Chương 30
Saint Maarten
Một giờ sau đó chiếc Zodiac tiến vào vùng vịnh Great. Bốn người đàn ông trên tàu mặc quần dài và áo khoác thể thao, mỗi người mang một cái túi ngủ vì lợi ích của chính quyền địa phương. Đưa tàu vào bến xong, họ trèo lên một chiếc tắc xi đã chờ sẵn và phóng tới phi trường với tốc độ đáng kể. Ở đó, sau khi trình hộ chiếu, căn cước giả và trót lọt qua bước kiểm tra, họ lên chiếc phản lực cá nhân Gulfstream V. Phi hành đoàn đã đăng ký kế hoạch bay và đã yêu cầu một vị trí cất cánh. Một giờ sau, lúc 11 giờ 37 phút sáng giờ địa phương, chuyến bay khỏi hành. Điểm đến là sân bay Kloten ở Zurich, Thụy Sĩ.
Khi chiếc Gulfstream bay là là trên mặt vịnh Simpson, Adrian Carer gọi ba cuộc điện thoại: một đến Chánh văn phòng CIA, hai đến Lực lượng vũ trang của cơ quan tình báo chuyên về các chuyến đi bí mật, và cuộc gọi thứ ba đến một bác sĩ của cơ quan tình báo, người chuyên chăm sóc các đặc vụ bị thương trong điều kiện thiếu thốn trang thiết bị y tế và thuốc men. Sau đó ông ta mở két sắt âm tường của mình và lấy ra ba cái ví. Trong mỗi cái ví là một hộ chiếu giả cùng với thẻ căn cước, thẻ tín dụng, một ít tiền mặt và những bức ảnh gia đình chưa từng tồn tại. Mười phút sau, ông ta băng qua bãi giữ xe phía Tây để đến chỗ chiếc Volvo. Người đàn ông của Tổng hành dinh này lại ‘ra trận’ thêm một lần nữa. Trận địa lần này là Zug.
Ở khu buôn bán Munich, Uzi Navot đang ăn bữa trưa muộn với một tay đưa tin của cơ quan Tình báo Đức thì nhận được cuộc gọi khẩn cấp từ Tel Aviv. Không phải Văn phòng điều hành mà đích thân Amos Ahrrett gọi cuộc hội thoại của họ ngắn gọn và chỉ có một bên nói. Navot im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng anh nghiến răng để cho Amos thấy rằng y hiểu cần phải làm gì, sau đó anh cúp máy.
Navot không muốn cho gã điệp viên Đức biết rằng Văn phòng đang rơi vào một cuộc khủng hoảng, vì thế anh vẫn ở lại nhà hàng thêm 30 phút nữa, anh tẩn mẩn cắt móng tay dưới gầm bàn trong khi gã người Đức ăn bánh tẩm đường và uống cà phê. Vào lúc 3 giờ 15 phút thì anh đã ở sau tay lái của chiếc Mercedes dòng E, và lúc 3 giờ 30 phút, thì anh đã chạy về phía tây theo con đường E54.
Hãy nghĩ đây là một cuộc thử giọng, Amos đã nói thế. Làm sạch sẽ vụ này đi và phòng điều hành đặc biệt sẽ là của anh. Và Uzi Navot chạy đến Zurich trong buổi chiều nhạt nắng, thăng tiến trong sự nghiệp là tất cả những gì trong đầu anh lúc này. Anh muốn có Sarah - và anh muốn cô ta còn nguyên vẹn.
Nhưng Sarah đang bị một màn sương thuốc mê bao phủ nên chẳng biết gì về những sự kiện vẫn đang xoáy cuộn quanh mình. Thật sự thì cô chẳng có ý niệm gì về trạng thái cơ thể của mình nữa. Cô không biết mình bị trói vào ghế đối diện với khoang đuôi máy bay Falcon 2000, với người lái của dịch vụ hàng không quản trị Caracas thuộc Tập đoàn AAB tại Riyadh, Geneva. Cô không biết rằng tay mình bị còng lại với nhau và mắt cá chân đã bị cùm. Không biết rằng vệt đỏ thẫm trên gò má phải của cô chính là lời hỏi thăm sức khỏe của bin Talal. Không biết người ngồi đối diện, cách cô một bàn nước nhỏ, là Jean-Michel, hiện đọc lướt một quyển truyện khiêu dâm của Hà Lan và nhấm nháp rượu whiskey Scotland làm từ mạch nha mà hắn mua ở gian hàng miễn thuế ở sân bay Maarten.
