Mão, từ xa chợt truyền đến một tiếng động quái lạ, thoắt cao thoắt thấp, rền rỉ vang vọng.
Âm thanh này Nhạc Chi Dương chẳng lấy gì làm lạ nữa, chính là đến từ Phong Huyệt ở trước đảo. Lúc này bốn bề im ắng, trừ âm thanh ở Phong Huyệt thì không có bất cứ tiếng động nào phát ra. Nhạc Chi Dương bất chợt dỏng tay lắng nghe, chỉ cảm thấy tiếng gió ấy chưa hẳn là vang dội mà đang thay đổi hết sức phong phú, lúc như vượn hú nơi Tam Hiệp, lúc lại giống tiếng cười rộ của vạn người, nghe đến chỗ tuyệt diệu thì hệt như một bản giao hưởng du dương trầm bổng, mỗi một thời khắc vang lên đều hết sức khác biệt với lần vang trước đó.
Một khi thả hồn vào âm nhạc thì Nhạc Chi Dương lập tức say sưa đắm chìm, mãi đến khi có tiếng người vọng đến gã mới giật mình tỉnh mộng, vội vã trở về nơi ở.
Từ đó về sau, mỗi lần đến buổi giao của hai giờ Dần - Mão, gã liền nói lời cáo từ với Tịch Ứng Chân, sau đó đi tới Phong Huyệt nghe gió nổi, có lần sau khi nghe xong, gã mang tiếng gió soạn thành khúc nhạc, dùng tiếng sáo thổi tấu ra, tiếc là âm sáo mỏng manh yếu đuối không bì được với tiếng gió dậy trùm trời. Một ngày nọ, gã ngồi bên bờ biển, đang say sưa lắng nghe, bỗng nhiên huyệt Đan Điền giần giật, chân khí chạy xua tán loạn, có kềm chế thế nào cũng không giữ nổi. Nhạc Chi Dương chẳng còn cách nào khác, đành phải ngồi yên mặc cho dòng khí tức tuôn chảy, luồng khí trong cơ thể ấy cứ xung đột nhau ầm ĩ hơn nửa giờ, mãi cho đến khi tiếng gió vơi đi mới chịu ngừng lại.
Tình huống chưa bao giờ gặp này khiến cho Nhạc Chi Dương không khỏi nghi hoặc. Gã trở về nơi ở, giở xem "Diệu Nhạc Linh Phi Kinh" một lượt, trước tiên đọc qua "Linh Khúc" và "Linh Vũ" hai lần, chẳng thấy đề cập gì đến trường hợp của bản thân, lại xem đến chương ba "Linh Cảm", bỗng thấy trong sách có chép: "Trang Tử dạy: phàm trên đời có ba dạng âm thanh, người thổi sáo chính là tiếng người (nhân lại), gió thổi đất hùa gọi là tiếng đất (địa lại), trời thổi vạn vật kêu là tiếng trời (thiên lại). Tiếng người khác tiếng đất, tiếng đất khác tiếng trời, tiếng của người có lý thuyết để làm theo, tiếng đất đôi khi còn bắt chước được, nhưng tiếng trời thì không rõ từ đâu đến, chả biết đi về phương nào, khí làm dây, gió làm ống thổi, nước hóa tiếng khánh, sấm thành trống bồi, khiến cho vạn vật rung chuyển..."
Nhạc Chi Dương đột nhiên nhớ ra, trước đây mỗi khi rỗi rảnh, Tịch Ứng Chân thường giảng dạy cho gã về Trang Tử. Âm thanh của ba loại trời, đất và con người vốn có xuất xứ từ bộ kinh sách nhà Đạo. Tiếng người ám chỉ âm nhạc của nhân loại, ví như "Chu Thiên Linh Phi Khúc"; tiếng đất ám chỉ âm thanh gió mạnh gào thét trong những huyệt đất, ví dụ tiếng gió phát ra từ Phong Huyệt. Còn tiếng trời có thể xem như mọi âm thanh mà vạn vật trên thế gian phát ra, tỷ như cát nổi sấm rền, gió gào biển động, sấm rung chớp giật, tiếng chuông ngân Đồng Sơn, tất cả âm thanh vang vọng to lớn chỉ cần mang theo tiết tấu nhịp điệu đều có thể quy là tiếng trời.
Đại ý trong chương "Linh Cảm" viết rằng: "Linh khúc chân khí" sản sinh từ âm nhạc, hết sức nhạy cảm với âm thanh, luyện đến một cảnh giới nhất định người tu luyện sẽ vượt ra khỏi phạm vi của "Chu Thiên Linh Phi Khúc", dựa vào chân khí trong cơ thể mà đáp lại mọi thứ tiếng trong đất trời, từ đó đạt được thiên đạo một cách siêu phàm thoát tục.
Nhạc Chi Dương luyện "Chu Thiên Linh Phi Khúc" đã lâu, chân khí tụ tập trong cơ thể càng ngày càng dày đặc, thấp thoáng đã đạt đến cảnh giới "Nhân lại", chẳng những có thể nương theo sự thay đổi của tiếng sáo mà đối với các loại tiếng động lớn cũng sinh ra cảm ứng vi diệu. Tiếng động từ Phong Huyệt được xem là "Địa lại", nghe kỹ một chút cũng hệt như "Chu Thiên Linh Phi Khúc". có thể tác động đến chân khí trong người Nhạc Chi Dương.
Nhạc Chi Dương xem kinh thư xong đã ngộ ra rất nhiều thứ, sang hôm sau lại đến nghe gió thổi, ban đầu gã còn chưa thấy gì, nghe được một lúc, chân khí trong người chợt chạy tứ lung tung, gã vội vã tập trung tinh thần, gắng kềm chế chân khí, nào ngờ càng cố ý điều khiển thì chân khí càng hỗn loạn, xung đột chảy ngược lại, quậy phá đến mức khí huyết nhộn nhạo cả lên.
Gã nhớ đến một câu trong chương "Linh Cảm" có ghi rõ là phải để cho cơ thể nương theo âm thanh từ bên ngoài mà không nên kháng cự lại. Nhớ đến đây, gã thả lỏng thần trí, mặc cho tiếng gió dẫn dắt chân khí. Chân khí lưu chuyển theo tiếng gió, lúc nhanh lúc chậm, lúc mạnh lúc yếu, chốc thì đấu đá lung tung, chốc lại ngoằn ngoèo khúc khuỷu, chả ăn nhập đến bất kỳ môn nội công tâm pháp nào, nhưng lại luồn lách chạm đến mọi ngõ ngách trong cơ thể.
Nhạc Chi Dương càng lúc càng say mê, đến nỗi chả thiết tha gì tập quyền luyện kiếm nữa. Mỗi tối gã đều đợi ở bên dưới Phong Huyệt, trông ngóng giờ Mão đến. Bên dưới Phong Huyệt là đá ngầm lỏm chỏm, hang hốc ngoằn ngoèo, Nhạc Chi Dương ẩn thân vào trong đó chẳng một ai có thể phát hiện ra.
Lại một tháng nữa trôi qua, tối đêm ấy, gã vừa nghe tiếng gió, vừa thả cho chân khí tự do di chuyển. Đột nhiên, cả người gã rung bắn, trong đầu nổ vang một tiếng, bước vào một cảnh giới tịch mịch đến khôn cùng, mắt không thể nhìn, tai không thể nghe, mọi thứ trở nên tối đen, tất cả âm thanh chìm vào thinh lặng.
Nhạc Chi Dương tựa như bị sa chân vào một đầm lầy hay rơi xuống đáy vực sâu, tình hình này kéo dài chừng hơn vài giây thì gã chợt tỉnh lại, một thứ cảm giác lạ thường dâng lên đến đỉnh đầu. Chân khí chầm chậm như dòng nước chạy thẳng đến từng chân tơ kẽ tóc, mỗi một sơi lông tóc đều theo đó rung động, hệt như ngàn vạn cái lỗ tai có thể nghe thấy âm thanh gió lùa cát mịn, bọt sóng vỗ bờ, thậm chí cả tiếng mấy con muỗi ở cách đó cả trượng cũng có thể nghe rõ rành rành.
