Thánh George là Đồ Long dũng sĩ trong truyền thuyết Cơ Đốc giáo. Sự dũng cảm và thành kính của ông ta đã trở thành một tượng trưng cho tinh thần kỵ sĩ. Giương cờ Thánh George lên, tức là nói cho đối thủ và hữu thuyền biết, mình sẽ tử chiến đến cùng, quyết không lùi bước.
Hàn Vũ nhìn thấy thuyền hải tặc giương lên cờ tam giác màu đỏ như máu,
đồng thời biểu hiện của thuyền viên trên hai chiếc thuyền đều hơi chút
dị thường, trong lòng lập tức nổi lên nghi hoặc. Y không rõ thuyền hải
tặc giương cờ xí này lên có dụng ý gì, nhưng đoán hẳn là một loại cờ tín hiệu. Y lập tức ra hiệu thuyền giảm tốc độ, dự tính tiếp cận thăm dò.
Là một quan chỉ huy của một quân đội, y có thể điều chuyển cảm xúc của
quân đội, khiến toàn quân điên cuồng. Nhưng làm người chỉ huy, nhất định phải duy trì bình tĩnh trong mọi thời khắc. Đây là yêu cầu của Dương
Lăng đề ra khi diễn võ huấn luyện đối với các tướng lĩnh Thần Cơ Doanh.
Tính cách huynh đệ Hàn gia luôn trầm ổn, suy nghĩ sâu sắc.
Hàn Vũ đột nhiên thăng làm Thủy sư Đề đốc, tuổi còn trẻ mà đã trở thành
Tư Lệnh Hạm đội Nam Hải, càng cảm nhận được trọng trách trên vai, lúc
nào cũng suy nghĩ cẩn trọng. Dù thuyền địch đã bị bao vây, y càng không
hành động thiếu suy nghĩ.
Nhưng Bành Tiểu Dạng lại không có nhiều cố kỵ như thế. Thấy mình tới
chậm, ba thuyền hải tặc kia đã lửa lớn ngập trời, cũng không biết Tào
Thiên Sủng đã chết hay chưa, dù sao công đầu đã không giành được rồi.
Hiện giờ chiến thuyền Tây Dương đã bị vây hai vòng, chiến thuyền của gã ở mặt ngoài, phỏng chừng công lao đánh bại chiến hạm Tây Dương sẽ bị Hàn
Vũ cướp đi, trong lòng Bành Tiểu Vũ cực kỳ nôn nóng.
Chiếm hạm kiểu mới mà gã vừa mới được trang bị chiếm hơn hẳn số chiến
hạm mà Hàn Vũ suất lĩnh, bởi vậy nóng lòng muốn biểu hiện. Đồng thời
chức quan của Hàn Vũ dù trên y, nhưng khi ở Thủy sư Chiết Giang gã cũng
là sư phụ của Hàn Vũ, bất kể là kỹ năng bơi hay là bản lĩnh điều khiển
thuyền đều là một tay gã dạy cho Hàn Vũ. Hơn nữa hiện giờ Hàn Vũ là Thủy sư Phúc Kiến, không có quyền quản lý gã, nên Bành Tiểu Dạng ít e dè
hơn.
Lúc này vừa thấy Hàn Vũ giảm tốc độ, Bành Tiểu Dạng lập tức mệnh lệnh
chiến hạm của gã gia tăng tốc độ xuyên vào giữa bốn chiến hạm của Hàn
Vũ, giống như đàn sói đánh về phía "Hoàng Kim Hạm" và "Mạo hiểm Hạm" của Phí Nhĩ Nam Đa.
- Nguy rồi. Hàn Vũ thấy thế kinh hãi, lệnh kỳ thủ vung cờ tín hiệu lên.
Hạm đội của Bành Tiểu Dạng lại làm như không nhìn thấy. Hàn Vũ đành phải lệnh chiến hạm của mình lập tức lái bánh hướng sang bên, chuẩn bị hỏa
pháo yểm hộ.
