Hàn Ấu Nương khẽ đáp rồi ngước đầu nhìn y dò hỏi. Dương Lăng vỗ nhẹ bờ mông khuất dưới chăn của nàng, hỏi:
- Ta vừa sực nhớ nàng nói Văn Tâm bảo trong vòng ba tháng nàng vẫn có thể làm chuyện phòng the. Các nàng... trước giờ đều chia sẻ mọi thứ như vậy sao?
Hàn Ấu Nương rúc người vào lòng y cười thật tươi, nũng nịu như một chú mèo con:
- Văn Tâm tỷ tỷ sợ người ta bị mất lòng yêu thương của tướng công chứ bộ...
Dương Lăng vờ giận trách:
- Nói bậy, tướng công là người như vậy à?
Rồi y trừng mắt, khẽ búng mũi nàng, Hàn Ấu Nương kêu á lên một tiếng, chun mũi lại.
Dương Lăng gác đầu lên cánh tay, ngửa mặt lên trần nói tiếp:
- Tuy rằng nàng ấy là thái y nhưng suy cho cùng vẫn là cô gái chưa xuất giá, sau này nàng hãy hạn chế đề cập những chủ đề như vậy với Văn Tâm. Tuy các nàng là bạn gái thân thiết chốn khuê phòng song e là... cũng không thích hợp lắm.
- Đúng rồi!
Hàn Ấu Nương lật sấp người lại, nằm đè lên ngực Dương Lăng, mở to cặp mắt tròn xoe hỏi:
- Tướng công! Sang năm Văn Tâm tỷ tỷ hai mươi tuổi rồi. Ngày ấy, trước lúc ra pháp trường, khi kết bái thiếp đã từng nói sẽ nguyện tiếp nhận bọn họ vào nhà. Tướng công... không thích Văn Tâm tỷ tỷ sao?
Dương Lăng vỗ mông nàng một cái rồi bảo:
- Leo xuống, đừng đè lên bụng nữa!
Hàn Ấu Nương "í" một tiếng, le lưỡi rồi ngoan ngoãn bò xuống khỏi người y.
Dương Lăng ôm lấy nàng, dịu dàng:
- Ấu Nương! Nàng đương nhiên nghĩ rằng tướng công nhà mình là nam nhân tốt nhất thế gian, người con gái nào cũng phải được gả cho y mới sẽ có hạnh phúc. Nhưng người đàn ông tốt trên đời không phải là không còn, chẳng qua là nàng chưa có cơ hội gặp gỡ mà thôi.
Không thể so sánh Văn Tâm với Tuyết Nhi và Ngọc Nhi được! Có lẽ khi đó xuất phát vì lòng muốn báo ơn hoặc vì không còn sự lựa chọn nào khác nên nàng ấy mới thuận ý nàng gả cho tướng công. Nay Văn Tâm đã được khôi phục tự do lại có chức quan trên người, chưa hẳn đã không thể tìm được một người chồng tốt. Chẳng lẽ gả vào Dương phủ làm thiếp mới là sự lựa chọn tốt nhất cho nàng ấy sao?
Các nàng phải cho nàng ấy một cơ hội được cân nhắc kỹ lưỡng ở một góc độ mới, dưới một thân phận mới, chứ đừng mặt trong mặt ngoài ép nàng ấy coi mình là người nhà họ Dương để nàng ấy cũng phải nghĩ rằng gả cho ta là lẽ đương nhiên. Nói thật, nếu như không phải do trời xui đất khiến mà Văn Tâm trở thành nô tì của ta, có thể lúc này gặp mặt nàng ấy sẽ kính nhi viễn chi ta đó.
Hàn Ấu Nương trợn tròn mắt, hờn dỗi trách:
- Tướng công lúc nào cũng lý sự nhiều như vậy cả! Chàng nghĩ Ấu Nương mong muốn có thêm tỷ muội để chia sẻ chàng lắm sao? Nhưng mà cha nói rất đúng, hiện tại chàng đã làm quan rất to, nếu không nạp thêm thiếp thất thì cả chàng và thiếp đều sẽ bị người ta bàn tán sau lưng.