Trái tim của Nhạc Chi Dương đập vang thình thịch, cảm giác này trong lòng gã hiểu rõ là gì nhưng lại không thể nói ra. Gã trở về Yêu Nguyệt Phong nhưng đầu óc vẫn còn lâng lâng chếnh choáng, chẳng biết đâu là ảo là thật. Đến đêm, gã giở xem "Diệu Nhạc Linh Phi Kinh", xem xong "Linh Cảm" lại đến "Linh Phi", chẳng hiểu vì sao trước đây mấy câu gã chỉ hiểu mập mờ bây giờ lại trở nên vô cùng dễ hiểu. Xem xong "Linh Cảm", "Linh Phi", gã lại quay sang đọc phần "Linh Khúc", "Linh Vũ", quả nhiên tất cả đều sáng tỏ dù chỉ liếc thoáng qua.
"Linh Cảm" cảm nhận vạn vật, "Linh Phi" chế ngự vạn vật, bởi vì từ cảm nhận đến chế ngự là cả một cửa ải gian nan, muốn phá giải thì phải trông chờ vào thiên phú của người tu luyện, nhanh thì có khi chỉ trong khoảnh khắc, chậm thì có khả năng vô vọng trọn đời. Nhạc Chi Dương may mắn gặp được cơ duyên, ngộ ra thần công từ trong tiếng gió, đạo pháp tự nhiên, thấp thoáng đã có được dáng dấp của Linh đạo nhân năm nào.
Gã tay nắm kinh thư, trong lòng lấy làm cảm khái: "Chỉ vì bộ Linh Phi Kinh này mà biết bao con người đã ngã xuống, lưu nó lại trên đời rõ là mầm tai họa. Giờ đây ta đã đọc xong, giữ bên người cũng chẳng ích chi nữa." Nghĩ rồi, gã bước ra khỏi cửa, đến dưới Yêu Nguyệt Phong, khoét vách núi chôn kinh thư vào bên trong, đoạn phủ một tảng đá to lên trên.
Làm xong mọi thứ, gã quay đầu nhìn lại, chỉ thấy bể trời như một, bóng trăng sậm màu, cõi trời đất hỗn độn khó phân, bóng và hình hư hư thật thật. Nhạc Chi Dương trông thấy cảnh tượng ấy, trong lòng bồi hồi xao xuyến, đột nhiên cất tiếng cười vang.
Tràng cười này xé toang màn đêm tịch mịch, xuyên thấu tận bầu trời bao la. Hai năm trước, gã còn là một tên tiểu lưu manh ven sông Tần Hoài, còn bây giờ thân mang tuyệt học của cả Linh đạo nhân và đảo Linh Ngao, chỉ cần thêm chút thời gian thì đã có thể đọ tài cùng cao thủ trong thiên hạ.
Đêm hôm sau, Nhạc Chi Dương lại ra Phong Huyệt hóng gió, vừa nghe tiếng gió thổi vừa đối chứng cùng "Linh Phi Kinh", bất giác lại ngộ ra thêm rất nhiều điều mới mẻ.
Đương mừng rỡ, chợt nghe có tiếng bước chân vọng đến, gã vội vàng nấp vào sau một tảng đá ngầm, nín thở quan sát, chỉ thấy một nam một nữ từ phía trên cao cùng sánh vai tiến về phía bờ biển. Người nam dáng vóc cao lớn, chính là Vân Thường; người nữ eo thon như tơ liễu, đích thị Diệp Linh Tô.
Hai người vừa ra đến bãi biển, Diệp Linh Tô bỗng hỏi:
- Đại sư huynh, huynh dẫn ta đến nơi này làm gì?
Vân Thường lặng im một lúc mới hồi đáp:
- Chỉ còn ba ngày nữa là đến kỳ "Ngao Đầu Luận Kiếm", sư muội đã có dự định gì chưa?
Diệp Linh Tô dõi mắt trông ra phía biển, ra chiều ngẩn ngơ một lúc rồi khẽ giọng:
- Ta muốn tham gia.
Vân Thường liếc cô, lắc đầu than:
- Sư muội, cần gì phải khổ vậy chứ?
Diệp Linh Tô vẫn đưa mắt đăm chiêu nhìn biển khơi, một lời cũng không nói, chỉ nghe Vân Thường lại tiếp tục:
- Kỳ "Ngao Đầu Luận Kiếm" lần này, ta mà không đứng đầu, phụ thân nhất định sẽ rất thất vọng. Nếu muội cũng tham gia, thế thì hai chúng ta khó tránh xảy ra một trận chiến, khi ấy ta phải xử trí làm sao?
Nói đến đây, giọng nói của Vân Thường trở nên dịu dàng lạ thường:
- Linh Tô, ta không muốn đấu với muội đâu.
Bị y gọi thẳng tên một cách thân thiết như vậy, Diệp Linh Tô sững sờ bất động một thoáng rồi chợt hậm hực nói:
- Huynh khỏi cần lo lắng, lỡ ta với huynh gặp nhau, huynh chỉ cần ra tay hết sức mình, dù thắng hay bại ta cũng không oán trách gì huynh đâu.
Vân Thường im lặng một lúc, cao giọng bảo:
- Linh Tô, muội chỉ là đàn bà phụ nữ, sau này nên thờ chồng dạy con mới đúng, cho dù có luyện võ công cao mấy đi chăng nữa cũng đâu để làm gì?
- Đàn bà phụ nữ? - Diệp Linh Tô hừ lạnh: - Ai bảo phụ nữ thì phải thờ chồng dạy con chứ?
- Việc này... - Vân Thường tỏ vẻ xấu hổ: - Xưa rày thánh hiền đều dạy, phận làm phụ nữ cần hội đủ tam tòng tứ đức, không nên tranh giành hiếu thắng. Linh Tô, muội cái gì cũng đều tốt cả, chỉ là... Ầy, chỉ là hơi hiếu thắng một chút.
Diệp Linh Tô trừng mắt nhìn y, ánh mắt lóe lên một nét cười lạnh:
- Đại sư huynh, huynh lo thân mình là được rồi, ta hiếu thắng hay không có liên quan gì tới huynh đâu!
Vân Thường đỏ bừng hai má, trợn mắt nhìn thiếu nữ, cao giọng:
- Linh Tô, chúng ta lớn lên bên nhau, muội còn không hiểu tấm lòng ta hay sao? Sau kỳ "Ngao Đầu Luận Kiếm" này, cho dù phụ thân có đồng ý hay không, ta đều phải cưới muội cho bằng được!
Diệp Linh Tô cả người rung lên, hai mắt nhìn chằm chằm về trước, sững sờ không thốt nổi thành lời. Nhạc Chi Dương trông theo bóng hình người thiếu nữ, bất chợt trái tim thêm đập dồn, nghĩ thầm Vân Thường đối với Diệp Linh Tô si tình như thế, chả trách hồi ở hang yến lại tập kích mình. Đang miên man suy nghĩ, gã chợt nghe Diệp Linh Tô cất lời:
- Nếu không phải sư phụ, mà là... Là ta không đồng ý thì sao?
Vân Thường chết trân, buột miệng hô:
- Vì sao chứ?
Diệp Linh Tô lặng im không lên tiếng, trên gương mặt tuấn tú của Vân Thường phủ lên một làn khí chết chóc, y chợt nghiến răng:
- Ta biết vì sao rồi.
- Vì sao? - Diệp Linh Tô quay lại nhìn y, vẻ mặt ngơ ngác.
Vân Thường hừ lạnh, nghiến răng nói tiếp:
- Vì cái tên Nhạc Chi Dương nọ!
Nhạc Chi Dương giật thót mình, thiếu chút nữa phát ra tiếng kêu. Diệp Linh Tô tức tối giẫm mạnh chân gắt:
- Huynh, huynh nói xằng bậy gì thế?
Vân Thường hỏi:
- Muội chả phải yêu hắn sao?
Diệp Linh Tô "phì" một tiếng, bảo:
- Ta thà yêu lợn yêu chó còn hơn đi yêu cái tên mồm mép ba hoa ấy.
Nhạc Chi Dương nghe đươc lời này, trong lòng mới trút được gánh nặng, thầm thở phào một hơi.
- Nhưng... - Vân Thường bán tín bán nghi: - Hai năm trước lúc hắn chịu phạt, chính mắt ta trông thấy muội trộm "Bổ Vân Tục Nguyệt Tán" cho hắn cơ mà...
Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy vành tai nóng ran, quả nhiên không ngoài dự đoán, thuốc trị thương ngày ấy là của Diệp Linh Tô mang đến cho gã. Diệp Linh Tô nhìn Vân Thường, mặt mũi cũng đỏ bừng, giọng hổn hển:
- Huynh... Huynh theo dõi ta ư?
Da mặt Vân Thường khẽ ửng lên, lẩm bẩm nói:
- Ta tình cờ trông thấy mà thôi.
