Tên truyện: Ngục liên ký
Tác giả: DNAX
Edit : Lam
Beta : ChanChan & Tiny
Hồi ba mươi ba
Chương này 6000 chữ…chương sau 8000 chữ…độ dài nghịch thiên như vậy bảo con Lam đang lười biết phải làm sao phải làm sao??? Cùng một khoảng thời gian bình thường làm xong 3 chương Chung Cực mà chỉ được có một nửa chương Ngục Liên, mụ D, mụ muốn tui bỏ gánh mặc kệ bộ này hả???
Một nam một nữ này đều còn thiếu niên, nam tuấn dật nhã nhặn, nữ xinh đẹp đáng yêu, vừa bước vào đã khiến khách nhân trong *** nhỏ nhìn đến hai mắt sáng ngời. Thiếu nữ kia mặc bạch y, mang trường kiếm, thiếu niên vận thanh sam, đeo sau lưng một thanh thương dài, mũi thương khắc thanh long, thần uy lẫm liệt vô cùng đáng chú ý. Giang Khinh Trục nhận ra thiếu niên kia chính là Đinh Kì Phong, thiếu nữ là nữ đệ tử Hạ Nghênh Thiên của cung Lạc Anh. Hai người bước vào ngồi xuống, đặt binh khí lên bàn. Hạ Nghênh Thiên một thân bạch y mà ngồi trong tiểu *** bụi bặm cũng không hề ngại bẩn, Đinh Kì Phong gọi tiểu nhị ngã trà, hai người hình như là vội vã lên đường, đi qua tiểu *** này chắc hẳn chỉ là tùy tiện tìm nơi nghỉ tạm mà thôi. Đinh Kì Phong uống một ngụm trà, nói: “Chúng ta đi suốt hai ngày mà không thấy bóng dáng của Tần đại ca, có khi nào đi nhầm đường rồi không?” Tuy cậu ta nói rất nhỏ nhưng Giang Khinh Trục vẫn nghe ra là đang nhắc tới Tần Truy, liền buông bát cháo xuống nghe ngóng thêm mấy câu. Hạ Nghênh Thiên nói: “Muội hỏi thăm sư huynh trên Thiên Kiếm sơn trang rồi, đệ tử gác núi nói bọn họ đi đường này mà, muội hỏi qua mấy người đều nói như vậy hết.” Đinh Kì Phong nói: “Có lẽ bọn họ nửa đường đổi hướng, chúng ta không biết, cứ gấp rút lên đường nên bỏ lỡ mất rồi.”
Giang Khinh Trục cho rằng bọn họ cũng là truy binh. Liễu Xá Nhất ở trước mặt mọi người thì nói nguyện đảm bảo cho Tần Truy, nay vừa xảy ra chuyện lớn thì đã vội vàng sau cháu ngoại đi tróc nã, thế nhân vì tư lợi mà bạc tình bất nghĩa, nào có chân tình gì là đáng nói đến đâu. Y nghe mà không khỏi âm thầm hừ lạnh một tiếng. Trong lòng y oán thầm, hai người Đinh Hạ bên kia lại không mảy may hay biết. Hạ Nghênh Thiên nói: “Thiên Kiếm sơn trang hoang vu như vậy, bốn phía lại không có nhà dân. Tần đại ca bị trọng thương, nếu muốn trị liệu phải đi đường này mới có thể mau chóng tới thành trấn được, đi đường khác có khi năm ba ngày cũng không tìm được bóng người, đừng nói trị thương, chỉ đói thôi cũng đủ chết rồi.”
Đinh Kì Phong nói: “Nhưng rốt cuộc huynh ấy đi đâu mới được chứ, chúng ta đi suốt mấy ngày mà chẳng thấy người đâu, một người sống sờ sờ làm sao phi thiên độn địa biến mất khỏi thế gian cho được.” Hạ Nghênh Thiên nói: “Huynh vội thì có ích gì, người bị thương chung quy chỉ có thể tìm tới hiệu thuốc y quán tìm đại phu chữa trị thôi. Đợi lát nữa chúng ta đi hỏi thăm xem có ai tới những chỗ đó mua thuốc thoa ngoài da và thuốc uống trị thương không là được.” Đinh Kì Phong nghe xong thì nói được, sau đó lại rầu rĩ không vui cúi đầu uống trà. Hạ Nghênh Thiên hỏi: “Huynh nghĩ gì thế?” Đinh Kì Phong thở dài nói: “Ta đang nghĩ không biết có phải Tần đại ca thực sự giết những người đó hay không.” Hạ Nghênh Thiên liếc nhìn cậu ta, hỏi tiếp: “Thực sự giết người thì sao?”. Đinh Kì Phong cực kì kính trọng Tần Truy, cũng khâm phục võ công tinh xảo của hắn, lại thêm Liễu Xá Nhất thường khen hắn không dứt miệng, trong lòng cậu sớm đã đối đãi với hắn như huynh trưởng. Song qua biến cố đột ngột trước đó, người cậu từng kính trọng thoắt cái biến thành hung thủ giết người không chớp mắt chỉ trong một đêm. Đinh Kì Phong dù sao vẫn còn trẻ, tuy rằng khó có thể tin tưởng, thế nhưng cứ nghe người khác nói hết lần này đến lần khác thì cũng có chút khúc mắc âm thầm. Đêm đó Liễu Xá Nhất đuổi tới thì Tần Truy sớm đã được Giang Khinh Trục cứu đi, chỉ còn lại thi thể và máu tươi đầy đất. Vị lão nhân tiền bối ngày thường luôn luôn lạc quan thoải mái, chợt thấy bạn cũ tử thương thảm trọng thì đau lòng không thôi, lão lệ ròng ròng.