Hơn nữa, trong dòng họ Dương, nhân khẩu của nhà tướng công là ít ỏi nhất, tướng công lại là con duy nhất. Để nhà họ Dương này được hưng thịnh không phải chỉ là trách nhiệm của chàng mà cũng còn là trách nhiệm của thiếp. Tướng công luôn đối đãi tốt với Ấu Nương như vậy, đương nhiên Ấu Nương cũng thỏa lòng rồi.
Rồi nàng khẽ thở dài nói tiếp:
- Có lẽ chàng nói đúng. Nếu như ở những hoàn cảnh khác, chàng và tỷ ấy tuyệt đối sẽ không thể ở cùng nhau. Nhưng tỷ ấy gặp nạn lại được chàng cứu giúp, há chẳng phải là duyên phận sao?
Nghe nói Trương hoàng hậu tranh giành sự sủng ái duy nhất, không cho Tiên hoàng sủng hạnh nữ nhân khác. Kết quả khiến cho rất nhiều đại thần chỉ trích bà ấy là được cưng chiều mà kiêu ngạo, không biết suy nghĩ cho tông miếu xã tắc, khiến cho hiện nay dòng dõi của Tiên hoàng chỉ có mỗi đương kim Hoàng thượng. Còn có người nói...
Nàng hơi ngần ngừ, thấy sắc mặt Dương Lăng vẫn bình thản mới nói tiếp:
- Còn có người bảo rằng đương kim hoàng thượng là đứa con mà thái hậu nhận về nuôi do bị bá quan chỉ trích không thể hạ sinh hoàng tử, đây chính là một điều danh bất chính ngôn bất thuận. Hoàng hậu và thái tử cao cao tại thượng còn có thể vì những chuyện trong nhà mà bị người ngoài bàn tán xôn xao, Ấu Nương thực không muốn mang lấy cái tiếng đố phụ(*).
(*) người phụ nữ hay ghen, hay tị nạnh.
Dương Lăng biết mấy năm trước, khi tiên đế còn tại vị, trong triều từng vì chuyện này mà ầm ĩ một hồi, cho nên nghe Ấu Nương nói vậy thì y chỉ cười, định bỏ qua. Nhưng liền đó y lại chợt nghĩ nay Chính Đức đã lên làm Hoàng đế, tự khi nào dân gian lại lan truyền thứ lời đồn đại này? Dám bôi nhọ đương kim Hoàng đế ư?
Tuy là lời đồn đại này không chứng cứ, khi mình đến thời đại này thì cũng phát hiện nếu dân gian có tuyên truyền bậy bạ một ít lời đồn đãi vu vơ thì quan phủ cũng sẽ không quan tâm lắm. Nhưng nếu như xuất phát từ kẻ có lòng bày mưu đặt kế thì mục đích sẽ không còn đơn giản nữa.
Dương Lăng lờ mờ nhớ lại vụ Ninh Vương tạo phản dường như là có sử dụng đến tội danh này, thế là y không khỏi nhíu mày lại hỏi:
- Ấu Nương, nàng nghe ai kể chuyện này vậy?
Thấy sắc mặt y thận trọng, Hàn Ấu Nương không khỏi hơi phát hoảng, lắp bắp đáp:
- Ấu Nương... nghe nương tử nhà họ Nghiêm kể lúc đến nhà trò chuyện. Nghe nói rất nhiều học sĩ Hàn Lâm Viện cũng lén lút bàn tán về chuyện này, hiện nay trong kinh cũng đã loan truyền hết sức ly kỳ.
Dương Lăng ngẫm nghĩ một lúc. Ngô Kiệt chưa từng bẩm báo với y những tin tức về phương diện này. Lời đồn hoàng đế Chính Đức không phải là máu mủ của tiên hoàng đã tồn tại từ lâu, chắc hẳn bên phía xưởng vệ cũng không để ý lắm đến loại tin đồn như thế này.
Nhưng y lại biết việc thừa kế ngôi vua coi trọng nhất là danh chính ngôn thuận. Lúc tân hoàng vừa kế vị, Ninh Vương đã mang tặng một số lượng lớn đèn hoa pháo bông để chơi đùa, hôm qua hắn lại đưa hai mỹ nữ vào cung. Bản thân hắn ta là hoàng thúc, đấy há là đạo phò tá minh quân sao? Chẳng lẽ hắn đã chuẩn bị tạo phản? Lời đồn lan rộng này là do hắn tạo ra ư?