Khuôn ngực Diệp Linh Tô phập phồng thở gấp, cô gắt gỏng:
- Thế thì đã sao chứ, chỉ là ta thấy hắn đáng thương...
- Vậy còn trong hang yến thì sao? - Vân Thường siết giọng: - Muội với hắn ở trong hang yến làm những gì....
Lời còn chưa nói xong, bàn tay Diệp Linh Tô đã giáng thẳng xuống gương mặt y. Sắc diện thiếu nữ tái nhợt, toàn thân lẩy bẩy, mạng che mặt rung lên từng chập, trong hốc mắt lấp loáng ánh lệ trong suốt.
Nhạc Chi Dương cũng cảm thấy bất bình, nhủ bụng nếu như Vân Thường ra tay đánh trả, gã sẽ bất chấp tất cả ra mặt tương trợ, nhưng chỉ thấy sắc mặt Vân Thường thoắt đỏ thoắt trắng, ngây dại một lúc rồi đột nhiên xoay người bỏ đi lên núi.
Nhạc Chi Dương thở phào một hơi, lại thấy Diệp Linh Tô xoay người nhìn ra biển như kẻ mất hồn, trong lòng gã cũng nhất thời cảm thấy xốn xang khó chịu, nghĩ thầm cô ta bị người khác dị nghị cũng đều là vì gã, gã cần nghĩ ra một biện pháp gì đó để an ủi giúp cô khá hơn.
Đang suy nghĩ, gã chợt nghe "Keng" một tiếng, trên tay Diệp Linh Tô đã xuất hiện một thanh kiếm dài sắc nhọn, lấp lánh ánh đen, khắp thân kiếm đầy những hoa văn kỳ lạ, chỉ hiềm phần mũi kiếm bị gãy đi một đoạn, tựa như ngọc bích phạm vết trầy xước, quả có phần đáng tiếc.
Thiếu nữ chằm chằm nhìn trường kiếm, nhẹ nhàng xoay người, bắt đầu múa kiếm trước ánh bình minh đang ló dạng. Thắt lưng của cô mảnh mai như nhành liễu, lưỡi kiếm tựa làn nước thu, vung lên như thể đón gió bẻ cành, buông xuống y hệt sao băng quệt đất, mạnh mẽ bồng bềnh, bóng hình hợp phân. Trường kiếm càng múa càng nhanh, được ánh ban mai soi rọi lên, trông như một đóm lửa nhỏ đang nhảy nhót trên lưỡi kiếm.
Nhãn quan của Nhạc Chi Dương hiện nay cũng không còn ở hạng gà mờ nữa, trông thấy kiếm chiêu của Diệp Linh Tô, gã bất giác nhớ đến “Phi Ảnh Thần Kiếm Phổ” trong “Kiếm Đảm Lục”. Hai năm trôi qua, chiêu thức bên trong kiếm phổ ấy gã đã quên béng đi hơn một nửa, lúc này xem Diệp Linh Tô múa kiếm, họa ảnh của những hình nhân cầm kiếm trong sách lại một lần nữa tái hiện, chỉ là Diệp Linh Tô xuất kiếm quá nhanh, chiêu đầu tiên còn chưa xem rõ thì chiêu thứ hai đã múa xong. Đặc biệt hơn nữa, tuy cô xuất kiếm rất nhanh nhưng từng chiêu kiếm lại không hề rối loạn, hơn mười chiêu được thi triển đồng loạt, thoạt nhìn cứ ngỡ chỉ là một chiêu.
Gã cứ thế ngắm nhìn mãi, nhuyễn kiếm càng múa càng nhanh, kiếm quang hòa lẫn vào trong bóng hình xinh đẹp ấy, chẳng thể nhận ra đâu là người đâu là ảnh. Gió từ thanh kiếm phát ra vù vù, mang theo cả những hạt cát biển trắng mịn, thoạt trông cứ như một luồng gió xoáy màu trắng chấp chới nhảy múa quanh người thiếu nữ.
Bất chợt, Diệp Linh Tô phát ra một tiếng kêu khẽ, kiếm quang chớp sáng bốc lên cao, "Choang" một tiếng đâm trúng vào một khối đá ngầm đen kịt. Nhạc Chi Dương căng mắt ra nhìn, suýt nữa thì buộc miệng la toáng lên. Nhuyễn kiếm xuyên vào đá hơn phân nửa, gan bàn tay bên phải của thiếu nữ cũng đứt toạc, máu tươi xuôi theo cổ tay trắng ngần nhỏ xuống lòng ròng.
Diệp Linh Tô ngơ ngẩn nhìn vết máu, như thể bị một kiếm này đâm trúng, nỗi bực bội trong lòng cũng bị quét sạch tan. Cô lắc lắc đầu, từ từ tra kiếm vào vỏ rồi men theo con đường cũ tha thướt bỏ đi.
Trở về Yêu Nguyệt Phong, trong đầu Nhạc Chi Dương toàn bị lấp đầy bởi hình bóng múa kiếm ban nãy của Diệp Linh Tô, từng chiêu thức một như bày ra trước mắt. Gã chống cuốc, đứng suy nghĩ đến mức nhập tâm, mãi đến khi có người khác quát gọi gã mới giật mình tỉnh lại.
Gã giương mắt nhìn ra, chỉ thấy xa xa có hai người đang đi đến, chính là Dương Cảnh và Hòa Kiều. Hai phía thù địch gặp nhau, ai nấy đều tỏ vẻ sừng sộ. Nhạc Chi Dương huơ cuốc chắn ngang, cao giọng:
- Hai người đến đây làm chi?
Dương Cảnh trợn mắt ngó Nhạc Chi Dương, hai nắm tay bất chợt siết lại. Hòa Kiều vội nói:
- Dương sư huynh, đừng quên chuyện chính!
Dương Cảnh hừ lạnh một tiếng, quát:
- Nhạc tiểu cẩu, lão sâu rượu Đồng Diệu đâu rồi? Đừng nói là uống nhiều nước đái mèo quá nên giờ nằm phơi thây trên giường rồi nhé?
Nhạc Chi Dương còn chưa kịp trả lời, bóng người ở trong nhà đã lóe lên, Đồng Diệu xông ra ngoài, người chưa đến thì mùi rượu đã bốc ra nồng nặc, báo hại ai nấy đều phải bịt chặt mũi. Đồng Diệu lim dim đôi mắt, nhìn Dương Cảnh quát:
- Tiểu tử thối, ngươi mắng ai đó?
Dương Cảnh lùi về sau một bước, mỉm cười:
- Sư bá chưa say à? Lần này con đến đây phụng lệnh sư phụ, chuyển cho người lời riêng: lão nhân gia người dù sao cũng thuộc dòng Kình Tức, kỳ "Ngao Đầu Luận Kiếm" ba ngày sau cũng có phần tham dự. Đến lúc đó, mong người uống ít một chút, đừng để cho dòng phái chúng ta bị mất thể diện.
Đồng Diệu nghe còn chưa hết câu, rượu đã tỉnh toàn bộ, hai mắt chực tóe lửa. Dương Cảnh làm ra vẻ không thấy, lại mỉm cười nói tiếp:
- Sư phụ còn dặn, mấy cái tên nô tài chăm ruộng này không được đến đó, một lũ hạ tiện thấp hèn, sống cày bừa, chết bón đất, để bọn chúng đến xem võ công của bổn phái, đơn giản mà nói chính là một nỗi nhục nhã hổ thẹn.
Lúc nói chuyện, ánh mắt hắn trước sau không hề rời khỏi Nhạc Chi Dương, vẻ đắc ý lộ liễu trên khuôn mặt thật khó mà lột tả.
- Nhục nhã hổ thẹn à?
Đồng Diệu giậm chân một cái, thân hình tròn quay vụt lướt đi, tay trái chụp về phía cổ Dương Cảnh. Dương Cảnh đã sớm có đề phòng, lập tức tung người về phía sau, tránh khỏi năm ngón tay của Đồng Diệu, tay trái đồng thời đẩy về phía trước, tay phải để dành đằng sau. Đồng Diệu nhìn ra đây chính là tư thế của "Kình Tức Công", liền hừ một tiếng, năm ngón tay vẫn tiếp tục vươn về phía trước. "Thao Thiên Khí" nơi tay trái của Dương Cảnh hệt như dòng nước lũ tràn bờ, vừa gặp ngoại lực lập tức bùng phát, nào ngờ trước mắt Dương Cảnh hoa lên, Đồng Diệu bỗng dưng biến mất, chưởng lực rơi vào khoảng không. Hắn vội vã thu hồi, nhưng một chiêu này đã dốc toàn lực thật khó mà thu về, lại không kịp xoay trở, sau lưng hắn chợt đau nhói lên, hóa ra đã bị Đồng Diệu tóm chặt.
