Ngôi thành cổ bị lún xuống động cát này, tường thành cao tầm ba
trượng, trên cổng thành còn một số thành lầu, cao hơn tường thành một
khoảng, quân lính phía dưới thành tuy thắp đuốc nhưng không thể soi lên
tận trên cao, nhóm Dương Phương, nấp trên thành lầu nhìn xuống phía dưới lại rõ mồn một.
Lúc này, Đồ Hắc Hổ đang chỉ huy quân lính trèo lên, bỗng nghe thấy
phía sau nhốn nháo không hiểu chuyện gì. Bọn quân phiệt tuy xuất thân từ thổ phỉ, chỉ cần có tiền thì có thể bỏ mạng, nhưng quân phiệt thời
trước lại rất mê tín, nghe thấy có người la ó nói rằng trong động cát có cương thi thì ai cũng hốt hoảng. Thực ra cũng không hẳn là sợ, bọn này
theo Đồ Hắc Hổ đánh thành, đào mộ, tiền của người sống người chết chúng
đều cướp cả, nhưng nỗi sợ hãi lại dễ lây lan, mặc dù nhiều người chưa rõ chuyện gì đang xảy ra, thấy nhốn nháo thì vẫn hoang mang, quên cả việc
vây quanh thành để bắt ba người phía trên.
Thành trì cổ bị lún sâu trong động cát, nhiều lần ngập trong nước,
mỗi lần nước dâng kéo theo nhiều bùn đất, phù sa, nên bề mặt tường
thành, nhà cửa đều phủ một lớp bùn dày, tới khi lớp bùn đất đó khô đi
tạo thành một lớp vỏ bọc cứng bên ngoài, nhà cửa trong thành chỉ giống
như những mô đất nhấp nhô trải dài, quân lính của Đồ Hắc Hổ khi xông vào trong thì đều chạy ở phía trên, trong đám quan binh có người trúng đạn
ngã lăn xuống một mái nhà, chỗ đất khô đó bị vỡ ra thủng một lỗ, viên
quan binh rơi xuống căn nhà phía dưới, quân lính xung quanh vội vàng
chạy tới cứu người, thực ra viên quan binh đó không thể sống sót được,
nhưng dù sao cũng là trưởng quan, phải làm bộ một chút, ba bốn tên lính
thắp đuốc tới tìm, chỉ thấy phía dưới còn có mấy xác chết khác chưa bị
phân huỷ, mọi người nhìn nhau nhưng ai nấy đều cứng miệng không nói nên
lời.
Chủ yếu là không ai nghĩ trong gian nhà đó còn có xác chết, những
người này hẳn là bị chôn sống từ lúc thành trì bị lún xuống đất, quần áo trên người không còn nữa, mặt mũi khô đét, nhưng tóc và móng tay vẫn
dài ra, dường như chỉ cần có chút động tĩnh là trừng mắt tỉnh dậy.
Viên quan binh bị trúng đạn đã tắt thở từ trước khi rơi xuống bên
dưới, máu từ vết thương chảy ra xối xả, cảnh tượng này tuy rất đáng sợ
nhưng là chuyện quá bình thường với đám quân lính suốt ngày đối diện với cái chết, có điều khi soi đuốc lại gần viên quan binh, dường như xác
chết bên cạnh hơi động đậy, mọi người tưởng mình nhìn nhầm, dụi mắt nhìn lại thấy xác chết đang thè lưỡi ra liếm những dòng máu đang chảy ra
trên người viên quan binh.
Lúc này mới có người hét lên, thống đốc Đồ Hắc Hổ ra mệnh lệnh trấn
áp, sau khi hỏi rõ sự tình cũng không khỏi kinh ngạc. Xem ra, trong
thành còn có nhiều cương thi nữa. Dưới trướng của Đồ Hắc Hổ có viên
tướng vốn to gan, không tin là ma, cũng muốn thể hiện trước mặt Thống
đốc, liền thắp đuốc nhảy xuống bên dưới xem xét tình hình, dùng dao đâm
vào người những xác chết đó, anh ta phát hiện những xác chết cổ xưa này
có người vẫn còn chảy máu, xem ra không phải là cương thi, có vẻ giống
như loài rắn và cóc ngủ đông, tuy không chết nhưng cũng thuộc dạng sắp
chết, có thể do bị chôn dưới đất quá lâu nên mới sinh ra như vậy. Đám
binh lính xung quanh đều sợ tái mặt, bị chôn sống dưới lòng đất không ăn không uống, trải qua bao nhiêu năm như vậy mà không chết, không lẽ là
"Nhục Tiên" ở sông Hoàng Hà?
