Chương 33
Zug, Thụy Sĩ
Gustav Schmidt, trưởng đội chống khủng bố thuộc Cục Tình báo Liên bang Thụy Sĩ, là một đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống lại Hồi giáo cực đoan. Ở một đất nước mà các chính trị gia trúng cử, giới báo chí, và phần lớn dân chúng đều chống Mỹ và cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, Schmidt đã lặng lẽ thiết lập những mối quan hệ cá nhân với đối tác ở Washington, đặc biệt là Adrain Carter. Khi Carter cần giấy phép hoạt động trên đất Thụy Sĩ, Schmidt ngay lập tức cho phép. Khi Carter muốn một phần tử al-Qaeda biến mất khỏi Liên bang, Schmidt thường bật đèn xanh cho ông ta. Còn khi Carter cần chỗ đáp máy bay, Schmidt thường cho ông ta quyền tiếp đất. Bãi hạ cánh tư nhân ở Zug, một thành phố công nghiệp giàu có tại trung tâm đất nước, thường là bãi đáp ưa thích của Carter khi ông ta đến Thụy Sĩ. Schmidt cũng rất ưa nó.
Vừa qua nửa đêm, chiếc máy bay phản lực Gulfstream V ló ra khỏi những đám mây và hạ xuống đường bay đầy tuyết. Năm phút sau, Schmidt đã ngồi đối diện Carter trong khoang cabin hẹp. “Chúng tôi gặp một vấn đề”, Carter nói. “Nói thật với anh, chúng tôi còn chưa hình dung được toàn cảnh mọi chuyện”. Ông ta đưa tay về phía người cùng đi. “Đây là Tom. Anh ấy là bác sỹ. Chúng tôi nghĩ sẽ cần anh ta giúp trước khi qua đêm nay. Thư giãn đi, Gustav. Làm một cốc nào. Có lẽ chúng ta sẽ phải ở đây một lúc lâu”.
Sau đó Carter nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm tuyết rơi và không nói gì nữa. Ông ta không cần phải nói rõ. Schmidt đã biết vấn đề là gì. Một điệp viên của Carter đang gặp nạn, còn Carter không chắc người điệp viên đó có sống sót nổi mà quay trở về hay không. Schmidt mở chai brandy và lặng lẽ uống. Trong những lúc như thế này, anh ta mừng vì mình là người Thụy Sĩ.
Cùng lúc đó, nhiều người cũng đang thức khuya tại trạm hàng không chung sân bay Kloten. Người đang chờ không phải là một cảnh sát cao cấp người Thụy Sĩ mà là Moshe, bodel (một điệp viên) đến từ Paris. Vào lúc 12 giờ 45 phút, bốn người khác xuất hiện từ phía trạm và lao mình vào cơn bão tuyết. Moshe nhấn còi chiếc Audi A8 khiến bốn người nhất loạt quay lại và đi về phía anh. Yaakov, Mikhail, và Eli Lavon ngồi băng sau xe. Gabriel ngồi đằng trước.
“Cô ấy đâu?”
“Đang di chuyển về hướng Nam”.
“Cậu lái xe đi”, Gabriel ra lệnh.
Sarah thức dậy với cảm giác toàn thân lạnh buốt, tai cô ong ong vì tiếng rít của vỏ bánh xe trên mặt nhựa đường ướt. Mình đang ở đâu đây? Cô nghĩ thầm, sau đó nhớ lại. Cô đang ở trong thùng xe Mercedes, làm người khách bất đắc dĩ của Muhammad trong chuyến hành trình đêm đi tới sự quên lãng. Chầm chậm, từng chút một, cô ghép lại những mẩu thông tin trong ngày, một ngày dường như dài vô tận, rồi xếp chúng lại theo thứ tự. Zizi ngồi trên máy bay trực thăng nhìn đồng hồ đeo tay trong khi RA LỆNH ĐƯA CÔ VÀO TUYỆT LỘ. Và Jean-Michel, người bạn đồng hành trong chuyến đi, tranh thủ chợp mắt vài phút trên đường đi. Cuối cùng là tên quái vật Ahmed bin Shafiq, hắn cảnh cáo với cô rằng vụ tắm máu của hắn tại Vatican vẫn chưa chấm dứt. Cô nghe văng vẳng bên tai giọng nói đều đều như nhịp trống của hắn.