Sarah chỉ nhận thức được những giấc mơ của mình. Cô nắm bắt hết sức mơ hồ về những hình ảnh đang phơi bày trước mắt, cô nghĩ rằng chúng hoàn toàn phi thực, nhưng cô lại chẳng còn chút sức lực nào mà kiểm soát chúng. Cô nghe tiếng chuông điện thoại, và khi nhấc máy cô nghe tiếng Ben ở đầu dây bên kia, nhưng thay vì đi về phía tháp Nam của tòa nhà Thương mại Thế giới thì anh lại hạ cánh an toàn ở Los Angeles và đang bận túi bụi với các cuộc họp hành. Cô bước vào tòa thị chính trang nghiêm ở Geogetown, người ân cần ra đón cô không phải là Adrian Carter mà là Zizi al-Bakari. Kế đó cô thấy mình ở trong một căn nhà miền quê nước Anh, những người có mặt ở đây không phải là Gabriel và đồng đội của anh mà là một nhóm khủng bố Arập Xêút đang ngồi bàn bạc những âm mưu tiếp theo. Một chiếc du thuyền tuyệt đẹp đang lướt trên biển máu. Một phòng trưng bày tranh ở Luân Đôn treo chi chít chân dung những người đã chết. Và cuối cùng là một người phục chế tranh nghệ thuật mắt màu xanh ngọc, tóc mái điểm bạc đang đứng trước bức vẽ chân dung cô gái bị khóa tay vào bàn trang điểm. Người phục chế tranh ấy là Gabriel, còn người phụ nữ trong bức tranh chính là Sarah. Những hình ảnh ấy đột ngột bốc cháy, khi ngọn lửa tàn, Sarah nhìn khuôn mặt của Jean-Michel.
“Chúng ta đang đi đâu vậy?”
“Trước tiên chúng ta phải làm rõ xem mày làm việc cho ai, sau đó chúng ta mới giết mày”.
Sarah nhắm mắt khi mũi kim tiêm dưới da ấy một lần nữa cắm phập vào bắp chân cô. Kim loại nóng chảy. Vùng nước đen…
Chương 31
Kloten, Switzerland
Khách sạn Flyaway ở số 19 đường Marktgasse là một căn nhà không sang trọng. Kiến trúc thô sơ và tẻ nhạt, tiền sảnh đơn giản nhưng rất sạch sẽ. Điều hấp dẫn duy nhất là khách sạn này chỉ cách sân bay có năm phút. Vào một đêm tháng hai đầy tuyết như đêm nay, khách sạn là điểm tụ tập bí mật mà chính quyền và cảnh sát địa phương không hay biết gì. Hai người đàn ông đến từ Bỉ, người thứ ba từ Roma và người còn lại từ Luân Đôn. Tất cả bọn họ là chuyên gia giám định vật lí học. Cả nhóm đăng kí phòng bằng tên giả và hộ chiếu giả. Người đàn ông thứ năm đến từ Paris, đăng kí bằng tên thật Moshe. Anh ta chẳng phải chuyên gia giám định mà chỉ là bodel, tức người đưa tin cấp thấp. Anh ta lái chiếc Audi A8, hiện thời chiếc xe đang đỗ ngoài đường. Trong cốp xe là một vali đầy súng, bộ đàm, kính mắt hồng ngoại và mũ bảo hiểm khít đầu và cổ, chỉ hở mặt.