Dương Lăng vỗ vỗ trán, thầm nghĩ: "Xem ra phải căn dặn Ngô Kiệt chú ý kiểm tra nguồn gốc của những lời đồn đãi này mới được. Để tin đồn lưu truyền trong dân gian thì thực ra cũng dễ, nhưng để cho chuyện này cũng được đồn đãi, bàn tán trong Hàn Lâm Viện thì không thể nào là việc dân đen làm được. Rốt cuộc là kẻ nào đang truyền bá lời đồn đãi này?"
Thấy sắc mặt Dương Lăng nghiêm trọng, Hàn Ấu Nương bèn hỏi:
- Tướng công, có gì không ổn à?
Không muốn nàng lo lắng, Dương Lăng mỉm cười lắc đầu đáp:
- Ồ, không có gì! Ta đang nhớ đến việc này, hôm nay lúc từ trong cung trở về ta đã thấy có rất nhiều nạn dân chạy nạn từ biên tái đến kinh thành. Bọn họ thiếu ăn thiếu mặc, tuy có bộ Hộ chẩn tế nhưng e khó lòng chống chọi cho qua nổi mùa đông rét hại. Ta tính mai sẽ dẫn người đi dựng lều phát cháo. Trong nhà còn thóc gạo, quần áo không?
- A!
Hàn Ấu Nương ngồi bật dậy thất kinh hỏi:
- Năm nay nạn giặc Thát nghiêm trọng như vậy sao? Chốc nữa Ấu Nương sẽ đi đến nhà kho kiểm tra qua, chuẩn bị chút lương thực và quần áo, ngày mai sẽ cùng chàng ra ngoài thành phát cháo nhé. Tướng công còn phải lo liệu việc công, không thể phân tâm quá mức.
Dương Lăng vội kéo chăn đắp cho nàng rồi bảo:
- Mau nằm xuống đi, đừng để nhiễm lạnh. Đến lúc đó ta để Cao quản gia phụ trách là được rồi. Thành cô nương giỏi về điều hành, Văn Tâm biết y thuật, để hai người bọn họ thi thoảng đến thăm qua là đủ rồi, việc phát cháo không cần nàng đi đâu.
Đoạn y ôm Ấu Nương, cắn nhẹ lên bộ ngực mềm mại của nàng khiến nàng rên khẽ một tiếng yêu kiều, nhẹ giọng nói:
- Nàng đó, chỉ cần phụ trách nghỉ ngơi, giữ gìn thân thể cho tướng công để mai này sinh một đứa con bảo bối khoẻ mạnh kháu khỉnh là được rồi, đừng làm lụng quá sức.
****
Sáng sớm hôm sau, Dương Lăng chạy lên núi nghe ngóng tình hình liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ và tình hình chiến sự ở tiền phương.
Dân du mục coi dân nông canh là kho lúa và là đối tượng cướp bóc "hiển nhiên" của bọn họ. Cho dù đang khi song phương bảo trì quan hệ hoà thuận thì những chuyện như lúc thì giao dịch khi thì cướp bóc vẫn thường xảy ra như cơm bữa. Gặp khi cuộc sống đến bước đường cùng, Đoá Nhan Tam Vệ cũng thường đến vùng biên giới cướp bóc kiếm ăn, nhưng bọn họ cũng không dám quá đắc tội với Đại Minh: một là chú ý không giết dân thường, hai là tuyệt không ra tay cùng lúc với người Thát Đát.
Cho nên lần này người Thát Đát công chiếm biên tái, Đoá Nhan Tam Vệ lập tức ước thúc bộ hạ đóng cửa không ra, nghiêm ngặt bảo trì cự ly với Tiểu vương tử, tránh để Đại Minh hiểu nhầm rằng bọn họ cùng hành động chung với người Thát Đát.
Có điều người do Dương Lăng phái đi liên lạc với Đoá Nhan Tam Vệ lần này cũng phải gặp rất nhiều trắc trở; cho nên đến tận bây giờ vẫn chưa có tin tức gì về việc song phương đã liên hệ được với nhau.