Đinh Kì Phong nghe Hạ Nghênh Thiên hỏi thì ấp úng nói: “Ta…ta không tin Tần đại ca giết người.” Hạ Nghênh Thiên lại liếc cậu ta mà nói: “Miệng huynh nói không tin, nhưng trong lòng lại tin.” Đinh Kì Phong bị nàng nói trúng tâm sự, mặt đỏ lựng, bảo: “Nói bậy, trong lòng ta cũng không tin.” Hạ Nghênh Thiên nói: “Nếu thực sự không tin thì huynh đã không nói không tin, mà sẽ nói Tần đại ca tuyệt đối không giết người.” Đinh Kì Phong nói: “Ta không tin, nhưng người khác đều nói…”. Hạ Nghênh Thiên không đợi cậu nói xong đã ngắt lời: “Người khác là ai, khắp thiên hạ biết bao nhiêu người, trừ huynh ra đều là người khác, chẳng lẽ những người khác đó nói gì huynh cũng đều tin sao?” Thiên kim Hạ gia nhanh mồm nhanh miệng, lời nói ra khí thế bức người, Đinh Kì Phong lập tức bại trận: “Ta không có ý đó.” Hạ Nghênh Thiên nói: “Cha muội từng nói, phàm là người luyện võ mà có tâm thuật bất chính chung quy sẽ bị phản bị hại, tuy có thể xưng bá nhất thời, nhưng rất nhiều người lòng nhiều tạp niệm chẳng thể nào thuần thục lão luyện cho được. Ngày ấy Liễu gia đại thọ, muội theo phụ thân đi chúc mừng có xem huynh luận võ với Tần đại ca, chiêu Hồi mã thương huynh ấy dùng để thắng huynh, huynh có còn nhớ không?”
Đinh Kì Phong gật đầu nói: “Đương nhiên là nhớ rõ, một thương kia thực sự lợi hại, nếu không phải huynh ấy hạ thủ lưu tình thì chẳng những ta thua mà còn thụ thương nữa kia.” Hạ Nghênh Thiên gật đầu nói: “Thương pháp kia lừa địch thâm nhập, đưa tới chỗ chết mới hồi sinh, một khi không thành liền rơi vào kết cục đồng quy vu tận, thế mà Tần đại ca sử xuất lại minh bạch rõ ràng không chút âm hiểm giả dối, huynh biết rõ có hậu chiêu mà vẫn không thể không tiến. Tuy nguyên nhân chính là do võ công của huynh ấy cao hơn huynh rất nhiều, thế nhưng vẫn có thể nhìn ra đó là một khiêm khiêm quân tử. Phụ thân nói, lần đầu tiên người nhìn thấy có người có thể dùng chiêu thức âm độc nhất trong thương pháp một cách quang minh lỗi lạc như thế, bảo rằng người này còn trẻ mà khí độ bất phàm, ngày sau ắt có đại thành.”
Giang Khinh Trục nghe nàng nói một hồi đều là khen ngợi Tần Truy thì trong lòng hoan hỉ, thầm nghĩ thì ra nàng là như vậy. Hạ Vạn Xuyên không ngờ lại rất có mắt nhìn người, con gái ông ta dạy dỗ ra cũng không phải là cái gối thêu hoa.
Đinh Kì Phong như có chút đăm chiêu, qua một lúc lâu mới nói: “Tần đại ca bị thương có thể đi được bao xa…chúng ta vẫn nên mau chóng tìm ra huynh ấy, miễn cho ông ngoại lo lắng.”. Hạ Nghênh Thiên nói: “Thế mới đúng chứ, Liễu gia gia cũng mang theo nhân thủ đi tìm rồi, lão nhân gia tin được người, huynh lại cứ ở đây suy nghĩ lung tung tin lời nói bừa của người khác mãi.”. Đinh Kì Phong thoải mái nói: “Là ta không đúng, ta không nghi ngờ nữa, những người đó muốn nói cái gì thì cứ kệ họ đi.”.
Đinh Hạ hai người ngồi nói chuyện thêm một chút, Giang Khinh Trục thấy bọn họ nói về chuyện trong nhà thì không nghe thêm nữa, bưng cháo lên lầu. Trở lại phòng, y thấy Tần Truy nằm trên giường chưa dậy thì đặt cháo lên ghế nhỏ cạnh giường, lấy nước rửa mặt cho hắn, lại cởi áo hắn dùng nước ấm lau vết thương còn chảy máu. Mấy vết thương này đâm vào rất sâu, nếu không có dược cầm máu ngoại thương, chỉ sợ khó lòng chuyển biến tốt được, tới y quán lại sợ có người tra được hành tung, chỉ có thể chờ đến khi trời tối mà đi lấy thuốc. Đến khi lau xong vết thương, Tần Truy khẽ nhíu mày muốn tỉnh, Giang Khinh Trục nâng hắn dậy để dựa vào đầu giường, bưng bát cháo bón cho hắn uống.