Người đến cuối cùng là người mà các cô tiếp tân biết rõ nhất, vì anh ta là du khách thường xuyên qua lại sân bay Kloten và nghỉ tại Flyaway nhiều lần đến nỗi có lẽ chính anh ta cũng chẳng nhớ rõ. “Chào buổi tối, ông Bridge”. Một cô gái lên tiếng khi vị khách quen xuất hiện trong sảnh khách sạn. Năm phút sau anh ta đã ở trong phòng của mình trên lầu. Hai phút tiếp theo, những người khác đã tập trung ở phòng anh. “Một chiếc máy bay sắp hạ cánh ở Kloten”, anh thông báo cho bọn họ, “Có một cô gái trên máy bay và chúng ta phải cố gắng làm sao để tối nay cô ấy thoát chết”.
Sarah tỉnh dậy lần thứ hai. Cô mở mắt chỉ đủ lâu để nhận diện khung cảnh xung quanh mình, rồi nhắm mắt lại ngay trước khi Jean-Michel có thể tiêm vào chân cô một mũi thuốc mê nữa. Họ đang đáp xuống mặt đất và chiếc trực thăng lắc lư cùng với lớp không khí đang chuyển động. Cô hơi ngả đầu qua một bên, phần thái dương đập thình thịch của cô va mạnh vào tường theo sự lắc lư của chiếc trực thăng. Ngón tay cô tê liệt vì bị còng quá lâu, và lòng bàn chân cô như thể bị hàng ngàn mũi kim chích. Jean-Michel vẫn ngồi đối diện cô, mắt hắn nhắm nghiền và đôi bàn tay đan vào nhau đặt phía dưới bụng.
Sarah mở mắt lần thứ hai. Mắt cô nhoà và mờ như thể bị bao bọc trong một màn sương đen. Cô đưa tay chạm mặt và sờ thấy lớp vải. Mũ trùm đầu, cô nghĩ. Rồi cô nhìn xuống thân thể và thấy một tấm mạng đen quấn quanh mình. Jean-Michel đã mặc cho cô loại áo trùm toàn thân của phụ nữ đạo Hồi. Cô khe khẽ khóc. Jean-Michel nhướng một mắt tàn nhẫn nhìn cô.
“Chuyện gì vậy Sarah?”
“Anh đưa tôi đến Arập Xêút phải không?”
“Chúng ta đến Thụy Sĩ như Zizi đã bảo”.
“Nhưng tại sao lại mặc thứ áo choàng của phụ nữ Hồi giáo cho tôi?”
“Điều đó giúp mày nhập cảnh được dễ dàng. Khi hải quan Thụy Sĩ thấy phụ nữ Arập Xêút che mạng, chúng có xu hướng kính trọng mày nhiều hơn”. Hắn nở nụ cười kệch cỡm. “Tao nghĩ thật là nhục nhã khi bao phủ người mày bằng vải đen thế này, nhưng tao thật sự khoái cái việc mặc loại quần áo này cho mày đấy”.
“Mày đúng là một con lợn, Jean-Michel ạ”.
Sarah chưa bao giờ thấy mắt nổ đom đóm như khi một cái bạt tai trời giáng nện thẳng vào gò má phải vẫn còn sưng tấy của cô. Khi thị giác cô trở lại như cũ thì Jean-Michel đã ngồi dựa vào ghế của hắn. Chiếc trực thăng nảy lên bất thình lình, Sarah thấy cảm giác khó chịu trào lên đến tận cổ.
“Tôi nghĩ tôi sắp bệnh rồi”.
“Giống như ở Le Tetou à?”
Nghĩ nhanh lên Sarah.
“Tao bị bệnh ở Le Tetou thật đấy, đồ ngu”.
“Rồi mày khỏe lại khá nhanh chóng. Thật ra mày có vẻ rất khỏe khoắn khi trở lại tàu Alexandra với tụi tao”.
“Những loại thuốc anh tiêm vào người tôi làm tôi buồn nôn quá. Dẫn tôi đi vào toa-lét đi”.
“Mày muốn kiểm tra có ai nhắn tin cho mày không hả?”
Nhanh lên Sarah, nhanh lên.
“Anh nói gì vậy? Dẫn tôi đi toa-lét nhanh để tôi nôn ra chứ”.
“Mày không được đi đâu cả”.
“Ít nhất cũng nhấc cái áo choàng này giùm tôi”.
