Vào hai giờ chiều hôm đó, Dain đứng cùng vợ chàng ở trên đỉnh một mỏm đá nhìn xuống vùng đồng cỏ.
Nàng đã đề nghị chàng đưa nàng đến những tảng đá Haytor sau bữa trưa. Vẻ xanh xao và những nếp nhăn mệt mỏi quanh mắt và miệng nàng đã bảo cho chàng biết nàng không màng đến độ dốc – hay thời tiết, vì thậm chí giữa tháng bảy, vùng đồng cỏ này vẫn có thể lạnh và ẩm ướt đến cóng xương. Dọc đường bờ biển phía nam Devon, những bông hoa cận nhiệt đới và cây cỏ trổ bông như trong phòng sấy. Dartmoor lại là một chuyện hoàn toàn khác. Nó tạo nên thời tiết của riêng mình, và những gì diễn ra ở vùng cao nguyên chả liên quan gì mấy thậm chí với thời tiết trong một thung lũng cách nó có hai dặm.
Dù vậy Dain đã giữ kín mối lo lắng ấy. Nếu Jessica muốn trèo lên đỉnh ngọn núi vĩ đại nhất mọc lên trên đồng cỏ, thì nàng cũng có lý do chính đáng. Nếu chàng hy vọng chữa lành những tổn thương giữa họ, chàng phải cho thấy chút bằng chứng về việc tin tưởng óc phán xét của nàng.
Nàng đã nói, phải không nào, rằng nàng phát chán sự hoài nghi của chàng…bên cạnh vô vàn thứ khác.
Và giờ chàng cũng ngậm chặt lưỡi mình lại, thay vì bảo nàng rằng nàng sẽ ấm áp dưới sự che chở của những tảng đá vĩ đại hơn là trên mép một gờ đá, hứng mặt ra trước những luồng gió lạnh buốt.
Cơn gió hung dữ đã nổi lên khi họ đến tảng đá granit khổng lồ nhô lên trên đỉnh ngọn đồi. Những đám mây đang cuồn cuộn thành những ụ xám nguy hiểm, hứa hẹn một cơn bão cho Dartmoor – trong khi vài dặm về phía tây, ở Athcourt, không nghi ngờ gì vào lúc này mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ.
“Em đã nghĩ nó sẽ giống như vùng đồng cỏ ở Yorkshire,” nàng nói. Ánh mắt nàng quét qua vùng đất rải rác đá phía dưới. “Nhưng nó dường như hoàn toàn khác biệt. Nhiều đá hơn…. Mãnh liệt hơn.”
“Dartmoor về cơ bản là một đống đá,” chàng nói. “Theo như gia sư của ta, nó là một phần của chuỗi đứt gẫy mở rộng tới tận quần đảo Scilly. Một một phần tươi tốt của nó hoàn toàn từ chối việc trồng trọt, vì thực vật, ta được biết là, chứng minh cực kỳ rõ ràng. Ngoài kim tước và thạch nam không nhiều loại đủ cứng đầu để kịp bám rễ. Những thảm màu xanh duy nhất -” Chàng chỉ về vùng màu xanh tươi tốt ở xa. “Đó, lấy ví dụ. Trông như một ốc đảo trong sa mạc khô cằn, không phải sao? Nhưng khá nhất, thì đó là đầm lầy. Còn tệ nhất, thì là cát lún. Đó chỉ là một mảnh nhỏ thôi nhé. Vài dặm về phía tây bắc là Grimspound Bog, chỉ một trong rất nhiều bãi cỏ ở đó thôi cũng có thể nuốt chửng hết cả cừu, bò, và một người nữa.
“Nói cho em xem chàng cảm thấy thế nào, Dain,” nàng nói, không hề rời mắt khỏi khung cảnh gồ ghề trải dài bên dưới họ, “nếu chàng biết được rằng một đứa trẻ đã bị bỏ mặc lang thang ở vùng đồng cỏ này, không ai chú ý, hàng ngày trời, thậm chí là hàng tuần trời.”
Khuôn mặt u ám, sưng sỉa của một đứa trẻ hiện lên trong mắt chàng.
Những giọt mồ hôi lạnh giá toát ra trên da chàng và một gánh nặng khổng lồ lấp đầy bên trong chàng, như thể chàng vừa nuốt chì xuống.
“Chúa ơi, Jess.”
Nàng quay lại và ngước nhìn chàng. Dưới chiếc mũ rộng vàng, mắt nàng cũng tối đen như những đám mây xám xịt trên đầu. “Chàng biết em ám chỉ đứa trẻ nào, phải không?”
Chàng không thể giữ mình đứng thẳng dưới sức nặng bên trong. Tay chân chàng run rẩy. Chàng ép mình phải quay đi, tới bên tảng đá lớn. Chàng đặt nắm tay mình trên mảnh granit chết tiệt và gục cái trán nhức nhối trên xuống đó.