Miêu Quỳ cùng Bảo Quốc công Chu Huy và Ngự sử Sử Lâm đã đến Đại Đồng. Cùng với hơn bốn vạn trú quân đã có sẵn, bọn họ liền có trong tay chín vạn nhân mã để đối đầu với bảy vạn quân địch. Cuộc chiến ác liệt với Thát Đát đã qua đến ngày thứ ba, quân Minh đã giành lại được hai toà thành trì. Tin tức đưa về cho biết đại quân đang khổ chiến cùng giặc Thát tại Hoa Mã Trì.
Quân Minh phải chia ra một phần binh lực để thủ thành trong khi giặc Thát lại không bị vướng bận bởi vấn đề này, vì vậy hiện tại binh lực song phương ngang nhau, đang trong thế giằng co. Trước mắt quân Minh vẫn chưa rơi vào thế thua.
Nghe báo cáo xong, cảm thấy hơi an tâm, Dương Lăng bèn dặn dò Ngô Kiệt phái thêm người đi điều tra nguồn gốc tin đồn Hoàng đế Chính Đức không phải là máu mủ của tiên đế, một khi có kết quả phải lập tức bẩm báo với y ngay. Sau đó y chạy đi xem đám Hỏa Giả Á Tam nghiên cứu chế tạo hỏa súng.
Khi Hỏa Giả Á Tam vừa nghe xong nguyên lý khắc thêm rãnh xoắn trong nòng súng khiến viên đạn chuyển động xoay tròn sinh ra lực ly tâm làm gia tăng tầm bắn thì gã liền hiểu ngay, có điều thực sự bắt tay vào làm mới thấy đủ thứ phức tạp.
Đầu tiên là chất lượng nòng súng không tốt lắm, về sau bọn họ phải chọn dùng tinh thép có giá thành cực cao. Thí nghiệm hỏng mất mấy trăm nòng súng bằng tinh thép họ mới đại khái lần ra được chút manh mối, nhưng công nghệ gia công như thế quá mức phiền hà khiến cho chi phí sản xuất loại súng như vậy còn tốn kém hơn cả làm đao bọc thép.
Song nhóm phụ trách nghiên cứu kết nối đầu đạn chung với việc kích nổ lại có được tiến độ rất lớn. Bộ phận phóng đạn được thay đổi hết sức khéo léo, hơn nữa việc nạp đạn đã được chuyển thành nạp từ phía sau.
Do không có máy dập tương ứng, chế tạo thủ công loại đầu đạn và thân đạn mà Dương Lăng nói vô cùng khó khăn, nhóm thợ bèn đổi sang dùng vỏ giấy làm kíp nổ, lấy đá lửa và hỗn hợp lưu huỳnh làm "ngòi nổ". Khi bóp cò, đá lửa đập xuống, đốt cháy ngòi nổ, kích hoạt thuốc súng bên trong viên đạn khiến viên đạn được bắn đi.
Bên cạnh đó, loại đạn sử dụng cũng được chuyển từ hình tròn thành hình thoi, đầu đạn có thêm ba khía giống như mũi tên, tầm bắn tăng lên gần mười trượng song lực sát thương tăng lên không chỉ ba thành. Hơn nữa tốc độ bắn lại nhanh hơn súng hỏa mai kíp đá lửa thông thường gấp mấy lần, gần bằng với tốc độ bắn tên.
Khuyết điểm của nó là tầm bắn vẫn còn ngắn hơn cung tên, nhưng bù lại là tuy độ chính xác vẫn còn hơi kém nhưng vẫn nhỉnh hơn tên bắn một chút. Quan trọng nhất là Dương Lăng căn dặn bọn họ không ngừng thí nghiệm điều chế thuốc súng, nên sau khi thử nghiệm nhiều lần, bọn họ đã chế tạo được loại thuốc súng tốt hơn; hỗn hợp ni-trát, lưu huỳnh và bột than theo tỷ lệ khoảng 7.5:1.5:1 thì đạt được hiệu quả phát nổ tốt nhất.