2
Nói đến Nhục Tiên ở sông Hoàng Hà thì người dân hai bên bờ sông là
không ai không biết. Nghe kể, sông Hoàng Hà chảy từ đoạn Thiểm Tây tới
Hà Nam có rất nhiều mắt sông. Mắt sông thường thông xuống những dòng
xoáy ngầm dưới lòng sông. Mỗi lần, Hoàng Hà xảy ra lũ lụt đều nhấn chìm
làng mạc, thành trì và rất nhiều người, nếu ai rơi vào đúng mắt sông có
lẽ sẽ không chết, nhưng cũng không biết vì lý do gì mà biến thành thánh
nhân trong thân xác phàm trần. Trước đây, khi nói một ai đó đắc đạo
thành tiên thì thân xác phàm trần cũng tan biến, thân xác phàm trần biến thành thánh nhân trường sinh bất lão quá là ít, ngoài tầm kiểm soát của năng lực con người. Thực ra, chuyện tu luyện để cầu trường sinh bất lão từ thời Tần Thủy Hoàng đã có, nhưng suốt hơn hai nghìn năm làm gì có ai thành tiên đâu? Người ta không tận mắt nhìn thấy có ai thành tiên nên
không thể không nói là sau khi thoát xác thì mới thăng thiên, người trần mắt thịt không thể nhìn thấy được, thân thể phàm trần thành thánh chỉ
có trong truyện Phong Thần diễn nghĩa mà thôi. Nhưng mọi người đều nói
dưới sông Hoàng Hà có Nhục Tiên, thời Đường Tống cũng có nhiều người dân thấy cổ nhân đi lên từ mắt sông, cũng chẳng rõ đó là yêu quái hay thần
tiên. Truyền thuyết trong nhân gian nói đến rất nhiều, nhưng trong lịch
sử chưa hề có ghi chép, binh lính của đội quân phiệt khi thấy Nhục Tiên
cũng không rõ là hung hay cát, nhất thời ai cũng hoảng loạn.
Đồ Hắc Hổ nghĩ: "Nơi đây đúng là có Nhục Tiên trường sinh bất lão
sao?" Trong lòng hắn ta thấy kỳ lạ vô cùng, nhưng cũng có phần lo sợ.
Truyền thuyết xưa nói rằng bảo thành bị nhấn chìm dưới sông có rất nhiều ngọc ngà châu báu, giờ chỉ thấy một vạt đất mà chẳng có báu vật gì, mộ
tổ thì bị người ta đào trộm, đúng là "Gàu trúc gánh nước chẳng được giọt nào", giờ không ngờ lại gặp Nhục Tiên trong thành cổ, hình thù chết
không ra chết sống không ra sống của những người dân trong thành cổ thật là kỳ dị, Đồ Hắc Hổ đảo mắt một vòng, hạ lệnh cho thuộc hạ lấp chỗ
thủng vừa rồi lại, trước mắt phải bắt cho được ba tên tiểu tặc kia đã,
ai làm cho quân lính hoang mang thì ném xuống dưới chôn cùng đám cương
thi kia luôn.
Đám quân binh biết Thống đốc đã nói là làm nên không ai dám chậm trễ, đồng thanh trả lời vang như sấm rền, ai nấy cầm đao đốt đuốc leo lên
thành.
Ba người trên thành nhìn thấy mồn một, trong lòng thầm kêu khổ, lúc
này nước sông Hoàng Hà đã chảy vào bên trong động cát rất nhiều, xem ra
trận hồng thủy này không phải là nhỏ, phía trên đỉnh động, cũng xuất
hiện những dòng chảy, trên mặt đất toàn bùn, lớp bùn đất bao phủ bên
trên thành trì bị nước cuốn trôi, lộ ra mấy chóp điện màu vàng, những
tên lính soi đuốc lại gần, ánh vàng lấp lánh.
Mọi người ai nấy đều rất kinh ngạc, trong thành có nhiều đại điện
chóp bằng vàng, so với số vàng ở đây thì vàng lá Phật điện chưa là gì
cả, chỉ có điều bị bùn đất che lấp nên không nhìn thấy, giờ bị nước sông chảy vào sói đi lớp bùn đất bên trên, nên lộ ra lớp vàng sáng lấp lánh
chói cả mắt, đúng là một toà bảo thành trong lòng đất.
Nước sông Hoàng Hà chảy vào rất nhanh, chẳng mấy chốc đã ngập tới đầu gối, quân phiệt không còn cách nào khác đành phải di chuyển lên chỗ cao hơn, có người trèo lên tường thành, có người trèo lên nóc nhà. Đồ Hắc
Hổ vẫn dắt theo mấy chục tên lính bên mình trèo tường lên thành lầu.
Đạm Đài Minh Nguyệt hối thúc Nhị Bảo nhanh chóng nạp thuốc súng, Nhị
Bảo trả lời vừa rồi cô đã bắn hết số thuốc súng cuối cùng. Đạm Đài Minh
Nguyệt nói: "Chết thật!". Đồ Hắc Hổ thấy đối phương không còn nổ súng,
lập tức mạnh dạn hơn, la hét ầm ĩ chen nhau trèo lên. Dương Phương rút
roi quất từng tên một, Đạm Đài Minh Nguyệt cũng cầm lấy đoản kiếm tiến
lên nghênh địch. Đồ Hắc Hổ hận ba người này tới tột đỉnh, nhìn tình thế
như vậy trong lòng mừng rỡ, hắn cắn đao trên miệng, cầm lấy đuốc, một
tay trèo lên tường thành, sau vài lần trượt lên trượt xuống thì hắn cũng leo được lên trên, gặp ngay Nhị Bảo, Đồ Hắc Hổ vừa mới giơ tay lên, đao còn chưa kịp cầm trong tay thì đã nghe thấy Nhị Bảo: "Á" lên một tiếng
rồi mắt trợn ngược trắng dã, sau đó lăn ra bất tỉnh.
Đồ Hắc Hổ bị Nhị Bảo lừa cho không kịp phản ứng, trong lòng nghĩ sao
mình chưa ra tay mà hắn đã sợ chết rồi? Hắn cũng biết Nhị Bảo chỉ là
người đi theo hầu, sống hay chết không quan trọng, chỉ nhìn chăm chăm
vào Dương Phương và Đạm Đài Minh Nguyệt, nghĩ ngợi: "Lần này tìm được
thành trì có nóc bằng vàng và Nhục Tiên, đầu tiên phải băm vằm tên trộm
đã đào mộ tổ, sau đó bắt cô em xinh đẹp kia về thưởng thức, thế mới gọi
là được cả tài lẫn sắc, chuyện tốt trong thiên hạ này đều vào tay ta."