Nàng đến bên chàng. “Em đã hiểu nhầm,” nàng nói. “Em cứ nghĩ sự thù địch của chàng hướng đến mẹ cậu bé. Do đó, em đã chắc chắn rằng chàng sẽ sớm hiểu ra đứa trẻ quan trọng hơn nhiều một cơn oán giận cũ xì. Những người đàn ông khác có vẻ dễ dàng xoay xở với những đứa con ngoài giá thú của mình, thậm chí còn tự hào về chúng. Em cứ nghĩ chàng chỉ đơn thuần là cứng đầu thôi. Nhưng điều đó, rõ ràng là không phải trường hợp này. Nó dường như là một vấn đề có tầm cỡ thế giới.”
“Phải.” Chàng nuốt xuống một hớp không khí nhói buốt. “Ta biết, nhưng ta không thể nghĩ thông suốt. Đầu ta … bị tắc, tê liệt.” Chàng nặn ra một tiếng cười ngắn ngủi. “Thật lố bịch.”
“Em đã không biết gì cả,” nàng nói. “Nhưng ít nhất giờ thì chàng đang kể cho em. Đó là tiến bộ. Thật không may, nó không hữu ích lắm. Em đang vướng phải một điều đã dự đoán trước, Dain. Em đã chuẩn bị để hành động, tất nhiên, nhưng em không thể làm mà không báo cho chàng về tình huống này.”
Những đám mây đang phun xuống những hạt mưa lạnh giá, mà những luồng gió mạnh đang đập vào cổ chàng. Chàng ngẩng đầu dậy và quay sang nàng. “Chúng ta nên quay lại xe, trước khi nàng nhiễm phải một cơn sốt chí tử.”
“Em đã mặc rất ấm,” nàng nói. “Em biết có thể trông chờ gì từ thời tiết.”
“Chúng ta có thể thảo luận chuyện này ở nhà,” chàng nói. “Trước một ngọn lửa ấm áp. Ta thích được về đó trước khi thiên đường mở ra và trút nước xuống chúng ta.”
“Không!” nàng hét lên, giậm chân. “Chúng ta không thảo luận gì hết! Em sẽ nói và chàng sẽ nghe! Và em cóc thèm quan tâm nếu chàng có bị viêm phổi và cả ho gà nữa. Nếu cậu nhóc bé bỏng đó có thể chịu đựng vùng đồng cỏ này – một mình – mặc giẻ rách và đôi bốt thủng lỗ chỗ, mà không có gì trong bụng ngoài những thứ cậu bé có thể ăn trộm để nhét vào, vậy thì chàng cũng có thể chịu đựng nó rất tốt chứ!
Một lần nữa khuôn mặt ấy lóe lên trong tâm trí chàng.
Sự khiếp sợ, chua chát và dày đặc, đang dâng lên trong chàng. Dain bắt mình vét thêm không khí, trong những hơi thở dài, nặng nề.
Phải, chàng có thể chịu đựng nó rất tốt. Chàng đã bảo nàng cách đây hàng tuần trời là dừng ngay việc đối xử với chàng như trẻ con đi. Chàng đã muốn nàng dừng ngay việc cư xử như một người máy hòa nhã. Chàng đã nhận được điều ước của mình, và chàng biết giờ thì chàng có thể và sẽ chịu đựng bất kỳ thứ gì, chừng nào nàng còn không bỏ rơi chàng.
“Ta đang nghe đây,” chàng nói. Chàng dựa vào tảng đá.
Nàng nghiên cứu chàng với đôi mắt lo lắng. “Em không phải đang cố dạy dỗ chàng, Dain, và nếu em có chút manh mối xem vấn đề của chàng là gì thôi, em sẽ cố giúp đỡ. Nhưng điều đó rõ ràng là cần rất nhiều thời gian, mà thời gian lại không hề có. Vào lúc này, con trai chàng đang tuyệt vọng cần sự giúp đỡ hơn chàng nhiều.”
Chàng bắt mình tập trung vào những từ ngữ, và đẩy cái hình ảnh buồn nôn ra tận cùng tâm trí. “Ta hiểu. Trên đồng cỏ, nàng đã nói thế. Tự mình. Không chấp nhận được. Khá đúng.”
“Và do đó chàng phải hiểu rằng khi em nghe về điều ấy, em buộc phải hành động. Vì chàng đã làm rõ là mình không muốn nghe gì về cậu bé hết, em buộc phải hành động sau lưng chàng.”
“Ta hiểu. Nàng không có lựa chọn.”
“Và giờ em sẽ không làm chàng đau khổ, nếu em buộc phải làm gì đó mà chàng có thể không bao giờ tha thứ.”
Chàng nuốt cơn buồn nôn và cả lòng kiêu hãnh xuống cùng một lúc. “Jess, điều duy nhất không thể tha thứ mà nàng có thể làm là rời bỏ ta,” chàng nói. “Se mi lasci mi uccido. Nếu nàng rời bỏ ta, ta sẽ tự giết mình.”
“Đừng có lố bịch thế,” nàng nói. “Em sẽ không bao giờ bỏ chàng. Thực đấy, Dain, em không hiểu chàng kiếm đâu ra những ý nghĩ dở hơi như thế nữa.”