Tôi muốn biết tên gã liên lạc với cô trên bãi biển Saline...
Cậu ấy là Yaakov, cô nghĩ. Cậu ấy đáng giá gấp trăm lần mày.
Tao muốn biết tên con nhỏ đi khập khiễng gần LeTetou trong bữa tiệc tối của Zizi…
Cô ấy là Dina, cô nghĩ. “Người còn sống sót” đang sục sôi chí báo thù.
Tao muốn biết tên gã đàn ông đã làm đổ rượu lên đồng nghiệp của tao tại Saint-Jean…
Anh ấy là Gabriel, cô nghĩ. Một ngày không xa anh ấy sẽ đến giết mày.
Bọn họ đã đi hết rồi, mày chỉ còn một mình…
Không, tao không một mình, cô nghĩ. Họ đang ở đây cùng tao, tất cả mọi người.
Trong tâm tưởng, cô hình dung họ đang đến cứu mình trong màn tuyết rơi dày đặc. Họ có kịp đến trước khi Muhammad đưa cô vào giấc ngủ vĩnh hằng êm ái không? Họ có đến kịp lúc để biết về bí mật mà Ahmed bin Shafiq đã cao ngạo phun ra với cô không? Sarah biết cô có thể giúp họ. Cô có thông tin Muhammad muốn và cô có thể khai theo nhanh hay chậm tùy mình thích, hay theo những chi tiết cô chọn. Khai chậm thôi, cô nghĩ. Chẳng việc gì phải vội vàng.
Khi Sarah tỉnh dậy lần tiếp theo, chiếc xe đang nổ máy rền vang. Không còn tiếng rít của bánh xe trên mặt nhựa đường ẩm ướt nữa. Có vẻ như họ đang cày qua lớp tuyết dày trên con đường gồ ghề. Một phút sau, điều này được khẳng định khi những chiếc bánh không còn lăn nổi chiếc xe hơi khiến một trong những tên ngồi trong xe phải ra ngoài đẩy. Khi chiếc xe dừng lại lần nữa, Sarah nghe tiếng Arập và tiếng Đức giọng Thụy Sĩ, sau đó là tiếng các khớp nối bằng kim loại bị đông cứng. Họ tiếp tục lái xe một lúc lâu, rồi dừng lại lần thứ ba - theo cô đoán đây cũng là lần cuối bởi động cơ xe hơi ngay lập tức im bặt.
Thùng xe bật mở. Hai khuôn mặt xa lạ cúi xuống Sarah; bốn bàn tay túm lấy cô nhấc ra ngoài. Chúng dựng cô đứng thẳng rồi thả tay ra, nhưng đầu gối cô mềm nhũn khiến Sarah đổ sụp xuống tuyết. Điều này có vẻ khiến bọn chúng khoái chí, vì bọn chúng cứ đứng đó cười nhạo một lúc trước khi nhấc cô đứng thẳng dậy lần nữa.
Sarah nhìn quanh. Họ đang đứng giữa một bãi đất trống lớn, xung quanh sừng sững những cây thông và linh sam. Có một ngôi nhà ván hình chữ A, mái dốc đứng và một khu nhà phụ hoàn toàn riêng biệt. Hai chiếc jeep truyền động bốn bánh đang đỗ cạnh dãy nhà phụ. Trời đổ tuyết dày đặc. Sarah, vẫn bị bịt mặt, cảm thấy như trời đang rắc tàn tro xuống nơi này.
Muhammad xuất hiện, hắn gắt lên bằng tiếng Arập với hai tên đang giữ Sarah đứng thẳng. Chúng tiến một bước về phía ngôi nhà ván, nghĩ rằng cô sẽ đi theo. Nhưng chân Sarah cóng lại vì lạnh nên không cất bước nổi. Cô gắng thều thào với chúng rằng mình đang bị đông cứng tới mức sắp chết nhưng không thể thốt nên lời, nhưng cái lạnh cũng có ích: nó làm dịu đi sự đau đớn của những cú đấm ở mặt và bụng.
Chúng xốc nách và eo Sarah để lôi cô đi. Chân cô tạo thành hai vệt dài song song trên nền tuyết. Chẳng bao lâu chúng như bỏng rát vì quá lạnh. Cô cố nhớ lại mình đã đi gì buổi sáng hôm đó. Giày xăng đan đế bằng - đôi mà Nadia đã mua tặng cô tại Gustavia, nó rất hợp với bộ đồ cô mặc tới Le Tetou.