Trước kia Bành Tiểu Dạng đi theo quan binh chiến đấu bao vây tiễu trừ Sa Ngư Vương Phổ Đà Sơn, am hiểu rất sâu khi hỏa lực không bì kịp đối thủ
thì lấy nhanh nhạy để thắng như thế nào. Gã lệnh bốn chiến hạm lợi dụng
nhược điểm của "Mạo Hiểm Hạm" đã mất đi năng lực hành động mà giáp công
đầu đuôi của nó, tận lực áp sát thuyền địch, sử dụng sở trường để chiến
đấu với hải tặc.
Mạo hiểm Hạm đã bị gãy cột buồm chính chỉ có thể công kích hai cánh trái phải, nhiệm vụ bảo vệ đầu đuôi là để "Hoàng Kim Hạm" thực hiện. Đồng
thời "Hoàng Kim Hạm" nằm ngang song song với nó, để nó làm nhiệm vụ bảo
vệ đầu đuôi của "Hoàng Kim Hạm".
Nhưng làm như thế chỉ kéo dài thời gian, chủ yếu dùng để giao chiến với
các hữu hạm khác và chiến hạm kẻ địch, khiến chiến hạm địch không thể
triển khai công kích đối với họ. Hiện tại chiến hạm Tây Ban Nha bị chiến hạm Đại Minh vây quanh, áp dụng phương thức này căn bản chính là thay
đổi hải chiến làm trận địa chiến, muốn cùng quân Minh quyết đấu tới viên đạn cuối cùng.
Bành Tiểu Dạng nhìn ra kiểu canh phòng hỗ trợ lẫn nhau của 'Hoàng Kim
Hạm" và Mạo hiểm Hạm", phạm vi hoạt động của nó rất hạn chế, chiến
thuyền không thể di chuyển ra khỏi phạm vi yểm hộ pháo hỏa của thuyền
bạn "Mạo hiểm Hạm", bán kính hoạt động cực kỳ chật hẹp. Vì vậy gã tập
trung bốn chiến hạm lấy đội hình dày đặc áp sát ngoài mạn thuyền "Hoàng
Kim Hạm".
Cứ như vậy "Hoàng Kim Hạm" chỉ có pháo một bên mạn thuyền có thể phát
huy tác dụng. Đồng thời bởi vì thân tàu của nó che chắn, "Mạo hiểm Hạm"
phía sau không thể tiến hành hỏa lực để trợ giúp. Hỏa lực bốn chiến hạm
của Bành Tiểu Dạng hoàn toàn khống chế "Hoàng Kim Hạm".
Đối xạ thảm thiết chưa từng có, lúc này "Hoàng Kim Hạm" nghĩ muốn chạy
trốn hoặc là vứt bỏ "Mạo hiểm Hạm" điều chỉnh góc độ tác chiến, trong
quá trình chạy trốn ắt sẽ phải chịu hậu quả đáng sợ chịu bị sáu bảy mươi khẩu đại pháo đồng thời oanh kích.
Cánh buồm hình thang của "Hoàng Kim Hạm" bị bốc cháy rồi. Cột buồm phía
trước bị đánh gãy, trên boong thuyền máu chảy thành sông, đám thủy thủ
bị đạn ria dày đặc bắn trúng nằm la liệt trên boong thuyền. Bốn chiến
hạm của Hàn Uy nằm ở góc chết pháo hỏa "Hoàng Kim Hạm", nhưng vẫn thong
dong đánh xoay vòng, không ngừng nã pháo vào.
Được hỏa lực của Hàn Vũ yểm hộ, chiến hạm của Bành Tiểu Dạng bị trả giá
bằng sáu lỗ thủng ở mạn thuyền, boong tầu trên cùng và vải bạt bị đập vỡ nát, rốt cuộc đã tiếp cận được "Hoàng Kim Hạm".