Rồi, như thề điều đó giải thích và dàn xếp ổn thoải mọi thứ, nàng nhanh chóng quay lại chủ đề chính, và kể cho chàng biết những gì xảy ra hôm đó: cách nàng đuổi theo con quái vật tới hang ổ của nó – trong vườn hoa của chính Dain, không khác, nơi thằng quỷ nhỏ đã đột nhập vào nhà hóng mát, và không ít thì nhiều đã sống ở đó ít nhất là cuối tuần qua.
Cảm giác buồn nôn của Dain nhanh chóng dịu đi, và cả sức nặng không thể chịu được đi cùng, bị quấn đi trong một cơn thủy triều hoài nghi choáng váng. Tên nòi giống ác quỷ chàng tạo ra với Charity Graves đã khủng bố ngôi làng của chính chàng, lẩn trốn trong vườn hoa của chính chàng – và Dain chẳng hề nghe đến một từ nào về nó.
Không nói được gì, chàng chỉ có thể há hốc mồm với vợ chàng trong lúc nàng lanh lẹ kể tới việc nàng tóm giữ thằng bé, và tiếp tục miêu tả cuộc chạm trán với mẹ thằng nhóc.
Trong lúc ấy, không khí quanh họ đã tối sầm lại một cách đáng ngại. Cơn mưa lác đác đã biến thành một cơn mưa rào. Dưới cơn mưa ấy, sợi lông và ruy băng trang trí mũ nàng đã ướt đẫm và rủ xuống, bám chặt lấy vành mũ. Nhưng Jessica chả để ý đến tình trạng chiếc mũ của nàng cũng như cơn gió dồn dập dữ dội, cơn mưa nặng hạt, và cái đám đen xì xoay vần trên đầu họ.
Nàng đã đến được điểm cốt yếu trong câu chuyện của mình, và đó là tất cả những gì làm nàng bận tâm lúc này. Một nếp nhăn đã xuất hiện giữa đôi lông mày nhướn lên thanh tú của nàng và ánh mắt nàng đã rơi xuống đôi bàn tay siết chặt.
“Charity muốn chiếc biểu tượng để đổi lấy cậu bé,” nàng nói. “Nếu không, nếu em cố giành lấy cậu bé, cô ta đe dọa sẽ làm ầm lên – bởi vì điều đó sẽ đưa chàng vào chuyện này, và cô ta biết chàng sẽ gửi nó – và cô ta – đi xa. Nhưng điều đó em không thể cho phép, và em đưa chàng đến đây để nói với chàng như vậy. Em sẽ tìm ra một cách để giữ thằng bé tránh khỏi tầm mắt chàng, nếu chàng cứ khăng khăng. Tuy nhiên em sẽ không để nó đi cùng với bà mẹ vô trách nhiệm của mình tới Luân Đôn, nơi thằng bé sẽ rơi vào bàn tay của lũ móc túi, đồi trụy, và giết người.”
“Biểu tượng ư?” chàng nói, hầu như không để ý đến phần còn lại. “Ả điên đó muốn đức mẹ đồng trinh của ta ư – một tác phẩm Stroganov – cho thứ bé nhỏ gớm ghiếc đó -”
“Dominick không hề gớm ghiếc,” Jessica nói sắc nhọn. “Phải, cậu bé đã cư xử tồi tệ, nhưng đầu tiên cậu bé không hề nhận được sự giáo dục nào ở nhà và thứ hai cậu bé đã bị trêu ghẹo rất nhiều. Cậu bé một cách vui sướng không hề nhận thức được mình là một đứa con hoang, hay ý nghĩa của từ đó, cũng như cậu bé không lĩnh hội được ý nghĩa công việc của mẹ mình – cho đến khi cậu bé đến trường học, nơi lũ trẻ trong làng làm sáng tỏ cho cậu bé theo một cách thô lỗ nhất. Cậu bé đã, sợ hãi và bối rối, và đau đớn nhận thức được rằng mình không giống những đứa trẻ khác – và không ai muốn cậu cả.” Nàng dừng lại. “Ngoại trừ em. Nếu em giả vờ là mình không muốn cậu nhóc, mẹ cậu bé có thể không đòi hỏi nhiều đến thế. Nhưng em không thể giả vờ, và tăng thêm nỗi đau khổ của đứa trẻ.”
“Quỷ bắt đứa con hoang đen đủi đó đi!” chàng hét lên, quay khỏi tảng đá. “Ả điên đó sẽ không có chiếc biểu tượng của ta đâu!”
“Vậy thì chàng sẽ phải tự mình lấy đứa trẻ khỏi cô ta,” Jessica nói. “Em không biết nơi cô ta đang trốn, nhưng em cực kỳ nghi ngờ chuyện cô ta sẽ bị tìm ra trong vòng hai tư giờ. Tức là phải có ai đó ở trạm dừng Postbridge sáng sớm mai. Nếu ai đó không phải là em, với chiếc biểu tượng, thì phải là chàng.”
Chàng mở miệng định thốt ra một tiếng rống tức giận, rồi ngậm lại và thay vào đó đếm tới mười.
“Nàng đang đề nghị,” chàng nói đều đều, “ta đi xuống Postbridge lúc rạng sáng…và kiên nhẫn chờ đợi Charity Graves đến…và ở đó, trước một đám thất học, thương thảo với cô ta?”