- Bay này! - Hai mắt Đồng Diệu trợn tròn, nhấc bổng Dương Cảnh lên rồi ném mạnh ra xa. Dương Cảnh bay đi, đầu va xuống đất, máu mũi chảy ròng ròng, hai mắt sao bay loạn xạ, gần như ngất lịm đi.
Hòa Kiều đứng ở một bên nhìn đến ngây phỗng, thầm nghĩ lão già này trông thì béo béo phệ phệ, chẳng ngờ lanh lẹ như thỏ, lúc này vẻ mặt kèm nhèm say rượu đã bay biến đi đâu hết, trên vầng trán toát ra một tầng sát khí lành lạnh.
Đồng Diệu một tay chống nạnh, nhìn Dương Cảnh cười khẩy:
- Nhóc con, đây có được xem là nhục nhã hổ thẹn hay không?
Da mặt Dương Cảnh trương phồng, nghiến răng không đáp. Sắc mặt Đồng Diệu sa sầm, quát lớn:
- Sao? Còn chư phục ư?
Nói dứt, lão ra chiều sắp động thủ, Hòa Kiều vội vã tiến lên chắp tay cười giả lả:
- Đồng sư bá, người là nhân vật tiền bối, cần chi so đo tính toán với bọn tiểu bối chúng con. Dương sư huynh trước nay thường ăn ngay nói thẳng, nếu như có chỗ đắc tội, mong người niệm tình tha thứ cho.
Đồng Diệu liếc mắt nhìn hắn, lạnh lùng hỏi:
- Ngươi là ai?
Hòa Kiều đáp:
- Vãn bối là Hòa Kiều.
Đồng Diệu gật đầu:
- Thằng nhóc nhà ngươi ít ra còn biết khôn khéo, hãy trở về báo với Minh Đấu rằng: “Ngao Đầu Luận Kiếm” ta đương nhiên sẽ đi, còn chuyện dẫn theo ai hay không chẳng đến phiên lão ta đánh rắm!
Lại chỉ xuống Dương Cảnh dưới đất quát:
- Mang theo hắn, cút ngay cho ta!
Hòa Kiều rối rít vâng dạ, đỡ lấy Dương Cảnh tập tễnh bỏ đi.
Đồng Diệu xua đuổi hai người bọn họ xong, gương mặt chẳng có chút gì là vui vẻ, lão chắp tay sau lưng, rầu rĩ trở về phòng.
Nhạc Chi Dương lấy làm lạ:
- Lão Đồng hồi nãy ra oai ghê lắm, sao mới quay đầu đi đã ỉu xìu như vậy?
Tiêu lão tam nói:
- Tiểu Nhạc, ngươi không biết rồi, "Ngao Đầu Luận Kiếm" chính là mối tâm bệnh của Đồng quản sự. Năm ấy ổng thua Minh Đấu ở kỳ luận kiếm, vuột mất cơ hội làm tôn chủ dòng Kình Tức, cho nên mỗi khi đến ngày luận kiếm đều thấy ổng mượn rượu giải sầu, say lầy nhầy đến mức chả ra hình thù gì cả.
Nhạc Chi Dương tò mò hỏi:
- "Ngao Đầu Luận Kiếm" rốt cuộc là gì vậy?
- Đó là một cuộc tỷ võ, mới đầu là dịp để Thích gia tuyển chọn đệ tử, về sau giặc Thát giày xéo khắp đất nước, một nhánh của Thiên Cơ Cung cũng tìm lên đảo lánh nạn, bọn họ nhập gia tùy tục, cũng tham dự "Ngao Đầu Luận Kiếm". Lúc luận kiếm, không chỉ có lớp trẻ so tài với nhau để tranh ngôi đầu mà những ai tự cảm thấy võ công cao cường đều có thể khiêu chiến với đảo vương hoặc tôn chủ. Nghe mấy cụ già kể lại, tổ tiên của Vân đảo vương chính nhờ thắng được nhà họ Thích tại kỳ "Ngao Đầu Luận Kiếm" năm ấy nên mới trở thành chủ nhân hòn đảo này.
- Tạp dịch thì không được tham gia à? - Nhạc Chi Dương lại hỏi tiếp.
- Làm gì có! - Tiêu lão tam lắc đầu: - “Ngao Đầu Luận Kiếm” là sự kiện lớn của cả đảo, bất kỳ hạng người nào cũng có thể tham gia, đồ đệ của Minh Đấu nói như vậy chỉ vì muốn sỉ nhục Đồng quản sự mà thôi.
Phiếm chuyện một hồi, gã trở về nơi ở, chỉ thấy Đồng Diệu uống say đến bí tỉ, đang nằm sấp trên ghế mắng chửi om sòm, mười câu hết chín là rủa tên Minh Đấu, còn lại một câu để oán trách Vân Hư. Nhạc Chi Dương ở bên cạnh lắng nghe, cảm thấy Đồng Diệu thua trước Minh Đấu chỉ e là có uẩn khúc nào đó. Võ công của Đồng Diệu rất cao, mấy năm gần đây tuy bỏ phế vì nát rượu nhưng vẫn có thể dàng đánh bại đệ tử đắc ý của Minh Đấu, nếu là vào năm ấy chắc gì đã chịu thua dưới tay lão ta.
Ba ngày chớp mắt đã trôi qua, hôm nay Đồng Diệu dậy thật sớm, triệu tập đám nông phu lại tuyên bố:
- Hôm nay xả hơi một ngày, mọi người không cần làm việc, tất cả theo ta lên gò Ngao Đầu.
Mọi người nghe xong vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc, Nhạc Chi Dương làm ra vẻ giật mình hỏi:
- Lão Đồng, Minh Đấu không cho đi cơ mà?
- Không cho cái rắm! - Đồng Diệu trừng mắt nhìn gã, ngoác miệng chửi: - Lão ta nói không đi thì không đi à? Lão ta kêu ngươi ăn phân ngươi có ăn không? Lão ta là Minh Đấu chứ có phải bố thiên hạ đâu, lão bảo đi hướng Đông, ta quyết đi về hướng Tây, lão nói không cho đi, ta càng muốn dẫn các ngươi đến mở mang tầm mắt.
Nhạc Chi Dương vỗ tay cười to, đám nông phu càng cảm thấy hân hoan sung sướng, mạnh ai nấy thay đổi trang phục, rộn rịp theo chân Đồng Diệu kéo về gò Ngao Đầu.
Gò Ngao Đầu ngó thẳng xuống Phong Huyệt, là nơi cao trội tách biệt hẳn ở đầu bãi đá, đứng trên đó trời xanh bể ngọc đều thu trọn vào tầm mắt. Xưa kia, những người thợ khéo léo của đảo đã san phẳng đi những khối đá để tạo ra một khoảng không gian rộng chừng mười trượng vuông này với bốn bề được bao phủ bởi những bậc thềm đá quanh co như giải áo.
Đại hội sắp sửa diễn ra, để tử trên đảo nhanh chóng kéo về lũ lượt, kẻ đứng kẻ ngồi, đầu người lóp ngóp. Minh Đấu đang trò chuyện cùng Dương Phong Lai, trông thấy hàng người của Yêu Nguyệt Phong đi đến, lập tức sải bước tiến lên trước, quát chặn:
– Đồng Diệu, ông dẫn bọn chúng đến đây làm gì?
– Xem trò ấy mà. – Đồng Diệu nâng bầu rượu lên, trơ mặt cười hề hề: – Mọi người quanh năm vất vả, ta dẫn họ đến đây thư giãn.
– Đây là “Ngao Đầu Luận Kiếm”, ông cho là kịch hài hay xiếc khỉ? Lập tức dẫn bọn chúng biến ngay, ở lại đây còn gì là mặt mũi của dòng Kình Tức nữa!
– Không thể nói vậy được! – Đồng Diệu hớp một ngụm rượu, thong dong bảo: – “Ngao Đầu Luận Kiếm” mọi người đều có phần tham gia, đám thủ hạ của ta biết đâu chừng còn có thể chiếm luôn ngôi đầu, khiêu chiến với một vài vị tôn chủ ở đây đấy.