Chúng đi vòng ra phía sau ngôi nhà ván. Ở đây, những cái cây mọc gần hơn, cách ngôi nhà chưa đến 30 thước. Một tên lính gác vừa đứng canh vừa xuýt xoa vì rét, miệng ngậm điếu thuốc còn chân dậm dậm cho bớt lạnh. Rìa mái che phủ lớp tường bọc ngoài ngôi nhà, nơi chất đầy củi đốt. Chúng kéo cô qua ngưỡng cửa xuống những bậc thang bằng xi măng. Vẫn chưa thể tự mình bước đi, hai bàn chân tê cóng của Sarah đập vào từng bậc thang đau điếng. Cô bắt đầu rú lên vì đau, tiếng rú nghe thắt tim, nhưng những kẻ tra tấn cô vẫn không thèm đếm xỉa.
Chúng lôi Sarah tới một cánh cửa được khép kín và khóa bằng khóa móc. Một tên lính gác mở khóa, đẩy cửa ra rồi bật đèn lên. Muhammad bước vào phòng trước. Sau đó những tên lính gác mang Sarah vào.
Căn phòng nhỏ hình vuông, mỗi bề chưa đến 3 mét. Tường màu trắng sứ. Các bức ảnh những người Arập tại Abu Ghraib. Những người Arập đang bị nhốt tại vịnh Guantánamo. Một tên khủng bố Hồi giáo đang xách chiếc đầu vừa bị chặt của con tin người Mỹ. Ở giữa phòng có chiếc bàn bằng kim loại được gắn ốc vít vào sàn nhà. Ở giữa bàn có một cái móc sắt, trên đó treo một cặp còng tay. Sarah hét lên và đấm đá bọn chúng. Dĩ nhiên hành động đó là vô ích. Một tên đè tay cô xuống bàn, còn tên kia đeo còng vào tay cô. Một chiếc ghế được kéo đến phía sau Sarah. Hai bàn tay nhấn cô ngồi xuống ghế. Muhammad xé toang khăn bịt mặt rồi tát cô hai cái.
“Mày sẵn sàng nói chưa?”
“Rồi”.
“Không nói dối nữa chứ?”
Cô lắc đầu.
“Nói đi, Sarah. Không nói dối nữa”.
“Không-nói-dối-nữa”.
“Mày sẽ nói với tao tất cả những gì mày biết chứ?”
“Tất cả”.
“Mày lạnh không?”
“Đang chết cóng”.
“Mày muốn uống thứ gì nóng không?”
Cô gật đầu.
“Trà được không? Mày uống trà nhé, Sarah”.
Cô gật đầu lần nữa.
“Mày thường uống trà như thế nào, Sarah?”
“Ông nói thật à?”
“Mày uống trà như thế nào?”
“Với xyanua 1”.
Hắn ta cười không chút xót thương. “Mày nên thấy mình may mắn đấy. Chúng ta sẽ uống trà, sau đó sẽ nói chuyện”.
Cả ba tên đều rời khỏi phòng. Muhammad đóng cửa rồi cài móc khóa lại. Sarah gục đầu xuống bàn và nhắm mắt. Trong tâm trí cô một hình ảnh đang hình thành - hình ảnh của chiếc đồng hồ ĐANG kêu tích tắc đếm ngược đến lúc cô bị xử tử hình. Muhammad mang trà đến cho cô. Sarah mở lớp vỏ thủy tinh bọc ngoài chiếc đồng hồ tưởng tượng và chuyển kim đồng hồ ngược lại năm phút.
Chú thích
* * *
1. Một loại thuốc độc cực mạnh.
Chương 34
Bang Uri, Thụy Sĩ
Chúng mang trà kiểu Arập đựng trong một chiếc ly nhỏ. Tay Sarah vẫn đang bị còng. Để uống trà, cô phải cúi đầu xuống sát bàn húp sột soạt trong khi Muhammad nhìn cô đầy khinh bỉ. Hắn không hề động tới tách trà của mình. Tách trà đặt giữa quyển sổ ghi chép của hắn và khẩu súng lục đã nạp đạn.