“Chắc chắn là không,” Jessica nói. “Chàng không cần thương thảo. Cậu bé là con trai chàng. Tất cả những gì chàng phải làm là mang cậu nhóc đi, và cô ta chẳng làm gì được về chuyện đó hết. Cô ta không thể tuyên bố rằng mình bị chơi khăm – như cô ta có thể dễ dàng làm nếu bất kỳ ai đó ngoài chàng thử làm thế.”
“Mang nó đi – chỉ thế thôi? Trước mặt tất cả mọi người?”
Nàng trừng mắt nhìn chàng dưới chiếc mũ ướt sũng. “Em chẳng hiểu sao nó lại gây sốc đến thế. Em chỉ đơn giản gợi ý chàng cư xử theo lề thói thông thường của chàng. Chàng bước vào, tiếp quản và bảo Charity phiến đi. Và mặc xác mọi người nghĩ gì.”
Chàng dai dẳng bám lấy mối đe dọa bị tước lấy quyền lực. “Jessica, ta không phải thằng ngốc,” chàng nói. “Ta thấy rõ nàng âm mưu điều gì. Nàng đang…kiểm soát ta. Ý tưởng về việc đạp Charity Graves xuống có vẻ hấp dẫn không cưỡng lại được. Bên cạnh đó, còn hợp logic hoàn hảo, vì ta không có ý định từ bỏ chiếc biểu tượng của mình. Mà ta cũng sẽ không làm.”
“Em nhận thức rõ điều đó,” nàng nói. “Đó là lý do em không thể lấy trộm nó. Em không thể tin là người phụ nữ đó thực sự nghĩ rằng em sẽ làm thế. Nhưng cô ta hoàn toàn phi đạo đức, và em dám nói từ ‘phản bội’ chằng có nghĩa lý gì với cô ta.”
“Nhưng nàng vẫn có ý định lấy biểu tượng đi nếu ta không làm như nàng nói.”
“Em phải. Nhưng em không thể làm thế mà không nói cho chàng.”
Chàng nâng cằm nàng lên bằng khớp đốt ngón tay và, cúi đầu xuống, nhìn nàng cứng rắn.
“Liệu nàng đã nghĩ đến, Quý cô Logic, rằng ta sẽ không để nàng mang nó đi?”
“Em có nghĩ đến chuyện chàng có thể cố ngăn em lại,” nàng nói.
Với một tiếng thở dài chàng thả cằm nàng ra và quay ánh mắt lên đống đá granit khổng lồ. “Ta cho rằng, rồi ta sẽ có cùng cái thành công mà ta sẽ có trong việc cố thuyết phục tảng đá này lăn xuống Dorset.”
Dain nghe thấy một tiếng ầm nhỏ ở xa xa, như thể chính đáng tối cao cũng đồng ý rằng tình huống đó là hoàn toàn vô vọng.
Chàng cảm thấy cũng bối rối, tức giận và vô dụng như khi ở Paris, khi một cơn bão khác cũng đã cuồn cuộn hướng về phía chàng.
Chàng thậm chí không thể nghĩ về thứ đáng ghét chàng đã tạo ra với Charity Graves mà không trở nên phát ốm. Nhân danh Lucifer làm thế quái nào mà chàng có thể tới chỗ nó, nhìn nó, nói chuyện với nó, chạm vào nó, và đưa cái thứ đó vào dưới sự che chở của chàng?
Bão Haytor theo họ quay lại Athcourt. Nó đập trên mái nhà, nện vào cửa sổ, và lóe lên những tia chớp ma quỷ thắp sáng cả ngôi nhà với ánh sáng trắng chói lòa.
Những ai nghe thấy Đức hầu tước nổi cơn thịnh nộ xuyên suốt ngôi nhà có thể dễ dàng tin rằng chàng thực sự là Quỷ xa tăng, với cơn thịnh nộ có thể dễ dàng khuấy đảo từng tế bào của họ.
Nhưng rồi, Jessica nghĩ, Dain không xoay xở những vấn đề về cảm xúc giỏi cho lắm. Chàng chỉ có ba phương pháp để giải quyết ‘mối phiền muộn’: hạ gục nó, không có tác dụng, chàng thất bại. Và do đó chàng nổi cơn tam bành.
Chàng phẫn nộ với người hầu vì họ không đủ nhanh trong việc giúp vợ chàng thoát khỏi đống vải vóc ướt át bên ngoài, và rồi để mọi thứ rải nước trên sàn đá của tiền sảnh – như thể quần áo sũng nước không được phép nhỏ giọt hay đôi bốt đầy bùn để lại dấu chân bẩn thỉu.
Chàng lên cơn vì bồn tắm của họ chưa được mang đến, nóng hổi và sẵn sàng ngay khi họ lên phòng – như thể có người sẽ biết được chính xác giây phút hầu tước và phu nhân quay về vậy. Chàng rống lên vì đôi bốt của chàng bị hư hại – như thể chàng không có đến ít nhất cả tá đôi.
Jessica nghe thấy giọng nói tức giận của chàng ầm ầm khắp các bức tường trong khi nàng tắm, thay đồ và tự hỏi liệu Andrews bị mắng mỏ, tội nghiệp cuối cùng có xin thôi việc không.