Xung lực phát nổ lớn, khói súng và bã thuốc súng cũng ít đi, ước chừng có thể bắn liên tục sáu mươi đến tám mươi phát đạn mà không cần phải lau chùi nòng súng. Trong khi đó một cung tiễn thủ lợi hại cỡ nào cũng không thể bắn liên tục được hai mươi mũi tên. Cho nên chỉ cần quân đội song phương tiếp cận thì dưới sự phối hợp và bảo hộ của binh chủng khác, đội hỏa súng ba hàng bắn luân phiên sẽ là một cơn ác mộng không thể chống lại.
Có điều vấn đề kẹt đạn của loại hỏa súng này vẫn chưa có cách giải quyết hoàn toàn, tính ổn định lại kém, có lúc lại bắn ra đạn lép. Dương Lăng quyết định mau lẹ, y lập tức chạy đi lôi nhóm Hỏa Giả Á Tam đang nghiên cứu rãnh nòng súng (lúc này cả bọn đã nghiên cứu đến mắt xanh biến thành mắt đỏ, tóc tai dựng đứng bù xù, thượng đế là ai cũng quên mất) đến tham gia vào đội ngũ nghiên cứu chế tạo vỏ đạn giấy và súng lắp đạn phía sau. Y bảo bọn họ hãy dốc sức nghiên cứu chế tạo loại vỏ đạn giấy trước, còn về phần rãnh xoắn thì nhất định cũng phải nghiên cứu nhưng tạm thời không vội.
Dương Lăng cho rằng trước khi các ngành nghề liên quan như luyện thép, máy móc, thiết bị tinh vi đạt tới năng lực sản xuất và khoa học kỹ thuật tương ứng mà y vẫn cưỡng ép phát triển súng ống tiên tiến hơn là điều không thực tế. Bản thân y lại không phải là kỹ sư vạn năng, nếu như việc đã không giải quyết được thì nên tạm thời buông bỏ thôi. Loại kỹ thuật này vẫn có thể tiếp tục được nghiên cứu, tin rằng nó cũng sẽ có tác dụng thúc đẩy những ngành nghề khác, nhưng không nên lấy nó làm phương hướng nghiên cứu chủ đạo.
Hồi nhỏ, Dương Lăng thấy một thằng bạn béo ở trong doanh trại quân đội mang một cây dao găm quân sự rất sắc bén ra khoe. Với bản tánh thông minh lanh lợi Dương Lăng bèn lấy một bộ truyện tranh "Bảng Phong Thần" ra dụ đổi lấy cây dao găm của nó. Đáng tiếc y cầm chơi được có mấy ngày thì đã bị người bố làm tiểu đoàn trưởng của người bạn béo đó đến nhà đòi lại mất.
Giờ nhìn cây súng kíp đã có hình dáng ban đầu, nhớ tới cây dao găm sắc bén có thể lấy máu giết người nọ, Dương Lăng bèn đề nghị lắp thêm lưỡi lê vào. Song nói cho cùng, súng kíp không tiện dụng như trường thương và mã tấu. Trong thế giới hiện đại song phương cùng cầm súng trường thì người cầm súng có gắn lưỡi lê chỉ cần dùng vài động tác đơn giản như hất, gạt, đâm là đã có thể giết người. Còn thời này, trước mặt kẻ địch chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh thì việc gắn thêm lưỡi lê vào súng kíp chỉ là chuyện vô nghĩa.
Chỉ cần Dương Nhất Thanh cầm dao thực hiện vài động tác đâm chém đơn giản làm mẫu thì lập tức Dương Lăng bỏ qua ý định lắp lưỡi lê vào súng. Quyết định cuối cùng vẫn là sẽ chia thêm cho mỗi tay súng kíp một thanh đao giắt hông, đồng thời đội quân bắn súng sẽ liên hợp tác chiến cùng kỵ binh và các binh chủng bảo hộ khác.