Dương Phương đã đánh chết mấy tên lính leo lên thành, thấy Đồ Hắc Hổ
cũng lên tới nơi liền quất một roi về phía đó, ra tay vừa nhanh vừa
mạnh. Đồ Hắc Hổ tuy không sợ Dương Phương nhưng cũng biết chiếc roi đồng này rất nặng, trong tay chỉ có một thanh đao không thể đỡ trực tiếp
được, hơn nữa vừa leo lên thành lầu còn chưa kịp đứng vững. Đất trên
tường thành bị ngấm nước đã mềm ra, vội lùi một bước né tránh, đạp rơi
một lớp đất, mất thăng bằng trượt xuống phía dưới, đang định tiếp tục
leo lên thì thấy tiếng nước có gì đó rất lạ, dường như có vật gì rất to
đang trồi lên khỏi mặt nước, quay đầu lại nhìn nhưng không có ánh sáng
nên không nhìn thấy gì.
3
Dương Phương lại có khả năng nhìn trong bóng tối, từ trên cao nhìn
xuống thấy phía xa có một con cá rất lớn đang nổi lên, cố gắng nhìn cũng thấy được hình thù của nó. Phần nổi lên trên mặt nước của con cá này to như một quả đồi, da dày không có vảy, chỉ thấy đầu mà không thấy đuôi,
hai mắt chỉ là hai đường chỉ dài. Thành cổ chìm vào trong động cát, địa
thế giống như một cái đấu, nơi đây bị nhiều lần ngập nước, năm này qua
năm khác bùn đất lấp đầy, dưới đáy động cát luôn có sống ngầm, không ai
biết được bên dưới sâu bao nhiêu, chỉ thấy con cá kia há mồm ra nhả một
luồng khói trắng, luồng khói này bay vào trong thành, quân lính thấy
tình hình có sự thay đổi thì cũng thôi không leo lên thành lầu nữa, dừng hết lại trên nóc nhà và tường thành nhìn trước nhìn sau, ai cũng thấy
kỳ lạ, nước vẫn chưa rút sao đã có sương mù?
Đạm Đài Minh Nguyệt chạm thử vào người Nhị Bảo, Nhị Bảo từ từ mở mắt
ra, hỏi lại: "Đại tiểu thư, tôi bị người ta đánh chết rồi à?" Đạm Đài
Minh Nguyệt nói: "Đồ vô dụng, làm gì mà mới nhìn thấy Đồ Hắc Hổ đã sợ
tới nỗi lăn ra đất giả chết?" Triệu Nhị Bảo ấp a ấp úng: "Vài chiêu này
của tôi thì làm được gì Đồ Hắc Hổ, lúc đó chỉ nghĩ nếu để Đồ Hắc Hổ giết chết không bằng giả chết lừa hắn, ông chủ vẫn thường nói rồi: 'Trong
lúc dụng binh, không tránh khỏi phải dùng thuật dối trá' mà..."
Trong lúc nói chuyện, Đạm Đài Minh Nguyệt cũng nhìn thấy khói trắng
nên không thèm tranh luận với Nhị Bảo nữa, quay lại hỏi Dương Phương:
"Xảy ra chuyện gì thế?" Dương Phương lắc đầu, trong lòng linh cảm có
điều chẳng lành, nhưng cũng không đoán biết được chuyện kỳ lạ gì sẽ xảy
ra.
Lúc này, mây mù ngày càng nhiều hơn, đám binh lính đứng trên nóc nhà
ngửi thấy một mùi hương thơm kỳ lạ, lập tức như người mất trí, không làm chủ được bản thân, từ từ tiến lên phía trước một cách vô thức, những
người chưa ngửi phải mùi hương ngăn họ lại nhưng không tài nào ngăn
được, họ cứ đi như người mất hồn, từng người từng người một đi vào bên
trong miệng con cá khổng lồ, từng thanh đuốc một tắt ngấm.
Dương Phương nhìn rõ ràng con cá khổng lồ đó nhả một làn khói để dụ
người đi vào bụng nó, nuốt sống từng người một, một đội quân nhiều như
vậy mà không hề chống cự lại chút nào, ngay cả mình chết như thế nào
cũng không biết. Nhìn thấy cảnh tượng đó, tóc gáy anh bất giác dựng
ngược, tim đập thình thịch, may mà nước phía trên nóc nhà chảy xuống bên dưới nên sương mù khó bay lên tường thành.
Số đuốc của quân phiệt tắt dần từng cái một, bên trong ngày một tối,
Đạm Đài Minh Nguyệt và Nhị Bảo nhặt lấy đuốc và súng của số lính bị rơi
xuống nước, khi thắp đuốc lên mới thấy bên dưới bỗng chốc yên tĩnh hơn
hẳn, hỏi Dương Phương kể lại những gì mình nhìn thấy: "Trong động xuất
hiện một con cá rất to, thở ra một luồng khói trắng, thôi miên đám lính
vào trong miệng mình và nuốt sống cả rồi". Hai người nghe xong cũng cảm
thấy kinh hãi.