Nhưng bồn tắm của Dain hẳn phải làm chàng dịu xuống một hoặc hai độ, vì đến lúc chàng bước vào phòng của nàng, tiếng voi rống tức giận inh tai đã giảm xuống thành một tiếng gầm gừ, và nét mặt sấm sét đã mềm lại thành một cái quắc mắt gắt gỏng.
Chàng bước vào với cánh tay què quặt trên băng đeo. “Sự điều chỉnh,” chàng nói sau khi Bridget đã không ngoan chạy đi mà không chờ bị đuổi ra. “Hôn nhân đòi hỏi những sự điều chỉnh chết tiệt. Nàng muốn một cái băng đeo, Jess, nàng có một cái băng đeo.”
“Nó không làm hỏng nếp áo khoác của chàng,” nàng nói, quan sát chàng với đôi mắt chỉ trích. “Trông nó khá là táo bạo, thực vậy.” Nàng không nói thêm rằng trông như thể chàng có ý định đi ra ngoài, vì chàng mặc đồ để cưỡi ngựa.
“Đừng nhạo báng ta,” chàng nói. Rồi chàng bước vào phòng khách của nàng, lấy bức chân dung của mẹ chàng ra khỏi giá vẽ, mang nó ra ngoài – và tiếp tục đi về phía cửa.
Nàng theo chàng xuống lối đi, xuống cầu thang phía nam, vào phòng ăn.
“Nàng muốn Mama trong phòng ăn,” chàng nói. “Mama treo trong phòng ăn.”
Chàng đặt bức vẽ dựa vào một cái ghế và kéo dây chuông. Một người hầu ngay lập tức xuất hiện.
“Bảo Rodstock ta muốn cái bức tranh phong cảnh chết tiệt xuống và bức chân dung thế vào chỗ của nó,” Dain nói. “Và bảo ông ấy ta muốn nó xong ngay bây giờ.”
Người hầu ngay lập tức biến mất.
Dain đi ra khỏi phòng ăn và băng qua hành lang ngắn tới phòng làm việc.
Jessica nhanh chóng đi theo chàng.
“Bức chân dung trông sẽ rất đẹp trên lò sưởi,” nàng nói. “Em đã thấy một bộ rèm đáng yêu ở tháp bắc. Em sẽ cho chúng sạch sẽ rồi treo trong phòng ăn. Chúng sẽ bổ sung cho bức chân dung tốt hơn những thứ có ở đó.”
Chàng đã đi tới bàn, nhưng không ngồi xuống. Chàng đứng trước nó, nửa quay về phía nàng. Cằm chàng cứng ngắc, mắt nhắm lại.
“Ta tám tuổi,” chàng nói sin sít. “Ta đã ngồi đó.” Chàng gật đầu về phía cái ghế phía trước bàn. “Bố ta ngồi đó.” Chàng hướng về chỗ bình thường của chàng. “Ông bảo mẹ ta là người đàn bà độc ác, rằng lũ chó sẽ ăn thịt bà. Ông bảo ta bà đang trên con đường tới địa ngục. Đó là tất cả những lời giải thích ông cho ta về sự ra đi của bà.”
Jessica cảm thấy máu rút hết khỏi mặt nàng. Nàng cũng phải quay đi để lấy lại vẻ bình tĩnh của mình. Điều đó thật không dễ dàng.
Nàng đã đoán rằng bố chàng đã rất cay nghiệt, thù hằn. Nàng chưa bao giờ tưởng tượng ra rằng ông ta – rằng có bất kỳ người cha nào – lại có thể độc ác nhẫn tâm đến thế….đối với một cậu bé….bối rối, sợ hãi, đau lòng vì người mẹ bị mất đi của mình.
“Bố chàng đã tức giận và bẽ bàng, không nghi ngờ gì.” Nàng bắt mình nói đều đều. “Nhưng nếu ông ấy thực sự quan tâm đến bà, ông ấy hẳn sẽ đuổi theo bà, thay vì trút tâm trạng uất ức của mình lên chàng.”
“Nếu nàng bỏ chạy,” Dain nói dữ dội. “Ta sẽ săn đuổi nàng. Ta sẽ theo nàng đến tận cùng trái đất.”
Nếu nàng có thể xoay xở để không ngã xuống vì choáng váng khi chàng đe dọa sẽ tự giết mình vì nàng, nàng cũng có thể xoay xở vào lúc này, nàng tự bảo mình.
“Vâng, em biết điều đó,” nàng nói. “Nhưng cha chàng là một người đàn ông già nua khốn khổ, cay đắng đã cưới nhầm một người phụ nữ, và chàng thì không. Rõ ràng bà ấy rất bướng bỉnh – chàng đã lấy cái tính ấy từ bà, và em sẽ không bao giờ cho phép chàng khiến em khốn khổ.”
“Cũng như nàng sẽ không cho phép ả đàn bà chết tiệt ấy mang dòng giống Sa tăng của ả tới Luân đôn quỷ quái.”
Jessica gật đầu.