Dương Lăng đi đến khu vực nghiên cứu chế tạo đang được trọng binh canh gác. Đứng trong ánh dương quang ấm áp đưa mắt nhìn những thôn xóm xa xa dưới núi, lòng y cảm thấy hơi ngậm ngùi: "Tiếc là Hoả Giả Á Tam không biết gì về hỏa pháo, còn mình thì ngoại trừ biết được cấu tạo đạn pháo và đạn của thời hiện đại chẳng khác nhau mấy, còn nguyên lý cơ bản của hỏa pháo thì lại không biết gì, bằng không bây giờ đã có thuốc súng uy lực mạnh hơn. Nếu chế tạo được hỏa pháo có lực sát thương cao hơn, trên chiến trường nhất định sẽ đánh đâu thắng đó."
Y hít một hơi dài, thầm nghĩ: "Nghe Hỏa Giả Á Tam nói quốc gia bọn họ đã nghiên cứu chế tạo được hỏa pháo lắp đạn phía sau. Nếu như có thể kiếm được một khẩu về nghiên cứu qua, có được chút gợi ý thì dựa vào tay nghề của những thợ thuyền này nhất định sẽ có thể chế tạo được súng ống lợi hại hơn. Tiếc là đường xá xa xôi, đến giờ vẫn chưa nghe nói có thuyền pháo của Phật Lang Cơ đến Trung Thổ quấy nhiễu."
"Hỏa pháo..." Dương Lăng chợt nhớ đến loại pháo cỡ nhỏ có giá đỡ ba chân mà người Nhật Bản sử dụng trong mấy bộ phim kháng chiến chống Nhật, rồi lại nhớ đến lựu đạn. Đó là những loại vũ khí xem chừng dễ chế tạo, dễ mang theo, uy lực lại chắc chắn lợi hại hơn nhiều so với loại súng kíp thông thường này.
Lúc còn ở trạm Kê Minh y từng thấy hỏa khí tương tự như lựu đạn thời hiện đại, có điều chúng quá cồng kềnh nên chỉ có thể dùng để ném từ trên thành xuống dưới đất. Hơn nữa sức công phá của thuốc súng lại không đủ cho nên không thể chế tạo vỏ bằng sắt.
Hiện tại thuốc súng cường lực đã có. Nếu như bọn y chế tạo được lựu đạn hình quả dưa có vỏ hình mai rùa dễ vỡ rồi trang bị cho mọi binh sĩ, tuy rằng công thành phá trại có chút khó khăn nhưng khi tác chiến ngoài đồng trống, loại sức sát thương khổng lồ đó nhất định sẽ có thể chống lại kỵ binh dũng mãnh của Mông Cổ. Hơn nữa những tiếng nổ lớn có thể khiến những con chiến mã Mông Cổ vốn chưa từng quen với hỏa lực hiện đại sẽ hoảng sợ. Chỉ cần người ngựa bọn họ rối loạn thì ưu thế về kỵ binh của bọn họ cũng sẽ không còn.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng phấn khích định quay trở về nói với đám người Hỏa Giả Á Tam về ý tưởng của mình. Nhưng mới vừa đi được vài bước, y lại cảm thấy hiện giờ bọn họ đã quá hao tâm phí sức vào việc nghiên cứu chế tạo vỏ đạn giấy, cứ đợi bọn họ có thành quả rồi mới đưa một mục tiêu mới cho bọn họ vậy.
Dừng chân, Dương Lăng chắp tay sau lưng quay lại đi men theo bước tường đầu chái nhà. Vừa đi được vài bước, y chợt trông thấy ở xa xa cửa phòng của Ngô Kiệt hé mở, một thư sinh vận áo dài xanh bước ra ngoài quay người lại nói với Ngô Kiệt đang theo sau mấy câu gì đó, rồi chắp tay vái chào, đi thẳng đến viên môn.
Dương Lăng nhận ra người thư sinh là Thành Khởi Vận đang cải nam trang, trong lòng không khỏi giật đánh thót: "Thành Khởi Vận tự mình lên núi để làm gì?" Dương Lăng bèn rảo bước từ con đường bên đuổi theo, vừa kịp đến cổng chặn đường Thành Khởi Vận.
Trông thấy Dương Lăng, mặt Thành Khởi Vận thoáng hiện lên vẻ kinh ngạc. Nàng thoáng chần chừ rồi bước lên gượng cười chào:
- Ti chức ra mắt đại nhân!