Tần Truy vừa mở mắt, Giang Khinh Trục đã đưa một thìa cháo nóng tới bên miệng hắn, hắn lại không hề nhúc nhích. Giang Khinh Trục nói: “Hai ngày nay ngươi không ăn gì rồi, chẳng lẽ không đói sao?”. Tần Truy không nói không rằng, chỉ ngây ngốc ngồi đó, hai mắt mơ hồ mờ mịt. Từ khi quen biết hắn đến nay, Giang Khinh Trục chưa từng thấy hắn bi thương sa sút đến thế, sống không biết vui như người đã chết vậy, nói chuyện với hắn, hắn không để ý, bón đồ ăn gì cũng không hề phản ứng, nhất thời có chút bó tay không biết làm sao. Y thở dài nói: “Ngươi thương tâm đến thế, ta cũng không thể cưỡng ép ngươi vui vẻ lên được.”. Nói đoạn, y buông bát xuống, đi đến bên bàn trút bỏ áo ngoài, bên dưới lớp áo cũng là vết thương chằng chịt, tuy đều là thương ngoài sa thịt nhưng vì không thèm để ý trị liệu mà đã mưng mủ chảy nước đầm đìa. Y vừa thoát áo, mấy vết thương đã ráo miệng lại bị kéo ra theo vải áo dính sát da thịt mà chảy máu.
Tần Truy ngồi trên giường nhìn y lau vết thương, từng đạo vết kiếm vết đao rõ ràng trong mắt, trong lòng hắn đau xót, liền chậm rãi nâng bát cháo trên ghế lên. Hai ngày không ăn không uống, nói không đói bụng là giả, tuy chỉ là một chén cháo hoa nhưng ấp trong tay vẫn vô cùng ấm áp, uống xuống một ngụm, ấm áp ấy theo yết hầu tràn xuống bụng, bất tri bất giác mắt hắn đã ngập lệ từ bao giờ, từng giọt từng giọt tí tách rơi trong bát.
Hắn uống cháo xong, đặt bát lên ghế, xoay người lại ngủ. Giang Khinh Trục cũng mệt mỏi cả thể xác cả tinh thần mà chợp mắt trong chốc lát, đến khi tỉnh lại đã là ban đêm, y lẳng lặng xuất môn đi lấy thuốc. Trong tiểu trấn chỉ có một hiệu thuốc bắc, Giang Khinh Trục mở cửa lớn, tìm giấy gói thuốc bọc tam thất, bạch cập và nhụy hoa thạch tán, mở ra ngăn kéo quầy chưởng quỹ thấy có hộp gấm, bên trong đặt một củ nhân sâm trên dưới năm lạng, thế là cũng cầm luôn đi rồi đặt ngân lượng lên quầy. Về đến nơi thì trời đã sáng, Giang Khinh Trục giúp Tần Truy rắc thuốc bột lên miệng vết thương quanh người, mượn bếp của khách *** hầm canh cho hắn, nghỉ ngơi một lát lại vận công trợ hắn trị thương. Tần Truy vẫn không nói một lời, mặc y sắp xếp, Giang Khinh Trục cũng không làm phiền hắn, chỉ dốc lòng chăm sóc.
Hôm sau thuê xe ngựa lên đường, rời xa thôn trấn, đi về phía trước sẽ có rất nhiều đường rẽ để đi, các đại kiếm phái muốn truy tìm cũng không dễ dàng. Song Giang Khinh Trục vẫn không dám lơi lỏng, ngày đi đêm nghỉ, chỉ chọn đường nhỏ mà đi. Tần Truy có Thanh Long Tạo Hóa đan cùng nội công của Giang Khinh Trục tương trợ, thương thế khỏi cực nhanh, chỉ mấy ngày sau vết thương đã khép miệng, không cần đổi thuốc hằng ngày nữa. Chỉ là tinh thần hắn một mực uể oải, sắc mặt cứ mãi tái nhợt như giấy. Giang Khinh Trục trong lòng biết cái chết của Vạn Khiếu Phong, Tiết Triệu và Đỗ Tiếu Thực mang tới cho hắn đả kích quá lớn, đến nỗi đau xót mà gầy mòn, nhất thời cũng không cách nào giúp hắn nguôi ngoai được.
Y vừa đi vừa nghĩ, thù của nhà mình còn chưa báo, nay lại thêm chuyện của Tần Truy, muốn báo thù còn phải suy xét thêm. Hai người đi trên đường đều không nói nhiều, Tần truy ngày ngày nằm trong xe, không hỏi đi tới nơi đâu, cứ thế đi hơn một tháng trời, cảnh vật xung quanh dần dần có biến hóa. Giang Khinh Trục mỗi khi dừng chân chung quy luôn có thể tìm thấy dấu hiệu dẫn đường Du Tĩnh để lại, y vốn không muốn chung đường với tên Phi Thiên đạo tặc kia, thế nhưng bộ dáng Tần Truy hiện giờ như vậy, đừng nói báo thù, chỉ sợ là tự bảo vệ mình cũng khó, chỉ có thể chờ hắn thay đổi suy nghĩ tỉnh táo trở lại mới có thể cân nhắc tới chuyện báo thù được, Giang Khinh Trục có lòng muốn cùng hắn đi xa giải sầu, có lẽ đi mấy ngày nữa sẽ khởi sắc hơn.