“Các ông không thể khiến tôi bốc khói rồi cho rằng không ai chú ý đến điều này”, cô nói.
Hắn nhìn lên rồi chớp mắt nhanh vài lần. Sarah, giờ đây không còn bị vướng víu bởi abaya (khăn bịt mặt), quan sát kĩ hắn trong ánh đèn chói chang của phòng thẩm vấn. Hắn bị hói đến đỉnh đầu, số tóc và râu ít ỏi còn lại được cắt ngắn bằng nhau. Đôi mắt đen ẩn kín một phần sau kính, phản chiếu ánh đèn lấp lánh mỗi khi hắn ngước nhìn lên từ quyển sổ ghi chép. Nét mặt hắn cởi mở, và chân thật một cách lạ lùng, không giống một người thẩm vấn. Khuôn mặt hắn, khi không quát tháo đe dọa đánh cô, nhìn có vẻ khá dễ chịu. Đôi lúc Sarah có cảm giác hắn giống như một nhà báo trẻ hăng hái muốn đặt câu hỏi cho một chính trị gia đang đứng trên bục.
“Mọi người ở Luân Đôn đều biết tôi đến biển Caribê cùng Zizi”, cô nói. “Tôi ở gần hai tuần trên chiếc Alexandra. Mọi người thấy tôi cùng ăn tối với ông ta tại các nhà hàng ở đảo Saint Bart’s. Tôi ra bãi biển cùng Nadia. Có ghi chép về chuyến bay tôi rời Saint Maarten và chuyến bay tôi đến Zurich. Các người không thể khiến tôi biến mất ở Thụy Sĩ. Các người sẽ không bao giờ thoát tội được”.
“Nhưng mọi chuyện không xảy ra như vậy”, Muhhammad nói. “Mày thấy đấy, một lúc sau khi chuyến bay của mày hạ cánh, mày đăng ký tại khách sạn Dolder Grand. Người tiếp viên kiểm tra hộ chiếu của mày, theo như thông lệ ở Thụy Sĩ, rồi chuyển thông tin đến cảnh sát Thụy Sĩ, cũng theo thông lệ. Sau vài tiếng nghỉ ngơi, mày thức dậy, rồi sau khi uống cà phê sáng, mày đến phòng tập thể dục của khách sạn để luyện tập vào buổi sáng. Sau đó mày sẽ tắm rồi thay đồ để đi gặp khách hàng theo như cuộc hẹn. Một chiếc xe hơi sẽ đón mày vào lúc 9 giờ 45 phút rồi đưa mày đến khu nhà ở của Herr Klarsfeld ở Zurichberg. Ở đó, một vài người giúp việc trong nhà của Herr Klarfeld sẽ thấy mày. Sau khi xem xét bức Manet, mày sẽ gọi cho ông al-Bakari thông báo rằng mày không thể đạt được thỏa thuận về giá bán. Mày sẽ trở lại khách sạn Dolder Grand, làm thủ tục rời khách sạn, sau đó ra phi trường Kloten đáp máy bay trở lại Luân Đôn. Mày sẽ nghỉ ngơi hai ngày trong căn hộ ở Chelsea. Trong khoảng thời gian này, mày thực hiện vài cuộc gọi và tiêu tiền trên thẻ tín dụng. Sau đó, thật không may, mày sẽ biến mất không lời giải thích”.
“Cô ta là ai?”
“Tao chỉ có thể nói cô ta khá giống mày, đủ giống để có thể đi lại bằng hộ chiếu của mày và ra vào căn hộ của mày mà không khiến hàng xóm nghi ngờ. Chúng tao có người giúp đỡ ở châu u, Sarah, những người trợ giúp da trắng”.
“Cảnh sát sẽ lần theo Zizi”.
“Không ai lần theo Zizi al-Bakari. Dĩ nhiên cảnh sát sẽ có những câu hỏi, và sẽ được các luật sư của ngài al-Bakari trả lời vào khoảng thời gian thích hợp. Vấn đề này sẽ được xử lý êm thấm và chu đáo. Đây chính là ưu thế của người Arập Xêút. Bọn tao thực sự đứng trên luật pháp. Nhưng bây giờ hãy quay trở lại vấn đề trước mắt”.