4
Dương Phương đã đặt chân lên mọi miền dọc hai bờ sông Hoàng Hà, đi
nhiều biết rộng, có thể nhận biết được nhiều loài động vật, từ bay trên
trời cho đến chạy dưới đất, nhưng họ nhà cá thì muốn hình vạn trạng,
hình thù kỳ quái kiểu gì cũng có, những nơi sâu thẳm dưới đáy biển có
những loại kỳ quái như vậy cũng chỉ bằng một phần vạn trong loài cá mà
thôi, có điều chưa bao giờ nghĩ tới dưới sông Hoàng Hà lại xuất hiện
loại cá to như thế. Nước lụt thì vẫn không ngừng chảy vào bên trong,
phút chốc đã dâng lên lưng thành, biết rõ nơi này không thể nán lại lâu, khổ nỗi bị kẹt lại bên trong, phía dưới nước cuồn cuộn, sương mù mờ
mịt, trên đầu toàn tường đá, có mọc cánh cũng không bay nổi.
Nước dâng ngày càng mạnh, tứ bề đều ngấm nước bắt đầu đổ vỡ, sụt lở,
tất cả đều bị nước lũ cuốn đi, đám sương mù do con cá khổng lồ thổi ra
cũng tan đi một nửa, đám quân lính trong thành chẳng còn lại mấy người,
giờ đang tranh nhau thoát thân.
Đạm Đài Minh Nguyệt nói với Dương Phương: "Tường thành cũng sắp sập
rồi, nhân lúc nước còn chưa dâng cao, chúng ta phải chạy qua chỗ chưa bị sương khí lan tới, rồi leo lên phía trên chỗ nóc điện vàng, chỗ đó
tương đối cao, có thể tránh thêm một thời gian nữa."
Dương Phương đang quan sát động thái của con cá, cầm lấy ngọn đuốc
trên tay Nhị Bảo, ném về phía con cá, theo ánh đuốc anh ta thấy nó đang
nhả ra từng người lính mà nó vừa nuốt trước đó, từng người bước ra từ
miệng cá, những người này hai mắt đỏ rực, da mặt xanh lét, có người đã
leo lên được tường thành, tìm những tên lính còn sống để cắn, dù bị đạn
bắn xuyên đầu cũng không có cảm giác gì.
Ba người thấy cảnh tượng đó thì hết sức kinh hãi, nghĩ tới chuyện bức tượng phật trong chùa Đại Hộ Quốc là để trấn áp yêu quái, hoá ra những
người này chết đi sống lại kia đều do con cá này nuốt sống rồi biến
thánh xác quỷ, thời đó những sự việc như vậy thường được gọi là xác quỷ. Xác chết đã bị quỷ nhập, chặt gãy đầu vẫn tiếp tục đi. Nghĩ tới đó, mặt ai cũng thất sắc kinh hãi, vội vàng trốn chạy. Thực ra con cá lớn kia
nuốt người không phải để ăn thịt, nó dùng mùi hương thơm dụ dỗ người vào trong bụng để nuốt trứng của nó, sau khi nuốt thì con người trở thành
nơi trú ngự của trứng cá, cho dù có bị chôn trong lòng đất cũng không
chết, không còn có ý thức, chỉ thích hút máu người.
Việc này Dương Phương rất ít gặp, chỉ nghĩ rằng đó là xác quỷ. Nhìn
thấy đường hầm lúc tới đây đã ngập trong nước, xem ra đã tới bước đường
cùng, chỉ còn cách lội trong nước đã ngập tới lưng, cố ra được tới đại
điện, nước nhanh chóng dâng lên ngập tới ngực rồi tới cổ, đuốc đã bị tắt vì ướt, Dương Phương vội bật đèn pin để soi sáng, liều mạng leo lên nóc đại điện, nhìn thấy nước ngập càng lớn hơn, tường thành đã ngập trong
nước, đội quân phiệt tên thì chết tên thì trốn, giờ không còn bóng dáng
đứa nào.
Lúc này, họ bỗng thấy Đồ Hắc Hổ cũng leo lên nóc đại điện. Người này
vốn tính đa nghi, thấy sương mù bay tới thì vội trốn trong khe đất ở
cổng thành cho tới khi sương tan, thấy tình thế nguy hiểm đã qua mới
chui ra leo lên chỗ cao hơn để tránh nước, khó khăn lắm mới thoát được,
súng đã mất, chỉ còn đuốc và đao, bộ dạng hết sức tàn tạ, nhưng gặp lúc
loạn cũng không mất bình tĩnh, vẫn giữ được nét mặt lạnh lùng, thấy ba
người Dương Phương đang trốn ở đỉnh điện, trong tay vẫn còn súng, hắn
vội nấp sau ngách nhà.
Đàm Đài Minh Nguyệt nghiến răng: "Đồ Hắc Hổ mệnh lớn thật, vừa rồi cứ tưởng hắn đã bị cá nuốt rồi". Trong chốc lát cả thành trì đều ngập
trong nước, chỉ còn nóc đại điện nhô lên trên mặt nước. Dương Phương
nói: "Đại điện cũng sẽ nhanh chóng bị chìm thôi, tới lúc đó chúng ta
chẳng ai sống nổi, nhưng nếu tôi không quất được một roi lên đầu tên Đồ
Hắc Hổ thì có chết cũng không thể nhắm mắt được." Đạm Đài Minh Nguyệt
nói: "Được, tôi và Nhị Bảo sẽ đi cùng anh, chúng ta có chết cũng chết
cùng nhau." Dương Phương nói: "Đao pháp của Đồ Hắc Hổ rất lợi hại, hai
người làm sao tiếp cận được hắn, hai người ở phía sau yểm hộ cho tôi là
được." Nói rồi anh chỉnh sửa tư thế, cầm sẵn roi trong tay, tiến thẳng
về chỗ Đồ Hắc Hổ.