Chàng dựa lại vào cái bàn và trừng mắt nhìn tấm thảm. “Nàng có nghĩ rằng, có lẽ, đứa trẻ đó có thể muốn đi cùng – mẹ của cái thứ – của nó. Rằng một sự việc như thế có thể…” Chàng lạc giọng, tay chàng đấm xuống mép bàn khi chàng tìm một lời.
Chàng không phải nói hết. Nàng biết chàng ám chỉ tới trường hợp của chính chàng: rằng sự ruồng bỏ của mẹ chàng đã phá hủy chàng…và chàng vẫn chưa hoàn toàn hồi phục lại.
“Em biết điều đó sẽ đau đớn,” Jessica nói. “Em đã đề nghị mẹ cậu bé cố chuẩn bị cho cậu. Em đã gợi ý cô ta giải thích rằng nơi cô ta sắp đi sẽ quá nguy hiểm cho một cậu nhóc và tốt hơn hết là để cậu bé lại nơi cậu sẽ an toàn, và nơi cô ta chắc chắn cậu bé sẽ được chăm sóc.”
Chàng nhìn nàng một cái thật nhanh. Rồi ánh mắt chàng lại rơi xuống tấm thảm.
“Em ước gì điều đó là sự thật,” Jessica nói. “Nếu cô ta thực sự yêu cậu bé, cô ta sẽ không bao giờ đem cậu bé vào nguy hiểm. Cô ta sẽ đặt lợi ích của thằng bé lên hàng đầu – như mẹ chàng đã làm,” nàng cả gan thêm vào. “Bà ấy đã không lôi một cậu nhóc bé nhỏ lên một chuyến hải trình nguy hiểm, mà không có sự đảm bảo nào mà bà có thể mang đến cho cậu – nếu, đó là, cậu bé làm sao đó để sống sót sau cuộc hành trình. Nhưng trường hợp của bà thật đáng thương, và người ta phải đau lòng vì bà. Charity Graves…ah, chà, theo một cách nào đó cô ta cũng là một đứa trẻ.”
“Mẹ ta là một nữ anh hùng đáng thương và Charity Graves là một đứa trẻ,” Dain nói. Chàng rời khỏi mép bàn và đi ra sau nó, không phải đến chỗ ghế mà ra cửa sổ. Chàng nhìn ra ngoài.
Cơn bão đang dịu đi, Jessica chú ý thấy.
“Charity muốn quần áo đẹp, đồ nữ trang và sự chú ý của toàn bộ đàn ông quanh vùng,” nàng nói. “Với vẻ ngoài và trí óc của cô ta – và cả sức quyến rũ nữa, vì cô ta có điều đó, em phải thú nhận – giờ này cô ta có thể đã là một gái điếm hạng sang của Luân đôn, nhưng cô ta quá lười biếng, một sinh vật quá cơ hội.”
“Phải cái sinh vật cơ hội đó đang chú tâm vào biểu tượng của ta, nàng đã thông báo cho ta trên đường về nhà,” chàng nói. “Mà cô ta chưa bao giờ nhìn thấy. Và cô ta đã nghe về sự tồn tại của nó dựa vào lời nói của một tên dân làng ngu ngốc đã nghe điều ấy từ một ai đó khác, người lại nghe điều ấy từ một trong những người hầu của ta. Tuy nhiên cô ta bị thuyết phục rằng thứ đó đáng giá hai mươi nghìn bảng. Con số mà, cô ta đã bảo nàng, là thứ trao đổi duy nhất mà nàng có thể - và nàng tốt hơn hết là nên chuẩn bị bằng đồng vàng, bởi vì cô ta không tin vào giấy má. Ta muốn được biết ai đặt cái hai mươi nghìn bảng đó vào đầu cô ta.”
Jessica đến với chàng bên cửa sổ. “Em cũng muốn, nhưng chúng ta không có thời gian để tìm ra, phải không nào?”
Với một tiếng cười ngắn, chàng quay sang nàng. “Chúng ta ư? Không phải ‘chúng ta’ nào hết, như nàng biết rất rõ. Đó là ‘Dain’, anh chàng sợ vợ, đáng khinh phải làm chính xác như vợ bảo, nếu anh ta biết điều gì là tốt cho mình.”
“Nếu chàng sợ vợ, chàng sẽ tuân lời em một cách mù quáng,” nàng nói. “Nhưng không phải chút nào. Chàng tìm kiếm lời giải thích cho động cơ của em, và giờ chàng đang cố tìm ra động cơ của Charity. Chàng cũng đang chuẩn bị để xoay xở với con trai chàng. Chàng đang cố đặt mình vào vị trí của cậu bé, để chàng có thể nhanh chóng hiểu bất kỳ phản ứng khó chịu nào và đáp lại một cách thông minh và hiệu quả.”
Nàng đến gần hơn và vỗ vào cổ áo chàng. “Tiếp tục nào. Hãy bảo em rằng em đang ‘nhạo báng’ chàng hoặc ‘kiểm soát’ chàng hoặc bất kỳ một thứ khó chịu nào em đang làm giống các bà vợ thường làm.”