Minh Đấu trừng mắt nhìn Đồng Diệu, mặt mày tái xanh. Dương Phong Lai thấy tình hình không ổn, vội bước lên khuyên giải:
– Minh Đấu à, đến thì cũng đến rồi, cần gì bắt ép bọn họ quay về? Xem một chút cũng có mất mát gì đâu chứ.
Minh Đấu mượn thế xuống nước, gật đầu bảo:
– Nể mặt Dương Tôn Chủ, ta không thèm so đo với tên sâu rượu nhà ngươi. – Nói rồi lão hừ lạnh, tiếp tục: – Lão sâu rượu, ba ngày trước ông đánh trọng thương Dương Cảnh, món nợ này ta còn chưa tính sổ với ông. Có giỏi thì lát nữa hãy ra khiêu chiến với bản tôn, nếu ông thắng thì đến Phi Kình Các làm chủ nhân, ta thua sẽ về Yêu Nguyệt Phong cuốc đất.
Đồng Diệu giận sôi máu, mặt căng phình như gan heo, hai mắt trừng trừng nhìn Minh Đấu, lỗ mũi phát ra hơi thở phì phì. Đổi lại là năm xưa, Đồng Diệu nhất định sẽ lập tức ứng chiến, thế nhưng mấy năm gần đây lão buông thả sa sút, khiến cho võ công bị tụt hậu trầm trọng, dẫu thấy không ưng thuận cũng chả còn sức đâu mà bật lại nữa. Minh Đấu chiếm được thế thượng phong, lòng thầm đắc ý, ánh mắt lại đảo qua Nhạc Chi Dương. Hai người đã lâu không gặp, dáng hình thiếu niên có sự thay đổi lớn, nếu không nhờ thanh sáo ngọc kia gần như Minh Đấu không thể nhận ra. Sắc xanh trên sáo ngọc long lanh lọt vào tròng mắt của Minh Đấu, nghĩ lại đúng thật hết sức buồn cười: ngày đó dẫn thằng nhóc này đến Đông Đảo chẳng qua chỉ vì thanh sáo này, kết quả suốt hai năm trời ý đồ vẫn chưa thể thành công. Khó khăn lắm Minh Đấu mới đè nén suy nghĩ cưỡng đoạt sáo ngọc trong đầu, lão quắc mắt nhìn Nhạc Chi Dương, hậm hừ xoay người bỏ đi.
Nhạc Chi Dương mỉm cười, đưa mắt nhìn sang nơi khác, bắt gặp Giang Tiểu Lưu đang nói cười trong đám đệ tử dòng Long Độn. Ánh mắt cả hai chạm nhau, Giang Tiểu Lưu ngập ngừng giây lát, đoạn tiến lên hỏi:
– Ngươi cũng đến à?
Nhạc Chi Dương ngắm nghía hắn một chút, thắc mắc:
– Giang Tiểu Lưu, bộ ngươi cũng muốn tham gia hả?
Giang Tiểu Lưu bật cười:
– Sư phụ bảo ta luyện tập cũng không tệ, kêu ta đến tham dự thử một phen. Đợi lát nữa rút thăm so tài, nhỡ gặp may đụng phải đối thủ yếu, biết đâu chừng có thể vượt qua vòng đầu tiên đấy.
Nhạc Chi Dương trong lòng cảm thấy hoang mang, nhỏ giọng bảo:
– Ngươi không định đi trốn đấy chứ?
Giang Tiểu Lưu sững người, buộc miệng hỏi:
– Trốn? Trốn đi đâu cơ ?
Tiếp đó hắn dường vỡ lẽ, mặt ửng đỏ:
– Ngươi nói trở về Trung Thổ ư? Cách xa cả một quãng đại dương bao la như vậy làm sao nói đi là đi ngay được? Mà hơn nữa cho dù trở về Trung Thổ rồi thì ta có thể làm gì đây?
Nói đến đây, hắn liếc mắt nhìn Nhạc Chi Dương, rầu rĩ bảo:
– Trở về sông Tần Hoài làm ma cô chắc?
Nhạc Chi Dương nhìn người bạn của mình, trong lòng cảm thấy ngao ngán. Rõ ràng là Giang Tiểu Lưu vui đến quên đường về, định ở lại trên đảo theo đuổi con đường làm đệ tử Đông Đảo của hắn, còn việc cùng nhau trở về Trung Thổ sợ rằng chỉ là ước muốn một phía của chính gã mà thôi.
Giang Tiểu Lưu thấy nét mặt của gã, trong lòng lấy làm áy náy, đang định nói gì đó thì chợt nghe Dương Phong Lai hét gọi, hắn vội vàng chạy trở về. Dương Phong Lai đanh giọng mắng chửi vài câu, lại chỉ tay về phía Nhạc Chi Dương, dường như đang bảo rằng: đường đường là đệ tử Long Độn sao lại đi giao du trò chuyện với một gã tạp dịch trước mặt mọi người, chẳng phải là làm mất giá trị hay sao? Giang Tiểu Lưu luôn mồm vâng dạ, chốc chốc lại liếc trộm Nhạc Chi Dương, nét mặt tỏ ra mấy phần bất đắc dĩ. Đúng lúc này, mọi người chợt nhốn nháo, Vân Hư dạt đám đông, chậm chậm bước đến, Diệp Linh Tô và Vân Thường chia ra hai bên trái phải, vẫn theo sát bên cạnh ông như thường lệ. Diệp Linh Tô toàn thân trong trang phục trắng, trên eo lưng thon thả có thắt một sợi đai ngọc nhủ vàng, thanh nhuyễn kiếm màu đen tuyền được giắt vào giữa sợi đai nọ. Bước lên bậc thềm đá trên cao, Vân Hư khoác tay ra hiệu, đám đông lập tức im phắt, ông nhìn một lượt xung quanh, cao giọng nói:
– Lại đến kỳ đại hội tỷ võ tranh tài “Ngao Đầu Luận Kiếm” ba năm một lần, cơ hội thế này hiếm mà có được, mọi người nên biết trân trọng, đặc biệt là những đệ tử mới, việc thăng hay giáng chức trong vòng ba năm tới đều căn cứ vào dịp này cả. Tất cả nghe rõ rồi chứ?
– Nghe rõ ạ!
Đám đệ tử đồng thanh hô vang, khí thế sôi nổi. Vân Hư phất tay, Hoa Miên bưng ra một chiếc hộp, đặt ở phía trước bậc thềm, ông lớn giọng nói:
– Hôm nay tổng cộng có ba mươi bảy đệ tử đăng ký tham gia. Ở lần luận kiếm trước, Vân Thường đã đoạt ngôi đầu, vì thế lần này được đặc cách vào thẳng vòng thứ hai, những người còn lại thì bốc thăm trong chiếc hộp kia, thẻ của ai giống nhau thì chính là đối thủ của nhau.
Mọi người ùn ùn kéo lên, tranh nhau rút thăm từ chiếc hộp. Giang Tiểu Lưu cũng chen lấn vào đoàn người, mải mê săm soi nhìn chiếc hộp ấy. Lúc này trong đám người rộ lên một tràng nhốn nháo, Nhạc Chi Dương đưa mắt nhìn sang, chỉ thấy Diệp Linh Tô trong tà áo trắng phe phất, đang nhẹ nhàng bước xuống thềm đá, tiến đến phía trước chiếc hộp rút ra cho mình một tấm thẻ bài, ngắm nghía một thoáng rồi quay đầu quay trở lại phía trên. Vân Thường giương mắt nhìn cô, mặt mũi tái hẳn đi. Vân Hư cũng nhíu mày, dường như có chút không hài lòng. Chẳng mấy chốc đã rút thăm xong, Vân Hư vẫy vẫy tay, một tên đệ tử nhấc chùy gỗ gõ vào một tấm chiêng, hô to:
– Bắt đầu luận kiếm, đội đầu tiên ra trận.
Người đáp lời bước ra khỏi đám đông chính là Đỗ Chu, đệ tử dòng Quy Kính. Hai năm trước, y và Nhạc Chi Dương cùng lên đảo một lượt, khi ấy tuổi tác còn nhỏ, giờ đây đã là một thiếu niên đẹp mã, người vận áo dài màu xanh, vầng trán tràn đầy sinh lực. Đối thủ của y là Tào Nguyên, đệ tử bên dòng Thiên Lân, tuổi ngoài hai mươi, mi dài mắt nhỏ, người khoác áo ngắn trắng lóa, thoạt trông có vẻ nhanh nhẹn dũng mãnh.