Đồ Hắc Hổ ủ mưu đã nhiều năm, cố tìm cho được tòa thành trì này, giờ
chỉ có thể giương mắt ra nhìn tòa bảo điện bằng vàng mà không thể nuốt
trôi. Bày trăm phương nghìn kế tưởng như đã thành công thì trong chốc
lát bỗng thành ra trắng tay, thuộc hạ đều chết hết, ngay cả bản thân
mình cũng khó mà thoát thân, chỉ sợ là do mộ tổ bị đào trộm nên mới xui
xẻo thế này, càng nghĩ càng thấy hận, lại thấy Dương Phương đi tới, hắn
chỉ thẳng vào mặt chửi: "Tên họ Dương kia, ngươi dựa vào chiếc roi đồng, dám đánh tay đôi với tao không?" Dương Phương không nói không rằng, giơ roi lên nhằm đầu Đồ Hắc Hổ quất tới.
Đồ Hắc Hổ phẫn nộ: "Bắt nạt người quá đáng!" hắn nhìn thấy roi đồng
quất tới quá nhanh không kịp tránh, đành phải giơ đao lên đỡ. Roi đồng
của Dương Phương quất lên ngói vàng, chỉ thấy toé lửa, ngói vỡ tan tành. Từ trước đến giờ, khi Dương Phương đã vung tay quất roi đồng, thì không một ai đỡ nổi, ngay cả roi đầu tiên bởi thế anh không khỏi khâm phục
bản lĩnh cao cường của Đồ Hắc Hổ. Thường ngày, Đồ Hắc Hổ tự xưng Thần
dũng, chưa có ai là đối thủ của hắn, giờ đây vì trong tay chỉ có thanh
đao, không thể đấu lại với roi đồng, thân pháp cũng không nhanh nhẹn
bằng Dương Phương, hơn nữa đứng trên nóc đại điện trơn thế này, hắn đã
thất thế hơn Dương Phương rồi.
Đạm Đài Minh Nguyệt và Nhị Bảo phía bên kia của nóc đại điện căng
thẳng nhìn sang. Lúc này, nước vẫn không ngừng dâng lên, rất nhiều xác
quỷ từ dưới nước mò lên lao về phía bốn người, Dương Phương và Đồ Hắc Hổ trong tình thế nguy cấp không thể tiếp tục giao đấu, đành phải buông
tay tự mình ứng chiến với bọn xác quỷ. Nước vẫn tiếp tục dâng, tất cả
đều rút lên nóc điện, tiếng nước vẫn chảy ào ào.
5
Lúc này, bọn xác quỷ đã leo lên đỉnh điện, há to cái miệng đầy máu,
thè lưỡi về phía Nhị Bảo đang đứng đờ người ra. Dương Phương nhanh tay
nhanh mắt, nhảy tới tung roi quất lên đầu tên xác quỷ, hắn bắn tung lên
không trung rồi rơi xuống nước.
Đồ Hắc Hổ nhân lúc Dương Phương cứu người, liền rút đao ra, Đạm Đài
Minh Nguyệt đứng bên cạnh nhìn thấy vội giương súng lên bắn, tiếng nước
ào ào như sấm nuốt chửng tiếng súng, Đồ Hắc Hổ không kịp đề phòng nên
trúng đạn, quá tức giận, trước khi chết cũng muốn kéo theo một người
chết cùng, liền phóng đao về phía Đạm Đài Minh Nguyệt, hai bên đều đứng
trên nóc điện không kịp né tránh, thanh đao đâm thẳng vào bụng cô lút
cán. Lúc này, Dương Phương quất roi nện trúng đầu Đồ Hắc Hổ như bổ dưa
hấu, hắn lăn xuống mép nóc điện rơi xuống nước chìm nghỉm.
Dương Phương thấy Đạm Đài Minh Nguyệt trúng đao vội chạy tới đỡ cô,
Nhị Bảo cũng chạy tới khóc tướng lên, chỉ thấy Đạm Đài Minh Nguyệt mặt
trắng bệch như tờ giấy, tính mạng chỉ còn trong gang tấc, bỗng trời rung đất lở, lớp đất vỏ bọc bên ngoài khu thành trì bị nước lụt ngấm vào trở nên mềm và tơi ra, đổ sụp xuống, để lộ ra bầu trời bên ngoài, nước đổ
vào bên trong ầm ầm như thác, Dương Phương đối diện với sự cố bất ngờ
này cũng không khỏi kinh hãi.
Đúng lúc đó, nước lũ xoáy bật gốc một thân cây rất lớn cuốn vào bên
trong động cát, thân cây va vào nóc đại điện, Dương Phương biết đây là
cơ hội sống sót, giờ còn không chạy thì chờ tới lúc nào nữa? Anh ta vội
túm lấy chân của Nhị Bảo giờ đang sợ mềm nhũn ra, sau đó ôm lấy Đạm Đài
Minh Nguyệt nhảy lên thân cây, vừa rời khỏi nóc đại điện thì nước lụt
cũng nhấn chìm tất cả, hai người ôm chặt lấy thân cây, động cát phút
chốc chìm trong biển nước, thân cây theo dòng nước nổi lên, chỉ thấy
phía trên một màn trời nước, thi thoảng thấy vài điểm đen trôi qua, đều
là xác người và động vật chết đuối.
Trận lụt này đúng là "Tứ bề mênh mang dòng nước, lũ sơn hà khoảnh
khắc bỗng tiên tan", lũ lụt ở hai bờ sông Hoàng Hà lần này còn nghiêm
trọng hơn lần quân phiệt cho mở cửa đập thủy lợi, khắp nơi bị bùn đất
lấp đầy, dòng chảy của sông đổi qua hướng nam, kim bảo điện, tượng phật
trong chùa Đại Hộ Quốc chìm trong bùn nước, vĩnh viễn không có cơ hội
nhìn thấy ánh mặt trời.