Khi còn cách ba mươi trượng, "Súng phun lửa" đặc biệt đặc sắc của Thủy
sư Đại Minh đã phát huy công dụng, hơn trăm con hỏa long đồng thời bắn
lên trời vọt qua, boong thuyền Tây Dương lập tức bùng cháy.
Các pháo thủ đang khẩn trương nhét đạn dược vào bị lửa cháy thiêu đốt hoảng sợ buông đồ trong tay bỏ chạy.
"Ầm ầm", có hỏa dược đã bị dẫn cháy. Tuy rằng ôm tín niệm sẽ phải chết,
nhưng thân xác máu thịt của đám hải tặc chung quy không thể đối kháng
với liệt hỏa. Chiến hạm của quân Minh tránh được mép thuyền bốc cháy, di chuyển đến nơi đầu thuyền đuôi thuyền, ném móc câu và dây thừng lên
"Hoàng Kim Hạm".
Bành Tiểu Dạng rút ra Quỷ đầu Đại Khảm Đao, cười dữ tợn: - Các huynh đệ, giết, giết sạch quỷ tóc đỏ kia.
Chiến đấu thảm liệt bằng hỏa lực rồi, Bành Tiểu Dạng trần trụi hai cánh
tay, suất lĩnh binh lính lên móc bản nối với mạn thuyền giao phong giáp
lá cà với đám hải tặc trên "Hoàng Kim Hạm". Hải tặc dùng hỏa súng và thủ phủ nặng công kích, quân Minh thì lấy súng etpigôn, cung tiễn, đầu
thương phản kích.
Không ngừng có người kêu gào thảm thiết rơi vào biển lớn. Cuối cùng,
quân Minh bắt đầu xuất hiện tại đầu thuyền "Hoàng Kim Hạm", ngay sau đó
quan binh Thủy sư tiến lên càng ngày càng nhiều. Đám hải tặc Tây Ban Nha buông hỏa thương, rút trường kiếm để đón đỡ.
Thủy binh song phương đao sắc giao nhau, những tiếng kêu lập tức vang
vọng không trung. Cuộc chiến trên "Hoàng Kim Hạm" ảnh hưởng trực tiếp
đến "Mạo hiểm Hạm". Mất đi hỏa lực của "Hoàng Kim Hạm" trợ giúp, "Mạo
hiểm Hạm" không thể di chuyển dễ dàng bị quân Minh tiếp cận từ góc chết, sau đó nhiều quan binh tuôn lên boong thuyền hải tặc.
Phí Nhĩ Nam Đa mặc áo choàng phóng khoáng múa kiếm Tây Dương có mũi kiếm hẹp dài, kim nhĩ hoàn to lớn tại đầu vai không ngừng lắc, mũi kiếm sáng loáng vừa mới đâm vào ngực một binh lính quân Minh, lập tức rút ra cực
nhanh, đón đỡ một thanh đơn đao khác.
An Đông Ni tay cầm chiến phủ nặng trịch, gào thét xung kích trên boong
thuyền, vô cùng hung hãn, chiến phủ nặng trịch đấu với đơn đao của quân
Minh rất chiếm thế thượng phong, nhưng ngay sau đó hai gã thủy binh dùng trúc thương đen tuyền làm sào, từ chiến hạm quân Minh nhảy lên, lại
dùng trúc thương nhẹ đó dễ dàng ngăn được y.
Chiến phủ mạnh mẽ nhanh như gió đã không có đối thủ. Hai binh lính quân
Minh đứng cách đó hơn một trượng, trước mặt An Đông Ni chỉ có hai đầu
thương có tua rua màu đỏ di chuyển tiến lùi. Y phí công vung chiến phủ
nặng trịch lên, dần dần cảm thấy hai tay trì trệ, cũng không nghe được
âm thanh "phập phập" đâm vào thân thể khiến người ta hưng phấn cùng với
máu tươi của quân Minh bắn lên không trung.