Một đường đi lên phía Bắc, trời dần dần chuyển lạnh. Hôm ấy xe ngựa đi trên đường núi thấy xa xa trên núi có tòa chùa miếu. Miếu thờ này xây trên sườn núi, mái cong thấp thoáng lộ ra dưới tán cây xanh, tường viện ngả vàng. Giang Khinh Trục bất giác kéo ngựa dừng lại, ngẩng đầu nhìn lên mái hiên trên ấy, bên tai nghe tiếng chuông ngân vang. Giữa rừng thẳm núi hoang nghe tiếng chuông cổ ngân dài, yên tĩnh như thế, cô tịch như thế, không khỏi khiến cho y nghe đến nhập thần. Đang lúc ngẩn người, trên đường núi cổ rợp bóng cây có bóng người nho nhỏ vội vã chạy xuống.
Giang Khinh Trục ngưng mắt nhìn lại thì thấy một chú tiểu khoảng mười một mười hai tuổi mặc tấm tăng y giặt nhiều tới bạc phếch. Nó đi tới gần hai người, chắp tay làm lễ mà nói: “Thí chủ đường xa mà đến, mời lên núi vào chùa dùng chung trà nóng.” Giọng nói của chú tiểu còn mang cái non nớt của trẻ con, trong vắt, có lẽ là từ nhỏ đã tu hành trong núi. Giang Khinh Trục thấy kì quái, hỏi: “Tiểu hòa thượng, sao ngươi biết ta muốn đến?” Chú tiểu nói: “Sư phụ nói hôm nay có khách quý tới chùa, bảo tôi xuống núi đón chào.” Giang Khinh Trục nghe xong càng cảm thấy bất ngờ, y cùng Tần Truy một đường đi về hướng bắc nhưng đi dừng tùy hứng, đến thành trấn thôn xóm có khi sẽ nghỉ ngơi mấy ngày, có lúc lại chỉ nghỉ tạm một chút liền đi, đi qua nơi này chỉ do trùng hợp, làm sao có người biết trước cho được? Chú tiểu cũng không để ý suy nghĩ trong lòng y mà xoay người đi trước dẫn đường.
Giang Khinh Trục đang do dự, xoay người liếc nhìn xe ngựa ven đường thì thấy Tần Truy cũng đã xuống xe, đang ngẩng đầu nhìn mái chùa trên núi. Mấy ngày nay trừ khi nghỉ trọ, Tần Truy cực ít xuống xe, tuy thương thế đã khỏi nhưng lại như cái xác không hồn. Giang Khinh Trục thấy hắn bỗng nhiên tự mình xuống xe thì trong lòng vui vẻ, thầm nghĩ chùa nhỏ trên núi thâm u tĩnh lặng, cô tịch không vướng bụi trần, có lẽ là nơi tuyệt hảo để chữa trị vết thương. Cân nhắc một hồi lại nghĩ không biết tăng nhân trong chùa là loại người nào mà tính ra bọn họ sẽ đi ngang nơi đây, vẫn phải cẩn thận làm trọng, tránh cho mắc bẫy. Nghĩ đến đây y ngẩng đầu nhìn, chú tiểu đã đi xa, Giang Khinh Trục thấy nó đi lại nhẹ nhàng nhưng chỉ là do hài đồng trời sinh xương cốt nhẹ mà thôi, không phải do luyện võ. Nhìn mấy lần, bên người gió nhẹ thoảng qua, Tần Truy đã đi vượt lên phía trước.
Giang Khinh Trục đi cuối cùng khắc khắc đề phòng, thế nhưng ven đường không thấy đến nửa bóng người, cổ tháp trang nghiêm khiến người ta phải nghiêng mình kính cẩn. Chỉ chốc lát sau đã đến lưng chừng núi, ngôi chùa này ở nơi hoang vu, ngoài đại điện ra chỉ còn có hai ba ngôi nhà nhỏ, tấm biển trước cổng chùa đề ba chữ “Thiên Linh tự”.