Dương Phương thấy thân thế Đạm Đài Minh Nguyệt trong lòng mình đang
lạnh dần, biết là cô đã ra đi, trong lòng đau đớn vô cùng, bất giác hai
dòng nước mắt tuôn rơi. Anh và Nhị Bảo ôm thi thể của Đạm Đài Minh
Nguyệt, chờ cho tới khi nước rút. Thôn làng nơi đây đã bị huỷ hoại hoàn
toàn, số người và súc vật chết nhiều không đếm xuể, dân chạy nạn xếp
hàng dài, khắp nơi toàn là cảnh tượng thê lương.
Mặc dù mưa gió đã tạnh nhưng khắp nơi đều là bùn đất, hai người họ
không màng tới điều đó, tìm đường tránh vùng lũ lụt, qua sông đi lên
phía bắc, tìm nơi cao ráo lập ba ngôi mộ, một ngôi cho Đàm Đài Minh
Nguyệt, hai ngôi còn lại lập cho ông chủ Triệu và Mạnh Bôn. Nhị Bảo ở
lại trông mộ để giữ chữ trung thành với chủ. Dương Phương nghĩ tới việc
tuy đã giết được Đồ Hắc Hổ nhưng số người chết quá nhiều, Thôi lão đạo,
Mạnh Bồn, ông chủ Triệu, Đạm Đài Minh Nguyệt, và cả số lính đã biến
thành người quỷ kia thì tâm trạng bỗng trở nên rất ảm đạm. Một mình tiến thẳng lên phía bắc. Khi ngang qua thị trấn Cao Đài không ngờ gặp lại
Thôi lão đạo, sau khi gặp đại nạn còn sống sót và trùng phùng, hai người kể lại cho nhau nghe những gì mình đã trải qua. Thôi lão đạo rơi xuống
nước nhưng mạng lớn không chết, được người cứu lên, Mạnh Bôn không may
đã bỏ mạng. Ông ta lại lo lắng cho Dương Phương lành ít giữ nhiều, khổ
nỗi không biết đâu mà tìm. Nhớ lại lần đó hẹn nhau ở thị trấn Cao Đài
nên đành tới đây chờ tin tức.
Thôi lão đạo chảy nước mắt nói: "Huynh đệ ta lần này như đi vào chỗ
chết, không ngờ còn sống mà gặp lại nhau, tiếc rằng Mạnh Bôn đã chết
dưới làn súng đạn của lũ quân phiệt, còn bị chặt đầu, số đồ lấy được
trong mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ cũng mất rồi. Xem ra cuộc đời lão đạo ta chẳng làm được gì, động đến việc gì là tự chuốc vạ vào thân, còn liên lụy đến huynh đệ."
Dương Phương có phần chán nản: "Sao huynh trưởng lại nói vậy. Sống
chết có số, phú quý do trời định, không phải do con người muốn mà được.
Đồ Hắc Hổ đã chết trong động cát, chúng ta đã thay trời hành đạo, trừ đi mối họa lớn cho nhân dân."
Thôi lão đạo nghe Dương Phương kể lại mình bị bao vây bên bờ sông ra
sao, rồi thoát xuống động cát và trốn trên nóc điện vàng thế nào, tình
thế giao tranh gay cấn với Đồ Hắc Hổ, rồi chuyện gặp con cá khổng lồ
dưới đó ra sao. Với kinh nghiệm của Thôi lão đạo cũng không phán đoán
được thành trì đó của thời đại nào, chắc của ông vua triều đại nào đó
sùng bái đạo giáo, muốn tu luyện thành tiên, thấy trên trời mây gió biến hoá bất thường nên ra lệnh xây Kim điện bên bờ sông nhằm mời các vị
tiên tới thưởng ngoạn, nào ngờ tiên chẳng thấy đâu còn cung điện bị lún
chìm trong động cát.
Lão lại bảo, đây là trận lụt lớn nhất trong một trăm năm qua, nên giờ chúng ta phải đi đào mộ cổ trên núi lấy báu vật về để trấn áp thiên
tai. Trong "Lăng phả"[1], có ghi chép về ngôi mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ,
tại vị trí giáp ranh hai nước Tân và Tề, trong mộ vàng bạc chất như núi, trong quách là quan tài bằng ngọc, dùng ngọc minh châu thay cho nến,
cũng chẳng biết chủ nhân ngôi mộ là ai mà nhiều đồ tuỳ táng có giá trị
như vậy. Nhưng ngôi mộ chìm dưới nước từ lâu, gặp trận hạn hán trăm năm
mới có một lần thì lộ ra trên mặt nước, cũng biết là nơi đó khó ra tay,
định tìm ngôi mộ khác nhưng lại quá xa. Dương Phương nói: "Đổ đấu mất
nhiều thời gian mà việc tập trung lương thực cứu người dân bị nạn thì
lại cần gấp. Theo ý kiến của đệ thì phủ đệ của Thống đốc quân phiệt
thành Lạc Dương không hề thiếu vàng bạc châu báu. Trong thành tuy có
quân lính canh gác, nhưng chúng ta cũng có nhiều anh em, sao không nhân
cơ hội Đồ Hắc Hổ vừa mới chết, quân phiệt như rắn mất đầu, chúng ta tụ
hội anh em lại, đêm đến lần vào phủ đệ của hắn quét sạch một mẻ, đổi lấy lương thực về cứu tế cho dân bị nạn". Thôi lão đạo thấy ý kiến của
Dương Phương cũng hợp lý nên sau đó họ tụ hợp dân đào trộm mộ đại náo
thành Lạc Dương, chuyện này tạm không nhắc tới. Còn Nhị Bảo thì bái
Dương Phương làm sư phụ. Nhị Bảo vốn chỉ là tên thân mật, tên thật là
Triệu Bảo Nghĩa, chính là lão Nghĩa mù, tính theo thứ bậc thì phải gọi
Thôi lão đạo là sư thúc. Sau này, khi mắt kém, lão không còn làm công
việc đổ đấu nữa, chỉ giám định cổ vật, tôi càng không thể gọi là đồ đệ
của lão Nghĩa mù, chỉ hay đi theo ông, võ vẽ được chút ít, nghe ông kể
về nhũng chuyện đào mộ của lớp người trước, chớp mắt thời gian đã mấy
chục năm, trải qua cả một thế hệ, Thôi lão đạo, Dương Phương đều đã qua
đời, giờ tới lão Nghĩa mù cũng không còn nữa, vài chiêu này của tôi
chẳng là gì cả, lại không biết tí gì về ngôi mộ cổ đó, chẳng hơn thông
tin biết được ở thôn Phi Tiên là bao.