Chỉ một tiếng "phập", cánh tay bủn rủn không còn chút sức lực nào trì
hoãn một giây, một âm thanh còn ngắn ngủi hơn nhiều so với thanh âm lưỡi búa cắt ngang thân thể của y. An Đông Ni cảm thấy trên ngực đau đớn. Y
cúi xuống, một cây thương to như cánh tay trẻ em đã đâm xuyên qua ngực,
trên ngực lộ ra tua rua màu đỏ, không nhìn thấy đầu thương, đầu thương
dài nửa thước sắc bén đã đâm thấu vào tim y.
Búa lớn hai lưỡi nặng trịch rơi xuống đất.
Đám hải tặc sở trường dùng hỏa thương chiến đấu giáp lá cà cũng không
quá kém. Đấu kiếm là môn mà chỉ những nhân vật thượng đẳng mới có thể
chơi, đa số hải tặc không am hiểu. Bọn họ quen dùng chiến phủ nặng, lưỡi mở hai bên. Chiến phủ vô cùng sắc bén đấu lại đơn đao của Thủy sư cũng
không chịu thiệt, chỉ nghe "keng" một tiếng, đao gãy lưỡi bay, chiến phủ sắc bén tàn sát bừa bãi thu gặp mạng người.
Nhưng một trong những trang bị chủ lực của quân Minh tác chiến trên biển với hải tặc Tây Dương không phải là trường mâu bình thường, mà là
thương có chum tua rua. Đó là trúc thương Giang Nam được dùng dầu ngâm,
dùng đay tơ quấn quanh, vừa nhẹ lại chắc chắn, trọng phủ cũng không thể
phát huy được ưu thế.
Quân Minh đông đảo, trường thương như rừng đâm xuống, đám hải tặc Tây
Dương giống như rối gỗ bị người ta đứng cách hơn một trượng giật dây đùa bỡn. Dũng khí liều chết của đám hải tặc được dâng lên bởi chiến kỳ đã
dần dần tiêu tan, có người bắt đầu chạy trốn.
Bành Tiểu Dạng quơ Quỷ đầu đao sục sạo tìm kiếm đối thủ. Sống đao của gã rất nặng, bên trên là chín vòng sắt rung động kêu đinh đương, vung múa
tạo nên tiếng gió rít, cũng không hề thua kém búa hai lưỡi của Tây
Dương, cộng thêm võ nghệ cao cường, rất nhiều hải tặc đã chết dưới đao
của gã.
Gã một mặt vừa chém giết hải tặc, một mặt quan sát động tĩnh trên
thuyền, rất nhanh phát hiện một tên hải tặc râu vểnh tay cầm kiếm sắc
dài nhỏ mặc áo choàng, hình như là một thủ lĩnh.
Bành Tiểu Dạng cả người đẫm máu lập tức vọt tới hướng kẻ đó. Phí Nhĩ Nam Đa có kinh nghiệm chiến đấu và kỹ xảo đấu kiếm cực kỳ phong phú, cùng
Bành Tiểu Dạng trẻ trung khỏe mạnh đao qua kiếm lại, giết đấu với nhau,
đồng thời y lợi dụng kiếm nhẹ và quen thuộc tình hình trên thuyền không
ngừng di chuyển, lợi dụng vật thể chung quanh làm yểm hộ, tiêu hao thể
lực của Bành Tiểu Dạng.
Bành Tiểu Dạng phát giác được ý đồ của y, Phí Nhĩ Nam Đa vừa vượt qua la bàn, Bành Tiểu Dạng liền chuyển đao sang tay trái, cho tay vào ngực,
sau đó lấy ra một vật trắng bóng, ném ra ngoài.
Phí Nhĩ Nam Đa vội vàng lui lại, đồng thời giơ kiếm lên đâm, không ngờ
vật kia bay lên không trung lại mở lớn ra, một kiếm sắc bén đâm vào
không khí, tức thì một tấm lưới cá rơi xuống chụp lên người, cuốn cả
người y vào trong đó, làm y sử dụng kiếm vô cùng khó khăn.