Chú tiểu đưa hai người vào Thiên Điện, mời họ ngồi rồi pha trà mang đến. Giang Khinh Trục thấy ngôi chùa tuy đơn sơ nhưng sạch sẽ không vương một hạt bụi nhỏ, tăng nhân trong chùa rất ít, trừ chú tiểu dẫn đường chỉ còn một thầy tăng trung tuổi quét tước sân chùa. Y không hề chạm qua trà nước trên bàn, ngồi được một lát, chợt thấy chú tiểu dẫn đường ban nãy đứng ngoài cửa điện nhìn lén, liền hỏi nó: “Tiểu hòa thượng, ngươi nhìn gì thế?” Tiểu sa di quả nhiên chỉ là hài tử, trong lòng có chuyện liền không giấu được. Giang Khinh Trục vừa hỏi nó đã cười hì hì trả lời: “Mấy ngày trước có một vị thí chủ đi qua nơi này thắp hương bái phật, hắn nói gần đây hắn bị Môi tinh chiếu mệnh mọi việc không thuận, phải thắp một nén hương giải xui. Tôi hỏi hắn, thí chủ không thuận thế nào? Hắn nói, một hai ngày nữa sẽ có người đi qua đây, ngươi đi mà hỏi y xem vì sao ta làm gì cũng không thuận lợi. Thí chủ, ngươi có biết không?” Giang Khinh Trục ngạc nhiên nói: “Ta không quen hắn, làm sao mà biết được.” Chú tiểu nói: “Vị thí chủ kia nói người tới đầy mặt xui xẻo như thể ai cũng thiếu nợ y, nếu không phải ta có chuyện phải cầu y thì đã sớm tránh xa rồi.” Nói đoạn, tiểu hòa thượng mặt mày tươi rói nhìn Giang Khinh Trục, lại nói: “Thí chủ đó còn nói…” Giang Khinh Trục tuy đã mơ hồ đoán ra gã kia là ai, nhưng vẫn hỏi: “Nói cái gì?” Chú tiểu nói: “Thí chủ đó nói, người này là Thiên Sát Cô Tinh, đi đến đâu cũng rước lấy phiền toái, khi nào y đến thì xin Phương Trượng Đại Sư niệm kinh hóa giải cho y, bằng không càng đi càng nhiều cừu nhân, cuối cùng đến mất mạng mất thôi.” Nó vừa dứt lời đã có tiếng than nhẹ từ ngoài cửa truyền tới, một giọng nói già nua vang lên: “Tĩnh Không, bao nhiêu lời ra tiếng vào con đều nhớ như in thế thì làm sao mà tĩnh tâm tu hành được, còn không mau đi làm bài đi.” Chú tiểu thấy sư phụ vào thì không dám cười đùa nữa, chỉ cúi đầu nói một tiếng vâng rồi đi.
Giang Khinh Trục thấy tăng nhân vừa nói chuyện mày râu trắng muốt, mặt mũi hiền từ, trong lòng đã có hảo cảm, mà nhìn hành động cử chỉ của ông thì chỉ là tăng lữ bình thường, giống như chú tiểu kia, không biết võ công, liền thả lỏng tâm tình hơn một chút. Vị sư già đóng cửa mà vào, tới trước mặt y và Tần Truy, lên tiếng: “Hai vị thí chủ quang lâm tệ tự, bần tăng Tuệ Chứng là phương trượng của Thiên Linh tự, nếu tiếp đón có gì sơ sót thì mong được thứ lỗi cho. Thí chủ có phải họ Giang không?” Giang Khinh Trục nói: “Đúng vậy, phương trượng đại sư thần cơ diệu toán, có thể biết được hôm nay chúng tôi đi ngang qua chùa mà sai riêng người xuống đón. Không biết đại sư mời chúng tôi lên đây có gì chỉ giáo?”
Tuệ chứng mỉm cười nói: “Bần tăng lâu nay ở trong núi sâu, không rành thế sự, nào dám chỉ bảo ai đâu. Chẳng qua là được người nhờ vả, có mấy thứ muốn giao cho thí chủ mà thôi.” Giang Khinh Trục nói: “Nhận ủy thác của ai?” Tuệ Chứng nói: “Vừa rồi Tĩnh Không đã nói, mấy ngày trước có vị thí chủ họ Du lên núi dâng hương, để lại mấy thứ nhờ bần tăng chuyển giao, đã nhận lời người thì đương nhiên phải hết lòng mà làm rồi.” Giang Khinh Trục không cho là đúng, nghĩ rằng quả nhiên là tiểu tặc Du Tĩnh, hẳn là lại gặp phải cái gì phiền toái chứ chẳng tốt đẹp gì, liền nói: “Người nọ là phi tặc chuyên nghề trộm đạo, trên người làm sao có thể có đồ để chuyển cho ta, nếu thực sự có chắc cũng là tang vật lai lịch không rõ.” Tuệ Chứng nói: “Thí chủ nói đùa rồi. Vị Du thí chủ kia cùng Tuệ Chứng còn có chút ân tình đấy.” Giang Khinh Trục nói: “Ân tình gì?”