[1] Lăng phả: Những ghi chép về lăng tẩm.
Tôi kể lại câu chuyện cho Điếu bát và Mặt dày nghe, mục đích để học
sớm từ bỏ ý định đó, tôi nói: "Ngôi mộ cổ mà Thôi lão đạo nói với Dương
Phương có thể là địa cung ở núi Hùng Nhĩ được vẽ trên chiếc gối, chúng
ta còn không biết mộ chủ là ai...", nói tới đây tôi chợt nhớ lại ác mộng bên cạnh nữ thi Saman, trong bức bích họa vẽ lại giấc mơ cũng thấy có
quan tài bằng ngọc và tượng vàng, có phải nói về hầm mộ trong núi Hùng
Nhĩ không? Trong cơn ác mộng nghìn năm đó có hình ảnh người chết, đầu
tóc rũ rượi bò từ trong quan quách ra, tôi muốn quên hình ảnh đó đi mà
không thể quên được, nơi đó hẳn lành ít giữ nhiều.
6
Hai người kia ngồi nghe say sưa, mỗi người đều có cảm nhận riêng,
nhưng một khi lòng tham đã nổi lên thì Phật tổ Bồ tát cũng không thể nào khuyên họ quay đầu là bờ được, nói tới nói lui vẫn quay về chủ đề ngôi
mộ ở Dự Tây.
Điếu bát nói: "Nếu bán chiếc gối âm dương này đi, anh em ta mỗi người chia nhau một ít, rồi cũng chẳng được bao nhiêu, giờ có cơ hội phát tài như vậy sao lại phải bỏ qua chứ?". Anh ta quyết tâm chưa thấy Hoàng Hà
chưa thay đổi quyết định, nhất quyết theo vụ này đến cùng, thành bại
cũng chỉ một lần, anh ta chẳng thèm bàn bạc gì với tôi và Mặt dày đã tự
động đập chiếc gối ra và tìm thấy một tấm bản đồ đã cũ ở bên trong, rồi
mở ra cho tôi xem.
Trong tấm bản đồ vẽ hình một cái hồ hai đầu hẹp ở giữa rộng, phía tây giáp với núi Kê Lung, phía đông giáp núi Thông Mã, phía bắc kề với Thảo Hài Lĩnh, ở thế ba phía đều là núi, chính giữa là hồ Tiên Đôn, nằm
trong dãy núi Hùng Nhĩ ở Dự Tây. Trên mặt hồ có đánh dấu khoanh tròn màu đỏ, đó chính là vị trí ngôi mộ cổ địa cung được xây dựng trong núi Tiềm Sơn, ngọn núi đó vốn là một trong những ngọn núi của dải núi trải dài
liên miên của vùng này, nghìn năm trôi qua, vì thay đổi địa chất khiến
ngôi mộ nằm trong lòng hồ trong khu vực núi Dự Tây ít người biết đến,
không có đường đi, phải trèo đèo vượt núi mới có thể tới được.
Tôi vốn bị ám ảnh bởi cơn ác mộng trong ngôi mộ cổ thời Liêu nên sắc
mặt ngày một kém hơn, trong lòng biết chắc ngôi mộ này có gì đó rất cổ
quái, quan ngọc tượng vàng vốn là những thứ hiếm có trên đời, địa cung
xuất hiện trong cơn ác mộng được vẽ trên bích họa tám chín phần là nói
về ngôi mộ cổ ở núi Hùng Nhĩ rồi. Tôi nghĩ gần đây chúng tôi đang gặp
vận xui, họa vô đơn chí phúc bất trùng lai, các cụ đã nói vậy rồi, nhưng đã là phúc thì không phải hoạ, là họa cũng không tránh được. Không tới
hầm mộ đó để tìm hiểu cho ra nhẽ thì có nghĩ nát óc cũng chẳng ích gì,
cuối cùng tôi quay sang bàn bạc với hai người kia.
Tôi nói: "Có được một sự khởi đầu may mắn thì chúng ta đã thành công
một nửa. Lần này đi Dự Tây khác hẳn với lần trước, cần phải chuẩn bị
thật kỹ càng."
Điếu Bát nói: "Cậu nói đúng ý anh, theo cậu chúng ta cần chuẩn bị những gì?"