Dương Lăng nghiêm ánh mắt hỏi:
- Cô... sao lại lên núi vậy? Đường núi đầy tuyết trơn trợt không dễ đi, trong quân lại toàn là đàn ông...
Khuôn mặt Thành Khởi Vận đã không còn vẻ hoảng loạn, nàng trấn tĩnh lại, khẽ cười đáp:
- Ti chức ở trong phủ cảm thấy nhàm chán, hôm nay trời rất ấm cho nên lên núi đi dạo một vòng. Mang thân phận là Nhị đáng đầu của Nội xưởng, suy cho cùng thì không thể không biết chút gì về nha môn của chính mình có phải không? Hì hì...
Dương Lăng mỉm cười, nói:
- Việc này thực sự là do bản quan sơ ý rồi. Đã đi tới những đâu rồi? Đại đáng đầu không đi cùng cô sao? Có muốn bản quan đi cùng cô tham quan khắp nơi một chút không?
Thành Khởi Vận có cảm giác được yêu mến quá mức nên hơi lo sợ. Nhưng khi ngẩng đầu nhìn thấy rõ ánh mắt chất chứa sự dè chừng của Dương Lăng, nàng thoáng nghĩ đến điều gì đó, liền không khỏi tức giận.
Nàng mím môi lại, thoáng hiện hai hàng răng ngọc trắng đều như bắp, rồi cất giọng yêu kiều đáp:
- Đa tạ đại nhân, chẳng qua là ti chức đi vãn cảnh mà thôi! Không phải là đại nhân phải ra ngoài thành bố thí lương thực sao? Ti chức đi chậm, xin phép về phủ trước đợi ngài vậy.
Nói đoạn Thành Khởi Vận duyên dáng vái chào cáo từ. Y phục xanh nhạt dễ thương cùng gương mặt xinh đẹp chỉ trang điểm nhẹ, nụ cười rực rỡ dưới ánh dương quang khiến người ta hoa mắt, thật là muôn phần tươi đẹp.
Trong lúc Dương Lăng thoáng thất thần, Thành Khởi Vận đã nhướng mày, liếc nhanh y rồi khoan thai xuống núi.
Thành Khởi Vận lướt ngang qua người Dương Lăng. Tuy cải nam trang, song nàng lại cố ý bước đi kiểu phụ nữ, eo mảnh khoan thai, dáng người tha thướt, vẻ liếc mắt trông vô cùng mê người. Nàng vừa đi qua, một mùi thơm thoang thoảng kéo ngay đến, khiến Dương Lăng cũng lay động tâm tình, khởi lên bao ý niệm!
Dương Lăng ngạc nhiên đưa mắt nhìn theo bóng lưng nàng ta. Người con gái này bình thường thì có vẻ hoàn toàn vô hại, song nếu nàng ta đã định tâm cám dỗ thì với sắc đẹp, dáng điệu, tâm kế và thủ đoạn của nàng, quả thực chả có mấy người không bị lung lạc. Chẳng lẽ ngay cả Ngô Kiệt đã đến tuổi ”tri thiên mệnh” (tuổi năm mươi) cũng không kháng cự được sự mê hoặc của nàng ta?
Dương Lăng muốn đi hỏi Ngô Kiệt, song lại cảm thấy khó mà mở miệng. Chần chừ hồi lâu, y chợt nhớ lại cảnh ngày trước khi Chính Đức đến thăm, chính y cầm kiếm đe dọa đã khiến Thành Khởi Vận phải sa lệ. Rốt cuộc y đành khẽ thở dài rồi đi theo nàng ta xuống núi.
Đi đến trước sườn núi, Thành Khởi Vận đưa khoé mắt khẽ liếc về phía sau, thấy bóng dáng Dương Lăng đang chậm rãi theo sau lưng, nàng tựa cười mà như không cười, quay đầu lại thong thả nhiếc khẽ: "Tiểu oan gia, người ta vì ngươi mà lo sống lo chết. Còn ngươi thì sướng rồi, không biết thông cảm thì thôi, còn đi nghi ngờ người ta cám dỗ này nọ, hừ! Ngươi mắc nợ ta, sớm muộn... sớm muộn rồi có một ngày ta sẽ bắt ngươi trả hết cho ta."