Bành Tiểu Dạng một đao đánh bay trường kiếm của Phí Nhĩ Nam Đa, sau đó
một cước đá y ngã ra đất, kéo tấm lưới lẫn người đến một cây cột buồm,
dứt dây thừng nhanh chóng buộc mấy vòng, trói y trên cột buồm.
Đám hải tặc để ý thấy Phí Nhĩ Nam Đa bị bắt giữ lập tức kinh hãi la lên. Đến lúc này thì sĩ khí của chúng đã giảm mạnh, cục diện chiến đấu trên
thuyên đã nghiêng về một phía.
Chiến hạm của Hàn Vũ cũng đã đến gần thuyền hải tặc. Lúc này y cũng đã
đoán ra ý nghĩa của cờ tam giác đỏ như máu kia. Đứng ở mũi tàu, Hàn Vũ
im lặng quan sát tình hình trên hai chiến hạm một chút, sau đó nói: -
Lấy cung cho ta!
Hàn Vũ yêu cầu thân binh mang cung tới, đặt một cành hỏa tiễn lên dây
cung, sau đó châm mũi tên, nhắm bắn ngay vào lá cờ tam giác đỏ như máu
kia. Hỏa tiễn bắn trúng mặt cờ, cắm chiến kỳ đang tung bay phấp phới
trong gió kia lên cột cờ, bùng cháy lên. Trong khoảnh khắc chiến kỳ đã
cháy thành tro tàn.
Đám hải tặc thấy tình hình này tức thì từ bỏ chống cự, bắt đầu bỏ chạy
tán loạn. Nhưng biển cả rộng mênh mông, chúng có thể chạy trốn đi đâu?
Phí Nhĩ Nam Đa thấy tình cảnh này, hét lớn: - Tướng quân các hạ, ta là
thuyền trưởng của họ, giờ chiến hạm và các chiến sĩ của ta đầu hàng các
hạ. Xin tướng quân yêu cầu bộ hạ của ngài ngừng tiếp tục tàn sát.
Bành Tiểu Dạng cười ha ha, cách xưng hô "tướng quân các hạ" này làm gã
hơi chút lâng lâng, nhưng nghĩ đến mệnh lệnh "Chém tận giết tuyệt, diệt
cỏ tận gốc" của Thành Khởi Vận, gã lại hơi chút do dự.
Lúc này Hàn Vũ cùng các thân binh hộ vệ đi lên thuyền hải tặc, nói với
Bành Tiểu Dạng: - Bành đại nhân, chỉ cần họ ngừng phản kháng, thì hãy ra lệnh cho người của ngài ngừng chiến đấu đi.
Bành Tiểu Dạng vội nghênh đón, hạ thấp giọng nói: - Đại nhân, Thành đại nhân đã phân phó, phải
Hàn Vũ ngắt lời: - Ta biết, Thành đại nhân chỉ bảo chính là chém tận
giết tuyệt bộ phận Tào Thiên Sủng, chấn nhiếp quần đạo Đông Hải. Những
người Tây Dương này đột ngột đến, vẫn nên đưa về giao cho đại nhân xử lý thì hơn, có lẽ sẽ có trọng dụng.
Y nói đến đây, giọng càng hạ thấp hơn: - Ngươi nhìn đi, thuyền kia đã
sắp chìm rồi, chiếc này cũng đã bị hủy hoại nghiêm trọng, nếu ép, bọn họ đục chìm thuyền thì phải làm sao?
Bành Tiểu Dạng nhếch môi cười nói: - Vậy quay về thuyền của mình là được, ha hả, đại nhân ngài thật sự là
Hàn Vũ trừng mắt nhìn gã, sẵng giọng: - Ngu ngốc, ngươi xem trên thuyền
này có bao nhiêu khẩu đại pháo hả? Sau khi chìm rồi ngươi mò lên hả?
Thật sự giết sạch họ rồi, thuyền này cũng xong đời. Hiện tại mau chóng
ngưng chiến, lập tức kéo thuyền tới đảo Độc Long. Hỏa pháo trên hai
chiếc thuyền, ngươi một nửa, ta một nửa, thế nào?