Tuệ Chứng chắp tay nói: “Tệ tự tuy là núi hoang miếu nhỏ, hương khói không thịnh, thế nhưng trong chùa lại có một pho ngọc phật. Ngày hôm trước có vài người khách hành hương lên núi có liếc mắt nhìn qua, sau khi họ đi không lâu, Tĩnh Không liền nói không thấy tượng phật đâu nữa. Ngọc phật này nguyên là truyền xuống từ đời Thái sư tổ, nếu mất đi trong tay bần tăng thì không biết phải ăn nói thế nào. Du thí chủ nghe xong chỉ trong một ngày đã tìm được tượng về, bần tăng cảm niệm ân đức, không dám quên, cho nên chuyện mà Du thí chủ đã nhờ, bần tăng đương nhiên tận tâm tận lực”
Giang Khinh Trục thầm nghĩ, Du Tĩnh tặc tính khó sửa, bình sinh thích nhất là tiền tài bảo vật, làm sao có thể làm ra việc tốt bậc này? Cứ cho là mấy tên tiểu tặc kia gặp phải ông tổ trộm như gã cũng vạn vạn không có đạo lý trả ngọc về Triệu như thế, chắc là chỉ vì muốn khiến lão hòa thượng này thiếu nợ nhân tình mà làm việc cho gã đấy thôi, chẳng biết có cái gì muốn giao cho mình. Nghĩ thế, liền nói với Tuệ Chứng: “Thì ra là vậy, mong được đại sư chỉ giáo, Du Tĩnh rốt cuộc muốn giao lại cho ta thứ gì?” Tuệ Chứng cười nói: “Không vội, hai vị đi đường vất vả, dùng chút cơm chay trước đã. Sắc trời không còn sớm, nếu không chê thì hai vị đêm nay cứ ngủ lại tệ tự một đêm.” Giang Khinh Trục vốn có ý này, liền gật đầu đáp ứng.
Tuệ Chứng gọi chú tiểu Tĩnh Không sai nó đi quét tước thiện phòng chuẩn bị bày cỗ chay, lúc gần đi còn liếc nhìn Tần Truy ngồi một bên, nói: “Bần tăng thấy vị thí chủ này sắc mặt tái nhợt tinh thần không tốt, như là kinh qua gian nan cực khổ mà thâm tâm mắc bệnh trầm kha, không biết có chuyện gì thương tâm mà đau đáu trong lòng vậy?” Giang Khinh Trục quay đầu nhìn Tần Truy, chỉ trong một tháng hắn đã gầy gò đến hai mắt trũng sâu, không còn chút nào phấn chấn hăng hái ngày trước nữa mà cả ngày xuất thần, không biết suy nghĩ cái gì. Tuệ Chứng thấy hắn không để ý tới thì cũng không để ý, thi lễ với hai người rồi xoay người rời đi.
Chạng vạng trời bỗng đổ mưa. Giang Khinh Trục đứng ở cửa thiện phòng, thấy mấy gian nhà trong chùa đều sáng lên ánh nến, ánh nến thản nhiên xuyên qua song cửa rọi ra chiếu sáng cả con đường đá sũng nước. Ngoài cửa thiện phòng có một cây hoa, hoa đỏ nở bừng đầu cành, cánh hoa gặp mưa trải đầy mặt đất. Y ngẩng đầu nhìn ra xa, thiên không xa xăm dường như tỏa ra ánh sáng, sắc trời chập choạng còn chưa tối hẳn, tịch dương ánh lên khung trời lan tỏa làn sương mờ trắng bạc mông lung như tiên cảnh. Cảnh tượng này khiến người ta khắc sâu trong tâm trí, yên tĩnh, tường hòa, cách biệt với nhân gian trần thế, như thể hết thảy ân oán hỗn loạn của thế gian, hết thảy đấu đá giao tranh đều không tồn tại. Giang Khinh Trục thẳng thắn chính trực ân oán rõ ràng, tuy không tính là chấp nhặt nhỏ mọn có thù tất báo nhưng cũng tuyệt đối không phải là người biết lấy ơn báo oán, báo mối thù của Diêu Mục Phong là chuyện y muốn làm nhất hiện giờ. Thế nhưng giờ đây đứng trong thiện phòng của chùa nhỏ trên núi hoang, nhìn chân trời giăng giăng mưa bụi, trong lòng y lại dâng lên tâm tình muốn dứt bỏ thế tục phiền nhiễu gửi gắm cõi lòng vào núi non u tĩnh, liền không khỏi muốn gọi Tần Truy ra ngắm cảnh mưa một lúc. Khi y xoay người về phòng thì thấy Tần Truy nằm trên giường cau chặt đôi mày, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán, lúc ngủ mơ còn thống khổ dị thường. Giang Khinh Trục chấn động cho rằng trời mưa làm vết thương của hắn tái phát mới đau đớn đến vậy, bèn đưa tay thăm dò trên người hắn một chút, ai dè bàn tay vừa chạm tới ngực đối phương đã bị nắm chặt lấy.
Tần Truy đổ mồ hôi ướt đầm nhưng tay lại lạnh ngắt. Cổ tay Giang Khinh Trục bị hắn siết kêu răng rắc như sắp gãy đến nơi, chỉ nhìn cũng biết hắn đau đến mức nào. Y không khỏi đau lòng, nhẹ nhàng lau sạch mồ hôi lạnh trên trán hắn, bỗng nghe thấy hắn gọi: “Nhị ca, tam ca, các huynh ở đâu?” Giang Khinh Trục sửng sốt nghĩ hắn đang gọi sư huynh sao? Thế nhưng ngày thường chỉ thấy hắn gọi Vạn Khiếu Phong là chưởng môn sư huynh, gọi Đỗ Tiếu Thực và Tiết Triệu là nhị sư huynh tam sư huynh, lấy đâu ra cách gọi nhị ca tam ca này? Tần Truy nắm chặt cổ tay Giang Khinh Trục lại chợt hô lên: “Cha mẹ, tỷ tỷ.” Giang Khinh Trục bừng tỉnh đại ngộ, thì ra hắn đang gọi người nhà, hẳn là mơ thấy chuyện chạy nạn từ khi còn nhỏ, ta cứ nghĩ lúc đó hắn chỉ là một tiểu hài tử không biết đến nỗi khổ cốt nhục chia lìa, có sư phụ sư huynh là hạnh phúc đến cực điểm, một đời không ưu không lo, thì ra hắn cũng giống như ta tuy rằng no cơm ấm cật, thế nhưng chung quy cũng vẫn là một cô nhi mà thôi. Nghĩ vậy, trong lòng sinh cảm giác đồng bệnh tương liên, y cúi người ôm hắn vào lòng.