Cả hai khách sáo với nhau đôi câu rồi bắt đầu động thủ. Đỗ Chu tung một đường chưởng pháp, nhẹ nhàng phiêu hốt, ra tay quỷ quyệt, vừa thấy y tung chiêu đến trước mặt, thân hình đã uyển chuyển xoay vòng ra sau lưng đối thủ, chiêu đầu tiên chưa tung ra hết thì chưởng thứ hai đã xuất ra. Tào Nguyên thì sử dụng một bài quyền, ra tay không nhanh không chậm, chỉ đứng tại chỗ xoay sở, bất kể Đỗ Chu đang ở phía nào thì nắm đấm của hắn luôn xác định được phương hướng đối phương.
Quyền qua chưởng lại mất khoảng nửa nén hương, cả hai vẫn chưa tiếp nhau một chiêu nào. Đỗ Chu mặt đỏ tía tai, vạt áo sau lưng ướt đẫm mồ hôi. Tào Nguyên cũng mắt tròn mắt dẹt, lỗ mũi phập phà phập phồng, hổn hển thở dốc.
Nhạc Chi Dương cảm thấy lạ, cười hỏi:
– Xảy ra chuyện gì vậy? Hai người này, kẻ thì trơ như cọc gỗ, kẻ thì nhặng xị như ruồi, quấy quá cả buổi chả ai chạm được vào ai cả!
– Ngươi thì biết cái gì. – Đồng Diệu nhấp một ngụm rượu, gật gù bảo: – Chiêu thức mà thằng nhóc dòng Quy Kính kia dùng chính là “Tam Tài Quy Nguyên Chưởng”, bài chưởng pháp này ngầm chứa đựng tiên thiên dịch lý, nếu không rành về thuật số sẽ không phát huy được điểm ảo diệu bên trong. Trăm năm trở lại đây, nền toán học trên đảo ta tàn lụi, chẳng còn ai tài cán nữa, tinh túy của bài chưởng pháp này vì thế cũng bị mai một phần lớn, đến hiện tại chỉ còn sót lại lớp vỏ ngoài sáo rỗng mà thôi, thế nên đánh cả buổi trời vẫn chẳng làm gì được một đường “Chỉ Nam Quyền” nhỏ nhoi.
– Chỉ Nam Quyền? – Nhạc Chi Dương trỏ về phía Tào Nguyên: – Ông nói đến cái tên cọc gỗ này hả?
– Nó đó! – Đồng Diệu gật đầu: – “Chỉ Nam Quyền” chuyển động tùy theo địch thủ, quyền cước cũng giống như kim chỉ nam trên la bàn, không rời khỏi đối phương.
Nhạc Chi Dương khẽ mỉm cười, chỉ thấy Đỗ Chu thoắt qua thoắt lại, không ngừng tìm kiếm sơ hở của đối phương, thế nhưng chẳng hiểu sao y luôn chậm chân một bước, rõ ràng sơ hở đang rành rành trước mắt, đến khi y định tận dụng thời cơ thì quyền của Tào Nguyên đã xoay chuyển theo thân mình, nhẹ nhàng lấp vào khoảng sơ hở ấy, nên cho dù Đỗ Chu có đoán trước ý định của đối phương thì bộ pháp dưới chân lại không thể theo kịp biến hóa của Tào Nguyên.
Nhạc Chi Dương xem đến say sưa, không kềm được thả cho trí óc bay xa, ngỡ như mình cũng đang ở trong trận đấu ấy, chiếu theo những đường quyền Tịch Ứng Chân truyền dạy mà chia ra trao đổi chiêu thức với hai người Đỗ-Tào, tưởng tượng nào là phải tiến lùi công thủ thế nào, khắc chế đối phương ra sao.
Càng nghĩ gã càng cảm thấy thú vị, bụng vui như mở cờ, mặt mày hớn hở. Đám nông phu kế bên trông thấy gã như vậy đều lấy làm khó hiểu, chẳng biết thằng nhóc này cao hứng vì lẽ gì.
Lại đánh nhau thêm một lúc nữa, Tào Nguyên chợt giơ tay, phóng ra một chùm gì đấy trắng toát, bay được nửa đường thì “loạc xoạc” chia ra, tựa như sao bay đầy trời, phát ra tiếng kêu vù vù kỳ lạ. Nhạc Chi Dương nhìn kỹ lại, hóa ra là vô số mũi dùi thép bé tẹo được Tào Nguyên dùng “Bắc Cực Thiên Từ Công” hút thành một chùm, lúc phóng ra thì đảo ngược huyền công, dùi thép từ hút nhau trở thành đẩy nhau, hệt như tiên nữ rải hoa, biến ra một thứ ám khí lợi hại.
Đỗ Chu sớm đoán ra ý đồ địch thủ, lúc Tào Nguyên giơ tay thì y đã nhảy lùi về phía sau, thân thể co vặn, vạt áo xanh thu gọn vào bàn tay, phất về phía đám dùi thép đang bay tới trông hệt như một màn sương xanh phủ chụp lấy những đóm sao lạnh.
Hai tay Tào Nguyên chụp loạn xạ, giữa kẽ tay sinh ra một luồng lực từ, dùi thép nhảy múa lên xuống như muốn vòng qua vạt áo dài, nào ngờ đâu nội lực của Đỗ Chu rót vào trong tơ lụa, vạt áo hóa thành một tấm khiêng mỏng, gió mạnh vừa phất đến, những mũi dùi thép rơi leng keng cả xuống đất.
Tào Nguyên trong lòng bối rối, lại chộp lấy một nắm dùi thép, nhưng chưa kịp ném ra thì chợt nghe Đỗ Chu quát lớn, vạt áo bật tung ra như mây khói. Tầm mắt của Tào Nguyên bị che khuất, không kịp đề phòng chưởng trái của Đỗ Chu xuyên nhanh qua vạt áo như chớp lóe, “bốp” một tiếng kích trúng vào ngực trái của hắn. Tào Nguyên giật lùi liên tiếp ba bước, tay ôm lấy ngực, khuôn mặt đỏ bừng bừng.
Đỗ Chu thu lại vạt áo, chấp tay cười:
– Tào sư huynh nương tay rồi!
Tào Nguyên chằm chằm nhìn y vẻ dữ tợn rồi quay đầu bỏ đi.
Đỗ Chu trở về chỗ cũ với vẻ hết sức đắc ý. Y thân là đệ tử mới gia nhập, đánh bại được sư huynh tiền bối quả thật cũng đáng để tự hào. Hoa Miên nhìn y mỉm cười gật đầu, trong mắt lộ ra một vẻ tán thưởng.
Nhạc Chi Dương thầm than đáng tiếc, nghĩ bụng nếu gã mà là Tào Nguyên, trước tiên sử một chiêu “Bài Vân Ngự Phong” trong “Côn Bằng Chưởng”, ép cho vạt áo phải cuốn trở về, tiếp đó dùng “Phi Ngư Bát Lãng” trong “Vô Định Cước” đá trả lại vào bụng dưới của Đỗ Chu, cho dù không thắng thì cũng có thể cầm hòa.
Mấy nhóm đối thủ tiếp theo đều chênh lệch về thực lực, chẳng mấy chốc đã phân định được thắng bại. Nhạc Chi Dương vừa xem vừa cảm thấy buồn trong lòng. Mấy tên đệ tử Đông Đảo này chẳng hề lợi hại như trong tưởng tượng, cho dù là kẻ thắng hay người bại đều để lộ ra muôn vàn sơ hở. Có lúc tưởng đâu thắng lợi dễ dàng, nhưng lại thích bỏ dễ tìm khó, chiêu thức gọn gàng dứt khoác thì chả dùng, lại đi xài mấy chiêu hào nhoáng sáo rỗng, vốn chỉ một chiêu đã có thể định đoạt thắng bại, lại muốn hư hư thật thật, tung ra cả bảy tám chiêu, phí phạm cơ hội quý báu. Nhớ lại ba ngày trước, Diệp Linh Tô một mình múa kiếm, ung dung mạnh mẽ, kín kẽ liền mạch, so với mấy tên đệ tử này đúng là một trời một vực.