Hắn nhìn cô đầy nghi ngờ rồi nghiêng người qua bàn nước và vén bức mạng che mặt lên, Sarah cảm nhận được không khí mát lạnh trong cabin. Đối với Sarah, việc này giống như việc chú rể vén mạng che mặt người vợ tương lai của hắn. Cơn giận chợt bùng lên và cô bất ngờ quất vào mặt Jean-Michel bằng bàn tay bị còng của mình. Hắn dễ dàng né được và quất mạnh lại vào phía bên trái đầu cô. Cô té xuống sàn nhà. Jean Michel đá liên hồi vào bụng Sarah làm cô muốn ngạt thở. Khi cố gắng thở lại được thì cô nôn ra thảm tất cả mọi thứ trong bụng.
“Chó má”, tên người Pháp này cáu kỉnh. “Đáng ra tao phải bắt mày dọn sạch đống đó mới đúng”.
Hắn nắm sợi dây xích cổ tay Sarah và kéo cô về ghế, đoạn đi thẳng vào toa-lét. Sarah nghe tiếng nước chảy trong bồn. Khi Jean-Michel quay trở lại, hắn cầm theo một cái khăn ướt nhẹp để lau và gói gọn đống ói mửa của Sarah. Rồi hắn rút một ống xilanh nữa và một ống thuốc từ chiếc cặp da nhỏ. Hắn bơm thuốc vào xilanh mà chẳng thèm quan tâm đến liều lượng, rồi hắn nắm lấy tay cô. Sarah cố gắng tránh ra nhưng hắn táng vào mồm cô hai cái. Khi thuốc ngấm vào mạch máu, Sarah vẫn tỉnh nhưng cảm thấy người nặng nề như bị vật gì đó đè lên. Mi mắt nhắm nghiền, tuy nhiên cô vẫn ý thức được chuyện gì đang diễn ra.
“Tôi còn tỉnh đấy”. Cô cố nói. “Thuốc của anh chẳng có tác dụng với tôi nữa”.
“Thuốc có tác dụng đấy chứ”.
“Tại sao tôi vẫn còn tỉnh?”
“Để dễ khai thác câu trả lời hơn”.
“Trả lời gì?”
“Tốt hơn hết là mày thắt dây an toàn vào đi”. Hắn sừng sộ bảo cô. “Ta sắp hạ cánh trong vài phút nữa đấy”.
Sarah cố gắng làm theo lời hắn bảo, nhưng bàn tay cứ nằm im trên đùi chứ không tuân theo ý muốn của cô.
Sarah áp mặt vào tấm kính của sổ mát lạnh và nhìn ra ngoài trời. Trời tối đen như mực. Vài phút sau họ đi vào vùng mây, chiếc trực thăng xốc lên xốc xuống. Jean-Michel rót cho mình một ly whiskey và uống cạn chỉ bằng một hớp.
Ra khỏi vùng mây thì gặp ngay bão tuyết. Sarah nhìn xuống và săm soi những ngọn đèn đường. Có một khối gì đó phản quang sáng rực bao bọc phía Bắc của vùng nước này và những sợi dây ít sáng hơn nằm dọc theo bờ biển giống hệt như nữ trang. Cô cố nhớ xem tên trùm Zizi đã nói cô phải đi đâu. Zurich, cô nghĩ. Đúng rồi, đúng là Zurich… Herr Klarsfeld… Bức tranh mà Zizi không trả quá 30 triệu…
Máy bay bay ngang qua vùng trung tâm Zurich và nghiêng về phía phi trường. Sarah cầu cho máy bay bị rớt, nhưng nó vẫn cứ đáp xuống đất một cách suôn sẻ. Máy bay trượt trên đường băng vài phút. Jean-Michel nhìn ra ngoài cửa sổ trong khi Sarah chìm vào vô thức. Cái thân máy bay có vẻ như dài bằng dãy Alpine, và khi cô gắng sức nói, từ ngữ trong miệng cô không thể hình thành được.
“Loại thuốc tao chích cho mày khi nãy có tác dụng ngắn thôi”, Jean-Michel bảo. “Rồi mày sẽ nói lại được, hi vọng là thế, ít nhất là vì lợi ích của chính bản thân mày”.