Hắn nhìn xuống gõ gõ đầu bút một cách thiếu kiên nhẫn vào quyển sổ ghi chép trống trơn.
“Mày sẽ trả lời những câu hỏi của tao chứ, Sarah?”
Cô gật đầu.
“Hãy nói vâng, Sarah. Tao muốn mày quen với việc thẩm vấn”.
“Vâng”, cô trả lời.
“Vâng cái gì?”
“Vâng, tôi sẽ trả lời những câu hỏi của ông”.
“Tên của mày có phải là Sarah Bancroft không?”
“Vâng”.
“Rất tốt. Ngày và nơi sinh của mày có đúng như trên hộ chiếu không?”
“Đúng”.
“Cha mày có thật sự là Ủy viên Hội đồng Quản trị của Citibank không?”.
“Đúng”.
“Có phải mày học trường Đại học Dartmouth, sau đó học sau đại học tại Viện Courtauld ở Luân Đôn không?”
“Phải”.
“Có phải mày là người viết bài luận văn được đánh giá cao về Chủ nghĩa Biểu hiện Đức khi học tiến sỹ tại Harvard không?”
“Đúng vậy”.
“Có phải mày đang làm cho Cục Tình báo Trung ương trong khoảng thời gian này không?”
“Không”.
“Mày gia nhập CIA khi nào?”
“Tôi chưa bao giờ gia nhập CIA”.
“Mày đang nói dối, Sarah”.
“Tôi không nói dối”.
“Mày gia nhập CIA khi nào?”
“Tôi không phải là CIA”.
“Thế mày làm cho ai?”
Cô im lặng.
“Trả lời câu hỏi đi, Sarah. Mày đang làm cho ai?”
“Ông biết tôi đang làm cho ai”.
“Tao muốn nghe chính mày nói ra điều này”.
“Tôi đang làm việc cho Cục Tình báo của Israel”.
Hắn gỡ kính ra, nhìn cô một lúc.
“Mày đang nói sự thật chứ, Sarah?”
“Vâng”.
“Tao có thể nhận ra nếu mày nói dối”.
“Tôi biết”.
“Mày muốn uống thêm trà không?”
Cô gật đầu.
“Trả lời tao đi, Sarah. Mày có muốn uống thêm trà không?”
“Có, tôi muốn uống thêm trà”.
Muhammad dựa người ra thành ghế và đập tay vào cửa phòng. Cánh cửa mở ra ngay lập tức, Sarah nhìn thấy hai tên đang đứng gác bên ngoài. “Thêm trà”, Muhammad nói với chúng bằng tiếng Anh, sau đó giở sang trang mới trong quyển sổ ghi chép rồi ngước lên nhìn Sarah với khuôn mặt hăm hở và cởi mở. Sarah đưa tay lên chiếc đồng hồ tưởng tượng và cộng thêm mười phút để sống nữa.
Mặc dù Sarah không biết việc này, nhưng nơi thẩm vấn cô là khu Uri có nhiều người theo đạo Thiên Chúa La Mã, ở vùng quên mà người Thụy Sĩ thường hay trìu mến gọi là Khu Trung tâm Thụy Sĩ. Ngôi nhà nằm ở hẻm núi hẹp bị cắt bởi một nhánh của sông Reuss. Chỉ có một con đường vào hẻm núi và một ngôi làng đơn độc nằm xiêu vẹo bên trên. Uzi Navot xem xét nhanh ngôi nhà, sau đó quay lại lái xe xuống hẻm núi. Theo kinh nghiệm của anh, người Thụy Sĩ là một trong những dân tộc thận trọng nhất trên thế giới.
Những kẻ người Arập Xêút đã cố cắt đuôi anh ở Zurich, nhưng Navot đã được chuẩn bị. Anh luôn tin rằng khi theo đuôi một người chuyên nghiệp đang nghĩ mình sẽ bị theo dõi, tốt nhất nên để hắn ta nghĩ rằng thật sự hắn ta đang bị theo dõi - và quan trọng hơn, rằng những biện pháp phòng ngừa của hắn có tác dụng. Navot đã hi sinh ba người theo dõi của mình ở bắc Zurich để khiến hắn tin như vậy. Chính Navot là người đã dõi theo chiếc Mercedes với biển số ngoại giao quẹo vào khu phố Công Nghiệp, và hai mươi phút sau chính Navot đã theo đuôi bọn chúng rời khỏi Zurich.