Nghĩ đến đây, thâm tâm Nhạc Chi Dương sinh ra mấy phần khinh thường võ học Đông Đảo. Gã nào có biết, Tịch Ứng Chân vốn là cao nhân sánh ngang hàng Vân Hư, luận về chân tài thật học đều vượt xa Tứ Tôn của Đông Đảo. Nhạc Chi Dương được ông đích thân truyền thụ, vốn là mối kỳ ngộ hiếm có trên đời. Gã được mắt thấy tai nghe suốt hai năm qua, không môn võ học nào là không hiểu thấu, kiến thức nhãn quang đều vượt xa mấy tên đệ tử tầm thường này. Gã mang tâm pháp trong bài quyền mà Tịch Ứng Chân truyền thụ để kiểm chứng trên võ công đệ tử Đông Đảo hệt như dùng bức danh họa của Ngô Đạo Tử(*) mà so sánh với tấm tranh nguệch ngoạc của kẻ mới học vẽ, tự nhiên cảm thấy cái gì cũng dở dở ương ương, gai mắt vô cùng.
(ND chú: Ngô Đạo Tử hay còn gọi là Ngô Đạo Nguyên, một danh họa nức tiếng thời nhà Đường được tôn xưng là “Bách đại họa thánh” trong sử họa TQ)
Chợt nghe một trận reo hò rộ lên, Nhạc Chi Dương giương mắt nhìn sang, chỉ thấy Diệp Linh Tô tách khỏi hàng người, bước lên sàn đấu đứng hiên ngang trong gió. Ở Đông Đảo nam nhiều nữ ít, Diệp Linh Tô lại là đóa hoa nổi bật nhất trong vườn hoa ít ỏi ấy, lúc này vạt áo của cô bay lùa phất phơ, dáng dấp mơ hồ như tiên nữ, mọi người nín thở ngước nhìn, trên gò Ngao Đầu chợt trở nên lặng im phăng phắt.
Hồi lâu chẳng thấy ai ra ứng chiến, Hoa Miên chau mày, quay lại gọi:
– Cốc Thành Phong, còn đực ra đó làm gì?
Lời vừa nói dứt, một chàng trai trẻ bước ra khỏi đám người, mặt vuông tai lớn, hai má đỏ bừng, y hướng về Diệp Linh Tô hành lễ, thấp giọng bảo:
– Cốc Thành Phong bái kiến Diệp sư tỷ.
Diệp Linh Tô quan sát y một thoáng, nói:
– Tiểu Cốc, chào đệ.
Cốc Thành Phong liếc trộm cô, lí nhí bảo:
– Sư tỷ, hay là đệ nhận thua nhé?
Diệp Linh Tô thắc mắc:
– Đã đánh đâu mà lại nhận thua?
Cốc Thành Phong cười khổ:
– Lỡ đệ thắng sư tỷ, trong lòng sẽ bứt rứt lắm.
Diệp Linh Tô vừa tức vừa buồn cười, bảo:
– Nói như vậy là đệ khẳng định có thể thắng ta rồi?
Cốc Thành Phong xua tay lia lịa:
– Nào dám nào dám, đệ mà thua là điều hiển nhiên thôi, nhưng lỡ đâu ăn được sư tỷ một chiêu nửa thức thì chẳng phải là vô lễ lắm sao?
Xung quanh mọi người cười rần rần, Diệp Linh Tô vừa thẹn vừa giận, gắt giọng:
– Nói nhảm nhí, đệ cứ ra tay hết sức, ta sẽ không tha thứ nếu đệ có nửa phần qua loa đâu.
Cốc Thành Phong chẳng còn cách nào khác, đành bảo:
– Mong sư tỷ chỉ dạy thêm!
Dứt lời, y hít sâu một hơi, bước chếch lên một bước. Một bước này nhìn thì có vẻ nhẹ nhàng nhưng lại vượt xa hơn trượng, tiến đến sát bên người Diệp Linh Tô, chưởng trái hạ thấp, xoay người tung ra một luồng chưởng phong mãnh liệt đến độ tay áo của thiếu nữ phải bay thốc phần phật.
Đám đông ồ lên kinh ngạc, Cốc Thành Phong so ra nhỏ hơn Diệp Linh Tô hai tuổi, thế nhưng luận về sự lạ lùng trong bộ pháp và sự mạnh mẽ của chưởng lực thì đã dần đạt đến đến cấp độ cao thủ. Vân Hư cũng cảm thấy ngạc nhiên, ông khẽ giơ tay vuốt râu, ánh mắt chăm chăm nhìn hai người bên dưới không hề xê dịch.
Diệp Linh Tô uyển chuyển lướt đi, tránh khỏi chưởng lực của Cốc Thành Phong, cánh tay nhỏ nhắn phất ra một cơn gió nhẹ, quét trúng mạch môn Cốc Thành Phong. Cánh tay Cốc Thành Phong tê dại, y vặn người vòng ra sau lưng Diệp Linh Tô, đanh định tung chưởng thì trước mắt bỗng dưng trống không, thì ra thiếu nữ đã vòng sang bên trái, bàn tay ngà ngọc vươn khỏi tay áo hệt như trăng ló rặng mây, quét về phía mạn sườn y.
– Hay cho chiêu “Lưu Vân Thệ Thủy”! – Đồng Diệu tấm tắc không ngớt.
Cốc Thành Phong rụt người lại, lùi về sau tám thước, còn chưa kịp đứng vững liền xông thẳng về đằng trước, loạc xoạc tung ra liên tiếp bảy chưởng tám cước.
Y trong chớp mắt tiến lùi như gió, thế công càng lợi hại hơn. Diệp Linh Tô vụt xoay người lùi về sau vài bước, hai tay quét về phía trái, trông có vẻ hờ hững nhưng lại nhẹ nhàng hóa giải đi thế công của màn quyền cước ấy. Trước mắt Cốc Thành Phong giờ đây, thiếu nữ như đã hóa thành một luồng ảo ảnh, đánh không được, đá không trúng.
– Đây là võ công gì vậy? – Nhạc Chi Dương không khỏi ngầm giật mình. Diệp, Cốc hai người công thủ quá nhanh, sơ hở cực ít, rõ ràng là vượt xa đám đệ tử khác.
– Ngươi hỏi Diệp Linh Tô hả? – Đồng Diệu tiện miệng đáp: – Con bé ấy dùng “Thủy Vân Chưởng” mang theo sự tinh diệu của nước chảy mây trôi. Còn Cốc Thành Phong dùng “Tam Tài Quy Nguyên Chưởng”, thằng nhóc này có vẻ cũng đã bỏ không ít công sức trong vấn đề nghiên cứu thuật số rồi, so với Đỗ Chu thì mạnh hơn khá nhiều…
Trong lúc đang nói chuyện, thế công của Cốc Thành Phong đã dần yếu đi, thân pháp của Diệp Linh Tô càng trở nên nhanh nhẹn, hai tay cô khẽ hợp lại dẫn theo một bóng chưởng màu trắng tinh, hệt như khói mờ tỏa rừng, tràn lấp vào trong kẽ hở chưởng quyền của Cốc Thành Phong. Cốc Thành Phong né trái tránh phải cũng chẳng tài náo thoát khỏi bóng trắng ấy, nom cứ như một chú chim trời bị rơi xuống mành lưới màu tuyết bạch.
– Khí Chưng Vân Mộng! – Đồng Diệu buộc miệng la lên: – Hay cho chiêu “Khí Chưng Vân Mộng”!
Trong lúc ông nói, trên võ đài hai người vừa chạm vào liền lập tức tách nhau ra. Diệp Linh Tô bay đi mấy thước, sau đó dễ dàng đáp xuống rồi đứng vững. Cốc Thành Phong thì dáng vẻ như say rượu, lảo đa lảo đảo lùi xa hơn một trượng, hai chân đột nhiên mềm nhũn rồi ngã vật ra đất.
Diệp Linh Tô tiến lên trước, chìa tay cười bảo:
– Tiểu Cốc, không sao chứ?
Sắc mặt Cốc Thành Phong nửa đỏ nửa tím, y bật ngồi dậy, lắp bắp bảo:
– Chưởng pháp của sư tỷ cao minh, đệ… đệ xin nhận thua.
Diệp Linh Tô tức cười thầm trong bụng, miệng nói:
– Tiểu Cốc, võ công của đệ cũng không tệ đâu, hai năm nữa là có thể thắng được ta rồi, chỉ hiềm da mặt đệ mỏng quá, nên tôi luyện thêm mới được.
– Tôi luyện thế nào? – Cốc Thành Phong ngờ nghệch hỏi.
– Đương nhiên là đem đi mài trên hòn đá rồi. – Diệp Linh Tô chớp chớp mắt: – Mài làm sao cho da mặt đệ chai đi, để thấy phụ nữ không bị đỏ bừng nữa.