Máy bay bắt đầu giảm tốc. Jean-Michel hạ tấm mạng trên mặt cô xuống, tháo còng và đống dây xích. Khi máy bay dừng hẳn, hắn mở cửa cabin và đưa đầu ra kiểm tra xem mọi chuyện có ổn không. Hắn xốc nách Sarah, kéo cô đứng dậy. Máu dồn xuống chân làm cô đau nhói và đầu gối cô khụy xuống. Jean-Michel đỡ lấy Sarah trước khi cô ngã. “Bước từng bước thôi”. Hắn bảo. “Bước đi Sarah, mày nhớ phải bước như thế nào mà”.
Cô nhớ, nhưng hầu như không làm được điều đó nữa. Cánh cửa chỉ cách đó khoảng 3 mét mà Sarah có cảm tưởng dài như một dặm vậy. Được vài bước cô vấp phải gấu áo choàng và ngã về phía trước, nhưng Jean-Michel lại một lần nữa đỡ cô dậy. Cuối cùng cũng đến được cửa, Sarah cảm thấy luồng không khí lạnh cóng cứa vào da thịt. Trời đang đổ tuyết và cực lạnh. Không thấy nhân viên hải quan hay nhân viên an ninh nào, chỉ có một chiếc Mercedes mui kín màu đen biển số ngoại giao. Tập đoàn AAB và lãnh sự quán Arập Xêút ở Zurich đã thông báo sẽ có một hành khách từ Saint Maarten đến, và phải chuẩn bị chế độ phục vụ ngoại giao đặc biệt cho hành khách đó. Giống hệt như khi khởi hành: không hải quan, không nhân viên an ninh, không đường trốn thoát.
Đỡ Sarah xuống bậc thang, đi qua con đường trải nhựa và chui vào sau chiếc xe Mercedes đang chờ sẵn. Hắn đóng cửa lại và quay đầu về trực thăng ngay lập tức. Khi xe chuyển bánh, Sarah nhìn gã đàn ông ngồi bên cạnh. Diện mạo hắn hiện lên lờ mờ dưới tấm mạng che mặt màu đen. Bàn tay to bè. Mặt tròn. Cái miệng nhỏ lọt thỏm trong đám râu dê xồm xoàm. Một phiên bản khác của bin Talal, cô nghĩ. Một con vượn người ăn mặc sang trọng.
“Ông là ai?”
“Không quan trọng. Tao chẳng là ai cả”.
“Chúng ta đi đâu thế này?”
Gã dứ nắm đấm vào tai cô và bảo cô đừng mở miệng nói chuyện nữa.
Ba mươi giây sau, chiếc Mercedes biển số ngoại giao tăng tốc vượt qua một bóng người phủ đầy tuyết đang lúi húi dưới gầm chiếc xe mui trần chết máy. Người đàn ông có vẻ như không quan tâm khi chiếc Mercedes chạy ngang qua, dù anh ta có liếc nhanh về phía nó. Anh đếm đến năm rồi ném mình qua mui xe vào phía sau tay lái. Khi anh bật chìa khóa, chiếc xe khởi động liền. Anh vào số và lái nó.
Sarah không biết họ đã đi được bao lâu - một giờ hoặc lâu hơn - nhưng cô biết mục đích của chuyến đi này. Những chỗ dừng, những chỗ bắt đầu, những chỗ chạy lùi bất thình lình và những khúc cua làm cô muốn nôn ói: Eli Lavon gọi những ‘cuộc vận động’ như thế là ‘phản giám sát’. Uzi Navot thì gọi đó là ‘tự chùi mông của mình’.
Sarah nhìn ra ngoài cửa kính xe. Cô đã từng ở Thụy Sĩ vài năm khi còn nhỏ và biết thành phố này khá rõ. Đây không phải là những con đường Zurich mà cô còn nhớ được. Đây là những con đường tối tăm và đầy đá dăm ở khu phố phía bắc và khu công nghiệp Quartier. Những kho hàng xấu xí, nhà máy bằng gạch đen đúa, vườn tược ám khói. Không có khách bộ hành trên vỉa hè và không có cả xe cộ lưu thông. Có vẻ như cô đang ở một mình trong cái thế giới mà chỉ có kẻ mang tên “Không Quan Trọng” làm người đồng hành. Cô hỏi gã một lần nữa rằng họ đang đi đâu. Gã trả lời bằng một cú thúc cùi chỏ vào bụng Sarah làm cô hét lên đau đớn.