“Jessica, nàng là một cái nhọt ở mông, nàng biết điều đó chứ?” Chàng cau mày với nàng. “Nếu ta không thích nàng vô cùng, ta sẽ ném nàng qua cửa sổ rồi.”
Nàng ôm lấy eo chàng và dựa đầu vào ngực chàng. “Không phải chỉ là ‘thích,’ mà là ‘thích vô cùng.’Oh, Dain, em tin rằng mình sẽ ngất mất.”
“Không phải bây giờ,” chàng nói cáu kỉnh. “Ta không có thời gian nhặt nàng lên đâu. Bỏ ta ra, Jess. Ta phải đi Postbridge chết tiệt.”
Nàng rụt về ngay lập tức. “Bây giờ á?”
“Tất nhiên là bây giờ.” Chàng lách đi. “Ta sẽ đánh cược với nàng với bất kỳ giá nào rằng ả điên đó đã ở đó rồi – và ta càng giải quyết xong cái chuyện vớ vẩn chết tiệt này sớm chừng nào, thì tốt chừng đó. Cơn bão đang dịu bớt, tức là ta sẽ có chút ánh sáng trong có vài giờ nữa thôi. Tức là ta không thích phải cưỡi ngựa xuống mương và gãy cổ.” Chàng nhanh chóng đi qua cái bàn và hướng về phía cửa.
“Dain, cố đừng có tức giận với họ,” nàng nói với theo chàng.
Chàng dừng lại và ném cho nàng một cái nhìn bực tức.
“Ta cứ nghĩ mình sẽ phải tàn sát cô ta,” chàng nói.
“Phải, nhưng cố đừng làm đứa bé hoảng sợ. Nếu cậu bé bỏ chạy, chàng sẽ phải điên lên với việc tóm được cậu bé đấy.” Nàng đi nhanh về phía chàng. “Có lẽ em nên đi cùng.”
“Jessica, ta có thể giải quyết chuyện này,” chàng nói. “Ta không phải quá kém cỏi đâu.”
“Nhưng chàng không quen với việc xoay xở với lũ trẻ,” nàng nói. “Đôi khi cách cư xử của chúng có thể rất khó hiểu.”
“Jessica, ta sẽ đi mang thằng quỷ con đó về,” chàng nói dứt khoát. “Ta sẽ không khó hiểu bất kỳ cái gì hết. Ta sẽ nhặt thằng bé và mang nó về cho nàng, và nàng có thể khó hiểu với nó tùy ý.”
Chàng đi tới cửa và giật nó ra. “Để bắt đầu, nàng có thể tìm ra xem phải làm gì với thằng bé, bởi vì ta sẽ treo cổ nếu ta biết tí gì.”
Dain quyết định mang người đánh xe đi cùng, nhưng không phải cả cỗ xe nữa. Phelps biết mọi con đường, ngõ ngách, và hẻm hốc ở Dartmoor. Thậm chí nếu cơn bão có to lên và hướng về phía tây cùng với họ, Phelps cũng vẫn đưa họ tới Postbridge nhanh chóng.
Bên cạnh đó, nếu ông ta có thể giúp nữ chủ nhân của mình gây rắc rối cho chồng nàng, thì Phelps chắc chắn là cũng có thể giúp Dain thoát ra khỏi đó.
Dain không chắc bằng cách nào Jessica đã xoay xở để bảo người đánh xe trung thành của chàng phản bội lòng tin của chàng những tuần vừa qua, nhưng chàng cũng sớm thấy rằng nàng không hoàn toàn có được ông ta phủ phục dưới chân mình. Khi Jessica lao ra khỏi chuồng ngựa để van xin lần cuối được đi cùng họ, Phelps đã thương thảo một bản thỏa hiệp.
“Có lẽ nếu phu nhân có thể chuẩn bị một món quà cho cậu nhóc, cô ấy sẽ thấy tinh thần dễ chịu hơn,” người đánh xe gợi ý. “Cô ấy lo lắng cậu nhóc bị đói, và có lẽ cả lạnh, và ngài thì quá vội vã để lưu ý đến những điều đó. Có lẽ cô ấy có thể tìm một món đồ chơi hoặc gì đó để giữ thằng bé bận rộn.”
Dain nhìn Jessica.
“Em cho rằng thế là được,” nàng nói. “Dù sẽ tốt hơn nếu em ở đó.”
“Nàng sẽ không ở đó, nên hãy tống cái ý nghĩ đó ra khỏi đầu nàng đi,” Dain nói. “Ta sẽ cho nàng mười lăm phút để chuẩn bị cái gói quà chết tiệt đó, và đó là tất cả.”
Mười lăm phút sau, Dain ngồi trên lưng ngựa, trừng mắt nhìn cửa lớn của Athcourt. Chàng đợi thêm năm phút nữa, rồi đi xuống con đường chính, bỏ mặc Phelps xoay xở với món quà và phu nhân.
Phelps bắt kịp chàng vài yard ngoài cổng chính của Athcourt. “Đây là món đồ chơi đã làm cô ấy chậm lại,” ông ta giải thích khi họ tiếp tục cưỡi ngựa. “Cô ấy đã lên tận tháp phía bắc, và tìm một trong những ống nhòm ảnh. Đó là một trận hải chiến, cô ấy đã nói thế.”