Không đợi tôi cất lời, Mặt dày đã nói: "Còn phải hỏi, đầu tiên phải
chuẩn bị đủ tiền, binh mã chưa có nhưng lương thảo phải chuẩn bị sẵn,
lương thảo chẳng phải dùng tiền mua sao?"
Điếu bát nói: "Anh em mình giờ sống như buôn đồng nát, tiết kiệm chút đi, thế là cũng đủ rồi, còn chuẩn bị gì nữa?"
Tôi nói: "Đèn pin, lương khô, xẻng... những thứ này đều phải chuẩn
bị, mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ chìm trong nước nhiều năm, cho dù có lộ lên
khỏi mặt nước nhưng bùn đất cũng không ít, không phải một hai hôm mà đào xong ngay được, hơn nữa chúng ta chưa hề biết gì về ngôi mộ, cũng như
về hồ Tiên Đôn, thậm chí mộ đó chôn ai chúng ta cũng không biết."
Điếu bát nói: "Ngôi mộ đó không phải do chúng ta nghĩ ra, sơ đồ do Âm Dương đoan công Chu Ngộ Cát để lại chắc không đến nỗi là giả. Lấy ví
dụ, nếu qua đập Tam Hiệp đi về phía Tây, là đến bến phà Phong Lăng,
thường những địa danh nào có chữ Lăng thì đều có mộ cổ hết, chỉ vì niên
đại quá lâu nên nhiều người không nói rõ được nguồn gốc của cái tên đó
mà thôi, bến Phong Lăng chính là nơi có mộ cổ." Anh ta dừng lại một chút rồi lại tiếp: "Ý của tôi là có thể lai lịch của vị vua chôn trên núi
Hùng Nhĩ đã thất truyền, nhưng ngôi mộ thì vẫn còn tồn tại dưới hồ Tiên
Đôn, truyền thuyết để lại cũng không ít, dưới hầm mộ có tượng vàng tùy
táng, ắt không thể sai được."
Ba chúng tôi mỗi người một câu, bàn bạc với nhau trong quán lẩu từ
trưa cho tới tối, không biết chủ quán phải thay bao nhiêu lần than. Tới
khi trời đã tối hẳn, ngoài đường không còn ai, ông chủ quán cũng mất hết nhẫn nại: "Mấy người cũng giỏi buôn chuyện quá đi, nếu biết mấy người
có cái tài này thì lúc đàm phán Trung - Anh đã đề cử mấy người đi rồi,
muốn qua đêm cũng đừng chọn quán tôi, mau tính tiền rồi đi đâu thì đi."
Chúng tôi bị chủ quán đuổi ra, trong lòng không được thoải mái cho
lắm, nhưng giờ không phải lúc gây chuyện phiền phức, đành quay về chia
nhau chuẩn bị, đầu tiên là phải kiếm cho đủ tiền đi đường. Tôi đi một
chuyến Độc Thạch Khẩu, lấy ít tiền về cho Mặt dày sắp xếp việc gia đình, còn vấn đề nữa là tuy ở đó hay nổ mìn núi đá, thuốc nổ nhiều nhưng quản lý rất nghiêm ngặt, khó lấy được thuốc nổ hoặc mìn, tôi tìm người quen
mới lấy được hai khẩu súng ngắn, đó là loại súng người dân tự chế để bắn gà rừng. Tôi nghĩ núi Hùng Nhĩ không giống như Thông Thiên Lĩnh, nơi đó rừng sâu núi thẳm, thú dữ lảng vảng khắp nơi, không mang theo khẩu súng phòng thân thì không an toàn, súng tự chế của người dân Độc Thạch Khẩu
bắn bằng đạn chì, sức sát thương không lớn, nhưng có còn hơn không,
chúng tôi tháo súng ra xếp dưới đáy bao hành lý, để tránh bị phát hiện
lúc trên tàu.
Về nhà, tôi nhận được thư của Sách Ni Nhi, trong thử gửi kèm một gói
nấm mật Armillaria, tôi đang định đọc thư thì Điếu bát đã mua được vé
tàu, chúng tôi ngồi tàu tới Nam Dương trước, sau đó đi theo hướng đập
nước Áp Hà Khẩu để lên núi. Vì tuyến đường này ít chuyến tàu chạy nên
người đi rất đông, trong tàu chen chúc chật chội, lúc tàu đi ngang cầu
bắc ngang sông Hoàng Hà, tôi cố vươn người ra cửa sổ để nhìn ra ngoài,
ánh chiều đã ngả về Tây, dòng sông dưới ánh nắng chiều trải dài như một
chiếc đai ngọc, cảnh đẹp khó có thể miêu tả bằng lời. Trời chiều nhanh
chóng chuyển sang màu ảm đạm, tối dần rồi đen hẳn một màu. Tôi lấy bức
thư của Sách Ni Nhi ra đọc, mơ màng nhớ lại lúc cùng cô đi săn trong
rừng, rồi không biết tự lúc nào hình ảnh bức bích họa trong ngôi mộ cổ
thời Liên về cơn ác mộng nghìn năm bỗng hiện về trong đầu, một người tóc tai rũ rượi, bụng thủng lòi ruột bò ra từ trong quan tài, tay vươn về
phía tôi, tôi kinh hãi vô cùng, vội giơ tay lên đỡ, mu bàn tay chạm vào
móng của con ma đó, cảm thấy một luồng gió âm lạnh tới thấu xương, vừa
lúc tàu vào ga, tôi thức tỉnh vì bị chúi người về phía trước do tàu
phanh giảm tốc độ. Trán đẫm mồ hôi, tôi biết mình lại mơ giấc mơ đó, cúi đầu nhìn xuống tay mình thấy có những vết xước đang rỉ máu.