Gã nhìn qua vai mình thật lâu rồi đẩy Sarah rạp xuống sàn xe và lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Arập với gã tài xế. Sarah như tan vào bóng đêm. Cô đẩy lùi nỗi đau đớn vào một góc trong tâm trí và cố gắng tập trung theo dõi sự di chuyển của chiếc xe. Rẽ phải. Rẽ trái. Hai đường ray xe lửa. Một cú dừng đột ngột làm lốp xe ma sát với mặt đường kêu ken két. Người “Không Quan Trọng” kéo cô về băng ghế rồi mở cửa xe. Sarah nắm lấy chỗ để tay và không chịu buông , “Không Quan Trọng” bắt đầu một cuộc chiến để giằng cô ra, cuối cùng mất hết kiên nhẫn, gã đập cô một cú sắc như dao, cơn đau lan khắp mọi ngõ ngách trong cơ thể cô.
Sarah rú lên đau đớn và đành phải buông tay. Tên “Không Quan Trọng” kéo lê cô ra khỏi xe và quăng cô xuống nền xi măng lạnh ngắt. Có vẻ như họ đang ở trong một bãi đậu xe hoặc là một bến tàu dỡ hàng của một nhà kho nào đó. Cô nằm im, co rút trong cơn đau đớn cực độ về thể xác lẫn tinh thần, ngước nhìn tên khốn khiếp qua tấm mạng che mặt màu đen. Cái nhìn của một phụ nữ Arập Xêút về thế giới. Một giọng nói ra lệnh cho cô đứng dậy. Cô cố nhấc người lên nhưng không thể.
Tên tài xế bước xe khỏi xe và cùng với tên “Không Quan Trọng” nhấc cô đứng dậy. Cô ngồi bất động, hai cánh tay dang rộng, người cô cuộn chặt trong chiếc áo choàng của phụ nữ Hồi giáo và chờ một cú đánh như búa tạ đập vào bụng. Nhưng không có cú đánh nào cả, cô được đưa vào băng ghế sau của chiếc xe thứ hai. Người đàn ông ngồi trong đó rất quen thuộc với cô - cô thấy hắn lần đầu tiên trong trang viên Surrey - căn nhà chưa bao giờ tồn tại, và lần thứ hai trong ngôi biệt thự có thật ở Saint Bart. “Chào Sarah”, Ahmed bin Shafiq nói. “Rất vui được gặp lại cô”.
Chương 32
Zurich
Tên thật của cô là Sarah, hay tôi phải gọi cô bằng tên khác?”
Sarah cố gắng trả lời, nhưng âm thanh dù chỉ là những tiếng hớp hớp không khí.
“Tên-tôi-là-Sarah”.
“Vậy tôi sẽ gọi cô là Sarah”.
“Tại-sao-ông-lại-cư-xử-thế-này-với-tôi?”
“Thôi nào Sarah”.
“Hãy-thả-tôi-ra!”
“Tôi e rằng không thể được”.
Cô gập người xuống, đầu gục giữa hai đầu gối. Ahmed bin Shafiq nắm cổ cô giật ngồi thẳng lên, sau đó nhấc mạng trùm xem xét những vết thương trên khuôn mặt cô. Nhìn thái độ hắn, người ta không thể đoán được hắn đánh giá thế nào về những vết thương này: quá nặng hay quá nhẹ? Sarah đưa mắt nhìn đáp trả. Áo khoác da, khăn choàng bằng lụa casơmia, mắt kính tròn có gọng đồi mồi: hình ảnh của một người giàu có thành đạt ở Zurich. Đôi mắt đen của hắn tỏa ra nét thông minh nhưng đầy tính toán. Hắn vẫn giữ nguyên vẻ mặt như lần đầu gặp cô.