Ánh mắt Bành Tiểu Dạng sáng lên, vỗ vỗ gáy nói: - Đúng rồi, ta đúng là heo mà. Đúng đúng đúng, đại nhân nói rất đúng.
Gã lập tức quay người hô: - Ngưng chiến! Ngưng chiến! Nhận đầu hàng! Bà nó, đừng chém nữađây đều là dê béo đấy!
Chiến đấu kết thúc, đám hải tặc buông vũ khí, hai chiếc thuyền hải tặc
vỡ nát bị bắt quay về bờ. Lúc này chiến hạm của Tào Thiên Sủng vẫn còn
đang cháy, xem ra ít nhất phải một ngày nữa mới đốt xong. Tuy nhiên trên thuyền khói đặc cuồn cuộn, khả năng đã không còn ai ở trên đó nữa.
Một số hải tặc rơi xuống nước ôm mảnh gỗ thuyền tam bản hoặc chìm hoặc
nổi, nhưng lại bị chiến hạm của quân Minh đi qua đã không chút lưu tình
nào mà bắn chết. Một số ít hải tặc nhảy khỏi đó bơi vào bờ, hoảng sợ
không biết trốn đi nơi nào.
Thuyền vừa đến bờ, Hàn Vũ liền mệnh quan binh lên bờ tìm kiếm, đồng thời cho người dập tắt lửa trên thuyền hải tặc Tây Dương, kiểm kê số lượng
pháo. Người của Bành Tiêu Dạng đông, gã phân ra một bộ phận trông giữ
hải tặc Tây Dương, một bộ phận khác lên bờ bắt hải tặc, bắt phụ nữ, bản
thân gã thì mở to mắt trâu theo sát Hàn Vũ, sợ y gian dối giữ lại một
khẩu pháo chiếm lợi cá nhân.
Trong năm mươi khẩu Phật Lang cơ pháo thì có ba khẩu vừa bị tổn hại
trong trận chiến đấu, hai người phân chia mỗi người hai mươi ba khẩu,
còn dư lại một khẩu. Bành Tiểu Dạng đuổi theo bên cạnh Hàn Vũ, cứng rắn
đòi lấy khẩu pháo này.
Tận đến khi Hàn Vũ đáp ứng không cần nữ nhân bị bắt đưa về Thủy sư Phúc
Kiến, toàn bộ giao cho Thủy sư Chiết Giang xử lý. Lúc này phụ nữ bị quan binh lùng bắt cũng lục tục bị áp đến bên bờ. Bành Tiểu Dạng nhéo cằm
đứng ở mép thuyền, nhìn nhìn đám yêu tinh này, lại nhìn nhìn những khẩu
hỏa pháo kia, đau đớn nửa ngày mới đáp ứng.
Hải tặc bị lùng bắt được đã bị xử quyết toàn bộ theo chỉ bảo của Bành
Tiểu Dạng rồi, ba thuyền hải tặc đang cháy cũng được dùng dây thừng kéo
tới chỗ nước cạn bên bờ vứt ở đó, mục đích dĩ nhiên không nói cũng biết.
Đợi toàn bộ vật dụng cùng với nhóm vũ khí như pháo, hỏa thương, búatrên
thuyền Tây Dương được chuyển hết lên chiến hạm của quân Minh, mười ba
chiến hạm của quân Minh nhanh chóng rời khỏi đảo Độc Long. Khi cách bờ
một mũi tên, mười ba chiến hạm xếp thành một hàng nhắm bắn ngay vào một
chiếc lợi hại nhất trong năm thuyền hải tặc vừa xếp thẳng tắp, một chiếc thuyền hải tặc cháy hừng hực lập tức bị pháo hỏa bắn cho tan nát.