Nhóm của anh tập hợp lại ở dọc biển Zurichsee và cùng anh theo dõi chiếc xe đi hướng nam với Uri. Thời tiết xấu đã giúp họ có thêm lớp bảo vệ, cũng như bây giờ thời tiết đang giúp Navot khi anh ra khỏi xe nhìn lặng lẽ qua hàng cây dày đặc xuống ngôi nhà ván, với khẩu súng trong bàn tay đang giơ lên. Ba mươi phút sau, sau khi quan sát xong khu đất và các biện pháp an ninh, anh ngồi vào sau tay lái, chạy xe xuống hẻm núi về phía thung lũng sông Reuss. Tới nơi, anh đỗ xe tại bãi đất dọc bờ sông chờ Gabriel từ Zurich sang.
“Ai là sỹ quan chỉ huy mày?”
“Tôi không biết tên anh ta”.
“Tao sẽ hỏi mày thêm lần nữa. Tên sỹ quan chỉ huy của mày là gì?”
“Tôi đã nói với ông, tôi không biết anh ta. Ít nhất là tên thật của anh ta”.
“Mày biết hắn dưới cái tên nào?”
Đừng tiết lộ Gabriel, cô nghĩ. Cô thốt ra cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu.
“Anh ta tự xưng là Ben”.
“Ben à?”
“Vâng, Ben”.
“Mày chắc chứ? Ben?”
“Đó không phải là tên thật của anh ta. Đó chỉ là tên anh ta tự gọi mình”.
“Sao mày biết đó không phải là tên thật của hắn?”
Cô thầm cảm ơn sự chính xác trong câu hỏi của Muhammad, vì việc này sẽ giúp cô cộng thêm vài phút vào chiếc đồng hồ tưởng tượng.
“Vì anh ta bảo với tôi đó không phải là tên thật của anh ta”.
“Mày tin hắn à?”
“Tôi nghĩ mình chẳng có lí do gì không tin anh ta”.
“Mày gặp người đàn ông này khi nào?”
“Lúc đó là tháng 12”.
“Ở đâu?”
“Ở Washington”.
“Thời gian nào trong ngày?”
“Vào buổi tối”.
“Anh ta đến nhà mày. Nơi mày làm việc?”.
“Lúc đó là sau giờ làm. Tôi đang trên đường về nhà”.
“Kể tao nghe mọi việc diễn ra như thế nào, Sarah. Kể tao nghe mọi thứ”.
Và cô làm đúng theo lời hắn, kể từng mẩu một, từng chút một.
“Căn nhà chúng đưa mày tới là ở đâu?”
“Ở Georgetown”.
“Đường nào ở Georgetown?”
“Trời tối lắm. Tôi không nhớ”.
“Đường nào ở Georgetown, Sarah?”
“Đường N, tôi nghĩ thế”.
“Mày nghĩ, hay mày biết?”
“Đó là đường N”.
“Địa chỉ?”
“Không có địa chỉ”.
“Dãy nhà nào?”
“Tôi không nhớ nổi”.
“Nó nằm ở Đông hay Tây đại lộ Winconsin, Sarah?”
“Ông biết Georgetown à?”
“Đông hay Tây?”
“Tây. Chắc chắn là phía Tây”.
“Dãy nhà nào, Sarah?”
“Tôi nghĩ là giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”.
“Mày nghĩ?”
“Giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”.
“Phía đường nào?”
“Ý ông là gì?”
“Phía đường nào, Sarah? Bắc hay Nam?”
“Nam. Chắc chắn là phía Nam”.
Vào lúc 2 giờ 45 phút sáng, Navot nhìn thấy chiếc Audi đang chạy với tốc độ nhanh tới mức nguy hiểm, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt thế này. Khi chiếc xe lao ngang qua làm bắn tuyết và bùn sang hai bên, anh thoáng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của bốn người đang ngồi trong xe. Anh lấy điện thoại bấm số. “Anh vừa phóng ngang qua mặt tôi”, anh nói bình tĩnh, sau đó nhìn vào gương thấy chiếc Audi cua gấp lại gần như muốn lật. Từ từ thôi, Gabriel, anh nghĩ. Từ từ thôi.