“Cô đang làm việc cho ai?”, hắn hỏi một cách hiền hòa.
“Tôi làm việc”, cô ho sù sụ, “cho Zizi”.
“Thở đi, Sarah. Hãy hít thở chậm và sâu”.
“Đừng-đánh-tôi-nữa”.
“Tôi sẽ không đánh cô”, hắn nói. “Nhưng cô phải kể cho tôi những thứ tôi muốn biết”.
“Tôi không biết gì cả”.
“Tôi muốn biết cô đang làm cho ai”.
“Tôi bảo ông rồi - tôi làm việc cho Zizi”.
Khuôn mặt hắn thoáng nét thất vọng. “Thôi đi, Sarah. Đừng làm cho mọi việc trở nên khó khăn. Hãy trả lời câu hỏi của tôi. Hãy nói sự thật, rồi tất cả những chuyện tra tấn này sẽ chấm dứt”.
“Ông sẽ giết tôi”.
“Đúng vậy”, hắn ta thừa nhận. “Nhưng nếu cô nói với chúng tôi những gì chúng tôi muốn biết, cô sẽ không phải bị rạch mặt, và cái chết của cô sẽ êm ái không đau đớn. Nếu cô nhất định nói dối, những giờ phút cuối cùng của cô trên trái đất này sẽ là một địa ngục sống”.
Sự độc ác của hắn không có giới hạn, cô nghĩ. Hắn nói về việc chặt đầu mình mà còn không thèm ngoảnh mặt đi.
“Tôi đang nói sự thật”, Sarah lầm bầm.
“Cô sẽ phải khai thôi, Sarah. Bất cứ ai cũng phải khai. Kháng cự không có ích gì. Làm ơn, đừng hành hạ bản thân mình như vậy”.
“Tôi không tự hành hạ bản thân. Ông mới chính là kẻ…”.
“Tôi muốn biết cô đang làm việc cho ai, Sarah”.
“Tôi làm việc cho Zizi”.
“Tôi muốn biết ai đã phái cô đến”.
“Chính Zizi đến tìm tôi. Ông ta gửi hoa và nữ trang cho tôi. Ông ta gửi vé máy bay rồi mua quần áo cho tôi”.
“Tôi muốn biết tên cái gã đã liên lạc với cô ở bãi biển Saline”.
“Tôi không…“
“Tôi muốn biết tên cái gã đã đổ rượu lên người vợ tôi ở Saint-Jean”.
“Người nào?”
“Tôi muốn biết tên cô gái đi cà nhắc gần Le Tetou trong bữa tiệc tối của Zizi”.
“Làm sao tôi biết tên cô ta được?”
“Tôi muốn biết tại sao cô theo dõi tôi tại bữa tiệc của tôi. Tại sao đột nhiên cô quyết định búi tóc. Tại sao cô lại búi tóc lên khi chạy bộ cùng Jean-Michel”.
Đến đây Sarah oà khóc một cách hoảng loạn. “Những chuyện này thật điên rồ!”
“Tôi muốn biết tên ba kẻ đi xe máy theo dõi tôi ngày hôm đó. Tôi muốn biết tên hai kẻ đến biệt thự của tôi để giết tôi. Và cả tên của kẻ theo dõi khi máy bay tôi cất cánh”.
“Tôi đang nói với ông sự thật! Tên tôi là Sarah Bancroft. Tôi làm việc cho phòng tranh ở Luân Đôn. Tôi bán cho Zizi một bức tranh. Sau đó ông ta mời tôi đến làm việc cho ông ta”.
“Bức Van Gogh à?”
“Đúng vậy!”
“Bức Marguerite Gachet bên bàn trang điểm?”
“Đúng vậy, đồ con hoang”.
“Cô lấy bức tranh này ở đâu? Do chính cô mua được hay do tổ chức tình báo của cô mua?”
“Tôi không làm việc cho tổ chức tình báo nào cả. Tôi làm việc cho Zizi”.
“Cô làm việc cho người Mỹ?”
“Không”.
“Cho người Do Thái?”
“Không!”