Phá hỏng hoàn toàn thuyền hải tặc là mưu kế của Thành Khởi Vận. Diệt
toàn bộ đám hải tặc này cũng không có ý nghĩa. Ý nghĩa chân chính của
trận chiến đấu này chính là sau khi kết thúc chiến sự lấy sự cố "Tăng
táo pháp" bố trí nghi binh, lưu lại cho người có tâm thưởng thức. Về
phần năm mươi khẩu đại pháo này thật sự là niềm vui ngoài ý muốn rồi.
Trận chiến tại đảo Độc Long quả nhiên đã khiến người có tâm chú ý tới.
Vương Mỹ Nhân đến, Hải Cẩu Tử đến, Tuyết Miêu đến, Bạch Tiểu Thảo đến.
Ngay cả Bội Đức La trên đảo Lã Tống biết chuyện xảy ra cũng tới. Từng
nhóm người đến vây quanh hài cốt chiến hạm bị đốt kia, cẩn thận đánh
giá, sắc mặt cả đám ngưng trọng, không thốt được một câu nào.
Thân thuyền bị tổn hại do mười ba chiếm hạm xếp thành hàng trong khoảng
cách gần bắn còn nghiêm trọng hơn những tổn hại mà trong hải chiến tạo
thành. Từ vết tích cho thấy, hỏa pháo của đối phương độc, chuẩn, lực sát thương kinh người, điểm rơi dày đặc, miệng vết thương cực lớn, khiến
người khác tưởng tượng ra chiến thuyền của đối phương trang bị hỏa khí
đáng sợ như nào.
Tứ đại khấu Đông Hải ít nhiều đều biết sự lợi hại của hỏa pháo Tây
Dương. Nhất là Hải Cẩu Tử, Tuyết Miêu và Bạch Tiểu Thảo, bọn họ cách xa
lục địa, thường qua lại với hải tặc Tây Dương, thấy tình cảnh này trong
lòng đều kinh hãi. Thi thể không trọn vẹn bị hải triều đẩy lên bờ cát và hải tặc bị xử lý trên bờ càng khiến trong lòng họ hoảng sợ.
Về phần Bội Đức La, đích thân trang bị hỏa khí lên chiến hạm, dĩ nhiên
hiểu rõ hơn so với ai khác. Đối phương đã dùng hỏa lực công kích chiến
thuyền của y, mới có thể tạo nên vết tích đáng sợ như thế cho chiến hạm
của y, sau đó thong dong thu thập thảm cục, đem kéo chiến thuyền bị tổn
hại từ giữa biển đi vào bờ lấy hết chiến lợi phẩm. Có thể thấy cuộc
chiến đấu kết thúc vô cùng nhanh.
Rốt cuộc quân Minh nắm giữ vũ khí bí mật gì? Vì sao trước đây tiếp xúc
quân Minh lại chưa từng đụng phải nhỉ? Thoáng cái Bội Đức La đã tổn thất hai chiến hạm chủ lực, không thể không bắt đầu cân nhắc có nên ở tại
Đông Phương lâu dài hay không.
Nhón một quả anh đào ném vào miệng, mút thịt quả chua chua ngọt ngọt,
nhẹ nhàng nhả hạt vào đĩa bên cạnh. Hết thảy những động tác này đều như
là vô thức, hắn tựa vào dầu giường, cũng không biết đang suy nghĩ cái
gì.
Trên người chỉ mặc một tấm áo choàng trắng mỏng nhẹ, dây lưng bên hông
đã buông lỏng, cổ áo trễ xuống lộ một mảng da thịt. Hắn vừa mới tắm rửa, nằm trên tấm đệm trải giường là hàng dệt thượng hạng, vô cùng mềm mại,
thật sự khiến người ta thoải mái.
- Đại nhân đang suy nghĩ gì vậy? Thành Khởi Vận mặc bào rộng màu đỏ thẫm nghiêng người ngồi mép giường, thản nhiên hỏi.
Mái tóc dài của nàng ướt sũng thả trên vai, khuôn mặt xinh đẹp dịu dàng
vô cùng quyến rũ. Bàn tay trắng nõn của nàng cầm một cái lược sừng trâu
màu xanh nhẹ nhàng chải mái tóc sáng mượt như tơ.