Lòng y không chút tạp niệm, chỉ cảm thấy mình đang ôm trong ngực là một hài đồng thất lạc thân nhân, thế nhưng giây phút ấy lại cảm giác mình mới là hài đồng kia, được người ta ôm lấy mà nhẹ nhàng an ủi. Tần Truy cảm thấy có người ôm mình thì bừng tỉnh khỏi cơn mơ, mở mắt ra đã thấy Giang Khinh Trục đang nhắm mắt, nhất thời trong lòng mềm mại như có những sợi bông phiêu lãng nhẹ bay lả tả, không biết nên hướng về nơi nào. Hắn không tự chủ được cũng vòng tay ôm y thật chặt. Hai người tâm thần hoảng hốt chỉ mong có thể cứ như thế mà cuộn tròn một chỗ, ôm nhau đi vào giấc ngủ. Ngoài cửa sổ mưa phùn dai dẳng, màn đêm buông xuống, chuông tối vang lên, Tần Truy tỉnh lại một lát, quên hết những cực khổ trong cơn mộng vừa rồi, chỉ cảm thấy quanh mình ấm áp. Tiếng chuông quyện vào cùng với tiếng mưa rơi như nhạc khúc thôi miên lại kéo hắn vào những giấc mộng bồi hồi. Lúc này hắn trong mộng không còn phải khổ sở trôi dạt khắp nơi, chỉ có tường hòa an tĩnh, yên tâm vui sướng không nói nên lời. Giang Khinh Trục ôm lấy hắn, cảm thấy thân mình hắn không còn run rẩy, ắt rằng không bị ác mộng hành hạ nữa, y cũng an tâm dần dần say ngủ.
Ngoài chùa mưa nhỏ cả đêm, đến sáng sớm hôm sau trời đã xanh trở lại, chim hót líu lo, không khí trong lành. Tần Truy tỉnh dậy trước, thấy trong phòng đã có ánh sáng mờ mờ, Giang Khinh Trục ở bên cạnh đang ngủ rất sâu. Nghĩ đến y gần đây ngày đêm chăm sóc mình, ven đường không dám sơ sảy, tinh thần mệt mỏi khó tránh ngủ trầm như vậy, hắn không khỏi cảm động, không muốn làm y giật mình thức giấc, liền một mình rời giường đi vào trong viện. Tiểu viện trong chùa thanh tĩnh tự nhiên, núi xa vắng lặng, cây lá lao xao, đẹp như cảnh tiên bên ngoài trần thế. Tần Truy đứng lặng trong viện, lại thấy dưới tàng cây phía đối diện có một vị lão tăng. Tăng nhân này tuổi tác đã cao, còn già hơn phương trượng Tuệ Chứng, ông mặc chiếc áo cà sa đã cũ, đứng dưới tàng cây không hề nhúc nhích. Tần Truy nhìn trong chốc lát, chỉ nghĩ rằng ông đang thành tâm cầu nguyện, không tiện quấy nhiễu, muốn xoay người đi, chợt nghe tăng nhân niệm Phật hiệu rồi nói: “A Di Đà Phật, thí chủ muốn đi nơi nào?”