“Hẳn phải là Nelson và Parker ở Copenhagen,” Dain nói. “Nếu là một trong những cái của ta, thì thế,” chàng thêm vào với một tiếng cười. “Ta dám nói đó là cái duy nhất ta không có thời gian phá hủy trước khi bị đẩy tới trường học. Có được trong sinh nhật lần thứ tám. Không cần phải băn khoăn sao nàng tìm được nó. Phu nhân của ta có thể tìm thấy cả kim trong đống cỏ khô. Đó là một trong những biệt tài của nàng, Phelps ạ.”
“Ess, tôi cho điều đó hóa ra là không tệ lắm, khi mà ngài mất vài thứ lúc này lúc nọ.” Phelps nhìn cánh tay trái của ông chủ, mà Dain đã giải phóng khỏi băng đeo ngay khi chàng ra khỏi tầm nhìn của ngôi nhà. “Mất nẹp cánh tay rồi, phải không, thưa đức ngài?”
Dain nhìn xuống. “Chúa ơi, ta đã mất rồi. Chà, không có thời gian để tìm nó, phải không?”
Họ tiếp tục đi trong im lặng vài phút.
“Có lẽ chúng ta không nên giúp cô ấy tìm kiếm thằng nhóc,” cuối cùng Phelps nói. “Nhưng tôi vẫn cứ lo lắng kể từ khi tôi nghe nói Annie Geach cuối cùng đã vểnh ngón chân lên.” (Ý là chết ~.~)
Phelps giải thích thằng bà đỡ già nua ấy đã là người mẹ duy nhất mà Dominick biết.
“Khi Annie ra đi, không còn ai khác muốn chăm sóc con chó con đó,” Phelps nói. “Như tôi đoán, mẹ thằng nhóc đã gây rắc rối trước mặt cô dâu mới của ngài, đoán rằng ngài sẽ phải làm gì đó – có thể là cho cô ta tiền để biến đi hoặc kiếm bảo mẫu cho thằng nhóc. Nhưng ngài chẳng bao giờ gửi một người nào đến tìm cô ta, kể cả khi cậu bé quấy phá trong làng -”
“Ta đã không biết nó đang quấy phá,” Dain cáu kỉnh ngắt lời. “Bởi vì không một kẻ chết tiệt nào kể cho ta hết. Cả ngươi cũng không.”
“Đó không phải chỗ của tôi,” Phelps nói. “Không kể đến, làm sao tôi biết được ngài sẽ không giải quyết chuyện đó hoàn toàn sai lầm? Đày biệt xứ – phu nhân đã nói vậy. Đó là những gì ngài đã nghĩ. Cả hai người bọn họ - bà mẹ và cậu bé. Chà, tôi đoán rằng nó không hợp với tôi lắm. Tôi đã một lần đứng nhìn cha ngài giải quyết sai mọi chuyện. Tôi còn trẻ khi cha ngài đẩy ngài đi xa, và xen vào đã làm tôi mất đi vị trí của mình. Và tôi đoán rằng những quý ông khôn ngoan hơn một dân làng ngu dốt. Nhưng giờ tôi đã qua mốc nửa thế kỷ, và tôi thấy mọi thứ có vẻ khác biệt so với trước đó.”
“Không nhắc đến chuyện vợ ta có thể thuyết phục ông nhìn thấy yêu tinh trong túi của mình, nếu điều đó phù hợp với kế hoạch của nàng,” Dain lầm bầm. “Ta nên thấy là mình may mắn vì nàng đã không bảo ông bí mật giấu nàng trong một cái túi bên yên.”
“Cô ấy đã thử,” Phelps nói với một nụ cười toe toét. “Tôi đã bảo cô ấy chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho thằng nhóc sẽ tốt hơn. Giống như tìm nốt những chú lính gỗ của ngài. Và tìm một cô bảo mẫu rồi sửa chữa lại phòng trẻ.”
“Ta đã nói ta sẽ bắt nó về,” Dain lạnh lùng thông báo với người đánh xe. “Ta không hề nói thằng nhóc dơ dáy đó có thể sống trong nhà ta, ngủ trong phòng trẻ của ta -” chàng khựng lại, ruột quặn lên.
Phelps không trả lời. Ông giữ chặt mắt trên con đường phía trước.
Dain chờ bên trong chàng ổn lại. Họ đi hết một dặm nữa trước khi cơn co thắt bên trong dịu xuống một mức độ chịu đựng được.
“ ‘Một vấn đề tầm cỡ thế giới,’ nàng đã gọi nó là như thế,” Dain gầm gừ. “Tuy nhiên ta phải giải quyết nó, có vẻ như vậy, đâu đó giữa đây và Postbridge. Chúng ta đang đi đến sông Tây Webburn, phải không?”
“Một phần tư dặm nữa, thưa ngài.”
“Và từ đây, Postbridge thì sao – ít hơn bốn dặm, phải không?”
Phelps gật đầu.
“Bốn dặm,” Dain nói. “Bốn dặm chết tiệt để giải quyết một vấn đề tầm cỡ thế giới. Chúa giúp ta.”