- Mấy ngày nay, Tứ đại khấu Đông Hải và hải tặc Tây Dương Lã Tống đều
đến đảo Độc Long rồi. Ta nghĩ, hẳn Tuyết Miêu và Hải Cẩu Tử nên bày tỏ
với chúng ta hay không? Ừm, chắc cũng đã phái người đến rồi.
Mặt khác, trong kinh nói quốc vương MaLacca thường chạy đến khóc lóc kể
lể với Hoàng thượng. Nàng cũng biết đấy, Hoàng thượng tâm cao khí ngạo,
chắc sẽ không dễ dàng tha thứ cho việc phiên quốc của mình bị bắt nạt
như thế. Huống chi MaLacca mà mất đi, hơn sáu mươi nước phụ thuộc Nam
Dương không còn tiến cống triều đình nữa, dụng binh là chuyện sớm hay
muộn. Hy vọng một trận chiến ở đảo Độc Long có thể tạm thời ngăn chặn dã tâm của hải tặc Tây Dương, đủ cho ta tranh thủ thời gian.
- Ừm, thám báo phái đi MaLacca bí mật dò xét còn chưa trở lại sao? Hơn
nữa gần năm mươi khẩu hỏa pháo chúng ta đoạt được, dù bây giờ khai chiến cũng không có gì ghê gớm cả. Nhưng đại nhân chớ quên, Hoàng thượng để ý nhất vẫn là việc ở Tứ Xuyên. Vị Thục Vương gia kia hình như đã xuất
gia, cả ngày tránh ở Thanh Dương cung tu thân dưỡng tính. Thiếp thật sự
lo lắng chàng tới Tứ Xuyên lại không tìm ra được nhược điểm của y.
Thành Khởi Vận nói xong, tóc cũng đã chải xong, hất xõa ở sau lưng.
Nguyệt mi của nàng mảnh dài, sóng mắt cực kỳ quyến rũ, mũi ngọc tinh
xảo, đôi môi đỏ thắm, một vẻ đẹp tươi tắn trẻ trung toát lên gương mặt.
Dương Lăng ha hả cười nói: - Ta cũng muốn xuất gia làm đạo sĩ, luyện đan ở Thanh Dương cung với lão cáo già kia.
- Đại nhâncũng muốn xuất gia làm đạo sĩ? Vậy không biết còn phải kham khổ ở nơi đó đến bao lâu?
Vẻ quyến rũ trong đôi mắt của Thành Khởi Vận càng đậm, thân thiết hỏi.
Nàng ngồi đối mặt với Dương Lăng, ánh nến chiếu rọi từ sau lưng nàng, y
phục như trong suốt, nổi bật đường cong hoàn mỹ không tỳ vết, đôi mắt
kia càng quyến rũ động tình.
Không biết là cố ý hay là vô ý, y phục của nàng hơi rộng, lộ ra làn da
trắng mịn như phấn ở trước ngực, bầu ngực đẹp như ngọc trắng như tuyết
nửa ẩn nửa hiện, nhìn trong ánh sáng mờ mờ chỉ thấy trắng mịn như phấn,
phập phồng, yểu điệu làm người ta cảm thấy vô cùng đẹp đẽ hấp dẫn.
Dương Lăng lòng hươu dạ vượn, không kìm nén được nói: - Nếu chỉ là theo
lão hồ ly kia, dĩ nhiên là chán rồi, nhưng nếu có tiểu hồ ly nàng đi
cùng, ha hả
- Có thiếp thì thế nào? Thành Khởi Vận dịu dàng quyến rũ cười: - Chúng ta thử xem có được không?
- Cái gì? Thử cái gì? Dương Lăng hỏi.
Nhưng Thành Khởi Vận không trả lời, nàng khẽ hạ thấp thân hình yêu kiều
xinh đẹp xuống, tay mở dây lưng áo choàng của Dương Lăng.