“Người đầu tiên phỏng vấn mày là ai? Người của CIA hay tên Do Thái?”
“Người Mỹ”.
“Họ hỏi mày những điều gì?”
“Chúng tôi nói chung chung về cuộc chiến chống khủng bố”.
“Ví dụ?”
“Ông ta hỏi tôi theo tôi nghĩ cần phải xử lí như thế nào đối với những tên khủng bố. Bọn chúng nên được đưa tới Mỹ để xét xử hay giết tại hiện trường bởi những người mặc đồ đen?”
“Những người mặc đồ đen?”
“Đó là cách ông ta gọi họ”.
“Có nghĩa là Lực lượng Đặc nhiệm? Những tên thuộc đội chuyên ám sát của CIA? Hay SEAL của Hải quân?”
“Tôi nghĩ vậy”.
“Thế mày trả lời hắn như thế nào?”
“Ông thực sự muốn biết à?”
“Nếu không thì tao đã không hỏi”.
Thế là cô kể cho hắn nghe, từng chút một.
Họ đứng thành vòng tròn dọc bờ sông trong khi Navot nhanh chóng thuật lại cho Gabriel tất cả những thông tin anh nắm được.
“Có lính canh nào nữa ở sân không, hay chỉ hai tên ở cổng trước?”
“Tôi không biết”.
“Có bao nhiêu tên bên trong ngôi nhà?”
“Tôi không biết”.
“Cậu có thấy bọn chúng đưa cô ấy vào đâu không?”
“Không”.
“Có xe cộ nào khác chạy trên đường không?”
“Đường này rất ít xe cộ”.
“Thông tin như vậy không đủ, Uzi”.
“Tôi đã làm hết khả năng của mình rồi”.
“Tôi biết”.
“Tôi nghĩ anh có hai phương án, Gabriel ạ. Phương án một: thực hiện một phi vụ khác. Việc này sẽ mất thời gian. Không phải là không có rủi ro. Nếu thấy chúng ta tới, đầu tiên bọn chúng sẽ giết chết Sarah”.
“Phương án hai?”
“Xông thẳng vào. Tôi chọn phương án hai. Chỉ Chúa mới biết Sarah đang phải chịu đựng những gì ở trong đó”.
Gabriel nhìn xuống tuyết suy nghĩ một lúc. “Chúng ta sẽ đột nhập vào ngay bây giờ”, anh quyết định. “Cậu, Mikhail, Yaakov, và tôi”.
“Giải cứu con tin không phải nghề của tôi, Gabriel. Tôi chỉ là người đưa tin”.
“Đây cũng không phải là nghề của Eli, nhưng tôi cần ít nhất bốn người. Moshe và Eli sẽ ngồi đợi trong xe hơi. Khi tôi ra dấu, họ sẽ đến đón chúng ta”.
“Khi nào thì gã người Do Thái đến?”
“Tôi không thể nhớ thời gian đích xác”.
“Khoảng nào?”
“Tôi không nhớ được. Vào khoảng nửa tiếng sau khi tôi đến, như vậy tôi đoán khoảng bảy giờ”.
“Thế hắn xưng mình là Ben à?”
“Không phải ngay lúc đó”.
“Ban đầu hắn dùng tên khác à?”
“Không. Ban đầu anh ta không xưng tên”.
“Tả hắn cho tao nghe thử”.
“Anh ta người khá nhỏ nhắn”.
“Hắn ta mập hay gầy?”
“Gầy”.
“Rất gầy?”
“Anh ta không quá gầy”.
“Có tóc chứ?”
“Vâng”.
“Màu tóc?”
“Màu đen”.
“Ngắn hay dài?”
“Ngắn”.
“Tóc hắn có khúc nào bị muối tiêu không?”
“Không”.
Muhammad bình tĩnh đặt cây bút lên quyển sổ. “Mày đang nói dối tao, Sarah. Nếu mày nói dối tao lần nữa, cuộc chuyện trò của chúng ta sẽ chấm dứt. Bọn tao sẽ dùng cách khác để moi thông tin của mày. Hiểu chưa?”
Cô gật đầu.
“Trả lời tao đi, Sarah”.
“Vâng, tôi hiểu”.
“Tốt”.
“Bây giờ hãy tả chính xác cho tao nghe cái gã Do Thái tự gọi mình là Ben”.