Cốc Thành Phong nghe xong vẫn còn ngờ ngợ, chợt thấy xung quanh mọi người cười rần rần, bấy giờ mới hiểu thì ra thiếu nữ đang trêu ghẹo mình, y xấu hổ chẳng biết chui đi đâu, vội vã trốn về hàng ngũ. Vân Hư đột nhiên mỉm cười, gật gù bảo:
– Hoa Miên, thằng nhóc Thành Phong này được đấy, sau khi luận kiếm kết thúc, để nó đến “Huyền Hoàng Cư” của ta nhé!
Lời này vừa thốt ra, cả trường ồ lên kinh ngạc, rất nhiều đệ tử trừng mắt nhìn Cốc Thành Phong vừa thèm thuồng vừa đố kỵ. Hoa Miên cũng mỉm cười:
– Được đảo vương xem trọng như vậy, dòng Quy Kính cảm thấy vinh hạnh vô cùng, ta xin thay mặt tiểu đồ cảm tạ ngài trước.
Cốc Thành Phong tuy thua tỷ võ nhưng lại được gia nhập vào dòng đệ tử chính tông của Đông Đảo, chúng đệ tử khác hết sức ngưỡng mộ, ai nấy đều trở nên phấn khởi, nhất thời khiến cho cuộc tỷ thí trở nên quyết liệt hơn, liên tiếp có kẻ phải trúng thương.
Lại đấu thêm mấy cặp nữa, chợt nghe một tiếng chiêng cất lên, Dương Cảnh bước ra khỏi đoàn người, nhìn ngang ngó dọc, nét mặt vênh váo. Nhac Chi Dương đang suy nghĩ xem đối thủ của y là ai, chợt thấy Giang Tiểu Lưu bước ngập bước ngừng tiến lên phía trước.
Nhạc Chi Dương trong lòng lạnh toát, thầm kêu hỏng bét. Khóe môi Dương Cảnh khẽ nhếch lên, nở một nụ cười khinh miệt:
– Giang sư đệ, đúng là thế gian nhỏ bé, chúng ta lại gặp nhau rồi.
Giang Tiểu Lưu mặt mày trắng bệch, đưa tay thủ thế không nói lời nào. Dương Cảnh khẽ cười lạnh, quay đầu nhìn về sau, Minh Đấu sắc mặt căng thẳng, nhìn y gật gật đầu.
Dương Cảnh ngầm hiểu ý, chưởng trái hạ thấp, chưởng phải huơ về trước, cuốn theo một luồng gió xoáy, trong chưởng phong ngầm sinh ra một lực hút, chính là “Qua Toàn Kình” – một trong sáu đại kỳ kình của “Kình Tức Công”.
Giang Tiểu Lưu vốn đang lo lắng, nhác thấy chưởng phong ập đến, vội vàng tung người nhảy tránh. Thế chưởng của Dương Cảnh đổ xuống, lực hút càng thêm lợi hại, tựa như một sợi thừng vô hình, buộc chặt lấy hai chân Giang Tiểu Lưu. Giang Tiểu Lưu thầm hoảng hốt, trong lúc luống cuống liền hất tay trái lên, từ trong ống tay áo bay ra một sợi xích sắt nhỏ, thuận theo lực hút bắn về phía trước, thế bay hệt như một ngọn thương đâm về phía bụng dưới của Dương Cảnh.
Dương Cảnh nở nụ cười hiểm ác, chưởng trái tung ra chính là “Thao Thiên Khí” – cũng là một trong sáu đại kỳ kình. Luồng chưởng lực này hoàn toàn tương phản với “Qua Toàn Kình” khi nãy, hệt như một cây cột nhà nện mạnh ra phía ngoài. Giang Tiểu Lưu chỉ cảm thấy lòng bàn tay nóng ran, sợi xích đã bị chưởng phong quấn rối, hóa thành một bóng đen quét ngược về phía bản thân hắn. Giang Tiểu Lưu vội vàng xoay người, né khỏi sợi xích bay sượt qua vành tai, dẫn theo một tia máu nhỏ.
Giang Tiểu Lưu nghiến răng nhịn đau, thi triển thân pháp “Long Độn” bay vòng sang một bên, tay phải vung lên, từ trong ống tay lại bay vọt ra một sợi xích sắt khác, hai sợi xích trông như hai con rồng đang vờn châu, thoắt hợp lại thoắt tách ra, xông về hướng Dương Cảnh.
Dương Cảnh hừ khẽ, chưởng phải tung ra phía trước, vẫn là công phu của “Thao Thiên Khí”, sợi xích sắt bị cuốn vào trong chưởng lực như thể bị mất đi sự điều khiển, lại xoáy ngược về đằng sau.
Giang Tiểu Lưu lật đật cúi xuống, lần này xích sắt bay sạt qua đỉnh đầu, làm xõa tung búi tóc của hắn.
Hắn chỉ cảm giác da đầu tê dại, cổ tay bèn dùng lực hất ra, sợi xích còn lại buông khỏi tay áo, loạc xoạc như dài ra gấp bội. Sợi xích vẽ ra một vòng cung trên đầu hắn, vòng qua khỏi chưởng phong của Dương Cảnh, “vút” một tiếng quấn về phía cổ y. Dương Cảnh mới vừa tung chưởng, không kịp thu tay về, vội nhảy tránh về phía sau, nhưng đã muộn mất một bước, trước mắt bóng đen lay động, chỉ nghe một tiếng kêu chát chúa vang lên, trên da mặt trắng trẻo của y hiện ra một lằn máu tươm dài sọc.
Dương Cảnh đầu váng mắt hoa, trong lòng thẹn giận cực độ. Y là đệ tử tiêu biểu của dòng Kình Tức, đối thủ chỉ là một tên vô lại không chính thống của dòng Long Độn, đừng nói mặt mày bị trúng chiêu, cho dù để cho Giang Tiểu Lưu chạm đến một chéo áo thôi cũng đã là một nỗi ô nhục đáng kể. Y lập tức không thèm nghĩ ngợi, trở tay chụp ra, chỉ nghe tiếng kim loại rổn rảng vang lên, một đoạn xích sắt đã bị y nắm chặt trong tay.
Dương Cảnh quát lớn một tiếng, ngầm vận nội kình. Giang Tiểu Lưu tức thời cảm thấy lòng bàn tay đau nhói, sợi xích sắt tuột tay rơi ra, “xoạc xoạc” mấy cái đã trói ngược lại cánh tay của hắn. Giang Tiểu Lưu dùng sức vùng ra nhưng không thoát khỏi, trái lại còn bị “Qua Toàn Kình” dẫn dắt, bất đắc dĩ bị cuốn giật về trước.
Hai người chớp mắt cách nhau chưa đầy vài thước, Giang Tiểu Lưu nghiến răng, cùng tung ra cả quyền lẫn cước. Dương Cảnh một tay giữ chặt xích sắt, một tay đón trên đỡ dưới. Cả hai trao đổi nhau vài chiêu, Giang Tiểu Lưu chỉ cảm thấy da thịt Dương Cảnh như sản sinh ra một lực hút kỳ lạ, quyền cước chạm đến như rơi vào trong dòng nước chảy, chẳng thể dùng lực ở bất kỳ nơi nào. Đang lúc kinh ngạc, tay phải của Dương Cảnh bỗng nhiên rút về khiến cho hắn chới với dưới chân, theo đó chưởng trái của Dương Cảnh bất thần tung ra, đánh về phía lồng ngực hắn. Giang Tiểu Lưu thu tay về ngăn cản, nào ngờ chân trái Dương Cảnh đột ngột huých lên, đá trúng vào bụng dưới của hắn.
Giang Tiểu Lưu đau đến mức oằn người lại, thế nhưng Dương Cảnh không đợi cho hắn kịp té xuống, một quyền lại phát thẳng vào giữa mặt.
Sống mũi Giang Tiểu Lưu gãy đoạn, máu tươi phun trào ra, cả người bắn vọt lên năm thước cao, bay lộn nhào mấy vòng về sau.
Thân thể hắn còn chưa chạm đất, tay phải của Dương Cảnh lại kéo mạnh, sợi xích khua lên leng keng, Giang Tiểu Lưu hệt như một cánh diều lại bay ngược trở về. Dương Cảnh đứng yên tại chỗ, ánh mắt tỏa ra sát khí ngùn ngụt. Dương Phong Lai thấy tình thế có vẻ không ổn liền bật người đứng dậy, đang định ra tay ngăn cản chợt thấy bóng người nháng lên, trên võ đài liền xuất hiện thêm một nhân vật. Người này tay phải vung lên đã bắt gọn lấy Giang Tiểu Lưu.