Tần Truy sửng sốt dừng bước. Lão tăng lại vẫn hướng mặt về phía cây hoa, cánh hoa rơi xuống gần như rắc kín cả vai ông ấy. Tuy mấy ngày nay Tần Truy không muốn nói gì, thế nhưng cũng không thể nghe mà coi như không thấy với một tăng nhân còn lớn tuổi hơn cả chưởng môn sư huynh nhà mình được, bèn thấp giọng hỏi lại: “Đại Sư đang hỏi ta sao?” Lão tăng nói: “Hoa này nở rực rỡ như thế, vì sao thí chủ chẳng buồn liếc mắt đến một lần?” Tần Truy ngẩng đầu nhìn cây hoa đỏ độc nhất trong sân viện, mưa phùn một đêm đã táp rụng rất nhiều cánh hoa, lại khiến những đóa hoa trên cành tăng thêm mấy phần kiều diễm, trên những cành lá phủ một lớp nước mỏng sau cơn mưa, được nắng mai chiếu lên lại càng óng ánh mê hoặc lòng người, hắn bật thốt lên: “Hoa nở thật đẹp.” Lão tăng nói: “Hoa nở đẹp là vì gặp kiếp nạn mà được tái sinh.” Tần Truy nói: “Xin chỉ giáo cho?” Lão tăng nói: “Hơn năm mươi năm trước trong chùa xảy ra hỏa hoạn lúc nửa đêm, thế lửa lớn cơ hồ đốt tới tận đại điện, tăng nhân trong chùa dốc hết sức cứu hỏa, đến tận hừng đông mới có thể dập tắt ngọn lửa. Cây hoa này năm đó bị cháy chỉ còn sót lại có nửa cái thân khô. Ngươi xem vết thương này, nay đã trở thành một cái mấu cây rồi. Ta cứ nghĩ nó không sống nổi, ai ngờ mùa xuân năm sau trên thân khô lại nảy ra một cành tươi. Sư đệ Tuệ Chứng nghĩ ý chí cầu sinh của nó thực sự rất kiên cường nên ngày ngày dốc lòng chăm sóc, che chở gấp bội so với dĩ vãng, giờ đây cái cây này còn tươi tốt hơn so với năm mươi năm trước.” Tần Truy nhìn theo ngón tay khô gầy như củi của ông, chỉ thấy trên thân cây có một vết sẹo đen sì như mực, như là nơi đó từng bị bẻ gãy rồi lại khép miệng mà vươn lên, mấu cây thô to, rất là xấu xí. Hắn đưa tay vuốt lên, vỏ cây thô ráp ẩm ướt, một luồng lạnh lẽo xuyên thẳng qua lòng tay.
Tần Truy nói: “Đại Sư tinh thông thiện lí, nói như vậy hẳn là còn ý khác.” Lão tăng cười nói: “Thí chủ thiên chất thông minh, có chuyện gì trên đời mà tìm hiểu không ra.” Tần Truy nói: “Cây khô nở hoa, tuyệt xử phùng sinh, đều là những chuyện khó được trên đời, sinh lão bệnh tử càng là việc mà thế nhân khó tránh, có tìm hiểu hay không thì có gì khác biệt đâu.” Lão tăng nói: “Thí chủ đã khám phá ra như thế, cần gì phải mặt cau mày có, u uất không vui?” Tần Truy nói: “Tuy có thể khám phá, nhưng vẫn là sinh ly tử biệt mà khổ. Biết rõ không nên, lại không buông được luyến tiếc, đây mới là chuyện thống khổ nhất trên thế gian. Đại sư biết rõ còn cố hỏi, tội gì phải vậy?” Lão tăng nói: “Tội gì tội gì. Buông bỏ phẫn nộ, cởi bỏ trói buộc, với người không có vật gì thì đâu có khổ nào đeo đẳng được (1). Thí chủ còn cảm thấy khổ sở là chưa nhìn thấu được tình đời, đã chưa nhìn thấu, làm sao có chuyện biết mà vẫn phạm, nếu không phải biết mà vẫn phạm, lại lấy đâu ra chuyện thống khổ nhất trong thiên hạ đây?” Tần Truy sửng sốt, cười khổ nói: “Đại sư nói ra như sấm đánh bên tai, nguyên lai như vậy, xin thụ giáo. Tại hạ mạo muội còn chưa kịp thỉnh pháp danh của đại sư.” Lão tăng nói: “Bần tăng pháp danh Tuệ Nhân.” Tần Truy nói: “Lĩnh giáo điểm hóa của đại sư, trong lòng như có suối trong tẩy rửa.” Tuệ Nhân nói: “Thí chủ vốn là trí giả, đâu cần ta điểm hóa gì, chẳng qua là có duyên đứng dưới tàng cây này ngắm hoa với bần tăng mà thôi. Nhân nhân quả quả, quả quả nhân nhân, duyên sinh duyên diệt, duyên diệt duyên sinh, mọi sự đều do hai chữ nhân duyên mà ra cả. Trong sân này vốn có đến mấy cây chu hoa, tất cả đều đã khô héo trong trận cháy nọ, một gốc này may mắn sống sót là bởi sư đệ ta tận tâm tận lực, đây cũng là do duyên, nếu không phải như thế, nó cũng chỉ là một cái cây trong ngàn vạn cái cây, không hẳn đã có linh khí đến vậy.” Tuệ Nhân dứt lời, quay đầu lại liếc nhìn Tần Truy mà nói: “Thể xác và tinh thần dù có tổn thương thì lâu ngày cũng tự lành, cây còn như thế, con người sao có thể không bằng thảo mộc cho được. Nhân duyên của cái cây này ở nơi sư đệ Tuệ Chứng của ta, nhân duyên của thí chủ lại ở nơi nào?”
Tuệ Nhân nói xong liền mỉm cười chắp tay làm lễ, xoay người rời đi. Tần Truy đứng dưới tàng cây bất động thật lâu, mặc cho những phiến cánh hoa rắc xuống thân mình.
=========================
Chú thích:
(1) Nguyên văn: Bỉ vô nhất vật giả, khổ bất năng tương tùy, là lời Phật dạy trong Kinh Pháp cú Phẩm phẫn nộ. Theo đạo Phật, bát khổ bắt nguồn từ bản thân con người với những ham muốn dục vọng và cả việc có thân xác phàm tục, với người không có gì cả thì không có nỗi khổ.