Nàng oán hận vung chân đá bay một cục đá nhưng lại trượt chân ngã ngồi oạch xuống đất. Thành Khởi Vận tức giận đập mạnh tay xuống mặt đất, nhưng băng tuyết chạm vào tay lạnh buốt, thế là lại vội rụt về. Đúng lúc này, Dương Lăng đã đi đến bên cạnh, mỉm cười đưa tay ra.
Thành Khởi Vận liếc y một cái, giận dỗi quay ngoắt đầu đi, bảo:
- Chẳng phải đại nhân hoài nghi ti chức dụ dỗ Ngô lão đầu sao? Sao không đi hỏi cho rõ?
Dương Lăng cười ha hả:
- Không thể trách ta, ai bảo lúc trước cô.... À, có điều ta đã nghĩ thông suốt rồi, cô sẽ không làm thế đâu. Với tầm mắt tài tình của cô nương, sao lại đi làm việc đó chứ?
Thành Khởi Vận vụt quay đầu lại, ngạc nhiên ngước nhìn y, nhất thời tâm tình xao động, chỉ cần có lời này của Dương Lăng, mọi tâm huyết và nỗ lực của mình đều đáng giá.
Con tim tung tăng nhảy múa, nàng vui sướng đưa tay lên. Dương Lăng nắm lấy bàn tay xinh xắn mềm mại của nàng kéo dậy, nhưng y lại buông thêm một câu rất không hợp thời:
- Nếu như cô nương có lòng muốn trèo cao thì ngày đó ở trước mặt Hoàng thượng đã không giữ khuôn phép như vậy. Cho nên cho dù cô nương có muốn cám dỗ ai đi chăng nữa, cô cũng sẽ không cám dỗ Ngô lão. Có lỗi, có lỗi!
Thành Khởi Vận vừa nghe thì giận đến bốc khói, nàng hất tay Dương Lăng ra, cả giận la lên:
- Ngươi... ngươi... ngươi... ngươi cố ý có phải không? Ta tham công danh lợi lộc đến vậy sao? Nhất định phải có lợi ích thì mới chịu thật lòng đối đãi với người ta ư?
Đoạn nàng căm hận quay người bỏ đi. Nhưng do bước vội, đôi giày da hươu lót nhung bị trượt, nàng lại ngã bệch xuống đất, mông đập trúng một cục đá đau điếng khiến nàng trào nước mắt.
Dương Lăng bước ngang qua, ánh cười trong mắt. Thành Khởi Vận thấy ý cười trong mắt y, nhất thời trong lòng dấy lên một nỗi bi thương, đau đớn nói:
- Ta muốn về nhà, ta muốn về phương nam. Ngươi luôn gây khó dễ cho ta, ngay cả tuyết ở đây cũng ăn hiếp ta.
Dương Lăng mỉm cười kéo nàng dậy:
- Đường núi vốn trơn trợt, lúc tôi lên núi còn bị ngã một lần đó, hà cớ gì cô lại trút giận sang người khác? Nào, để tôi dìu cô xuống núi. Ờ... dù gì đi đường không có việc gì làm, cô có thể kể cho tôi nghe rốt cuộc cô tìm Ngô lão để làm gì không?
Mới vừa được kéo dậy, nghe y nói vậy thì Thành Khởi Vận không nhịn được phì cười, một lúm đồng tiền thoáng hiện lên rồi biến mất. Ngay lập tức nàng nhanh chóng che giấu nụ cười, liếc y đáp:
- Không nói! Dù gì thì ta cũng là đồ vô dụng trong mắt ngài, nếu không dụ dỗ con nít thì là dụ dỗ ông già. Ngài có chiêu gì thì cứ dùng đi, nói không chừng khi trường kiếm kề lên cần cổ này rồi, cái gì nên nói cái gì không nên nói ta cũng sẽ khai ra hết đó.
Mũ ô sa của Thành Khởi Vận hơi lệch sang một bên, tóc lộ ra ngoài. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua, một vài sợi tóc phơ phẩy nhẹ lên mặt Dương Lăng; nhột nhạt, thơm ngát...