Ahmed bin Shafiq thở ra nặng nề, đoạn gỡ kính, dùng chiếc khăn quàng cổ casơmia chùi kính một lúc lâu, khuôn mặt có vẻ đắn đo suy nghĩ. “Cô nên biết rằng không bao lâu sau khi cô rời khỏi Saint Maarten, có bốn người ra phi trường, lên một chiếc máy bay cá nhân. Chúng tôi nhận ra chúng. Chúng tôi đoán bọn chúng bay đến Zurich. Chúng là người Do Thái, phải không Sarah?”
“Tôi không biết ông đang nói gì”.
“Tin tôi đi, Sarah. Chúng là người Do Thái. Ai cũng có thể nhận ra”.
Hắn giơ kính lên nhìn kỹ, sau đó lau tiếp vài lần nữa. “Cô cũng nên biết rằng những tên đồng nghiệp Do Thái ấy đã vụng về theo bước cô đêm nay sau khi cô xuống sân bay. Tài xế của chúng tôi đã dễ dàng cắt đuôi chúng. Cô thấy đấy, chúng tôi cũng hết sức chuyên nghiệp. Bây giờ chúng đã mất dấu cô. Cô chỉ còn một mình”.
Hắn đeo kính vào.
“Cô nghĩ rằng những tên được gọi là chuyên nghiệp mà cô đang làm việc cùng sẽ sẵn lòng hi sinh tính mạng của chúng vì cô sao? Chắc vào giờ này bọn chúng đang ói mửa hết những bí mật ra sàn nhà cho tôi nghe rồi. Nhưng cô khá hơn bọn chúng, đúng không Sarah? Zizi thấy cô khá, nên mới mắc phải sai lầm là đã thuê cô”.
“Đó không phải là sai lầm. Ông mới là người đang phạm sai lầm”.
Hắn cười buồn bã. “Tôi phải trao cô vào tay Muhammad bạn tôi thôi. Anh ta làm cho tôi trong nhóm 205. Cái tên này có quen thuộc với cô không Sarah? Nhóm 205? Chắc chắn những người huấn luyện cô đã nhắc đến tên này trong khóa đào tạo cho cô”.
“Tôi chưa bao giờ nghe thấy tên này”.
“Muhammad là người chuyên nghiệp. Anh ta cũng là một nhà thẩm vấn rất khôn khéo. Cô và Muhammad sẽ có một cuộc hành trình cùng nhau. Hành trình đêm. Cô có biết thuật ngữ này không Sarah? Cuộc Hành trình đêm”.
Đáp lại, Sarah chỉ khóc nấc. Bin Shafiq bèn trả lời câu hỏi.
“Chính trong cuộc Hành trình đêm này, Chúa trời đã tiết lộ kinh Koran cho nhà Tiên tri. Đêm nay cô cũng sẽ tiết lộ thông tin của mình. Đêm nay cô sẽ khai với anh bạn Muhammad rằng cô đang làm việc cho ai cùng tất cả những gì chúng biết về tổ chức của tôi. Nếu khai nhanh, cô sẽ được hưởng một chút khoan hồng. Nếu tiếp tục nói dối, Muhammad sẽ xẻo thịt cô và cắt đầu cô. Cô hiểu những lời tôi nói không?”
Dạ dày Sarah quặn lên vì một cơn buồn nôn. Bin Shafiq có vẻ thích thú khi nhận ra nỗi sợ hãi của cô.
“Cô có biết là nãy giờ cô cứ nhìn cánh tay tôi không? Bọn chúng đã kể với cô về vết sẹo của tôi, về bàn tay tàn tật của tôi chứ gì?”. Một nụ cười mệt mỏi khác. “Cô đã bị lộ, Sarah - bị chính những người huấn luyện mình làm lộ”.
Hắn mở cửa, trèo khỏi xe, sau đó cúi người xuống nhìn cô một lần nữa.
“Nhân tiện, cô cũng đã gần thành công. Nếu những người bạn của cô giết được tôi trên hòn đảo đó, một vụ tấn công nữa của chúng tôi đã bị ngưng lại”.
“Tôi tưởng ông làm việc cho Zizi ở Montreal”.
“Ồ, đúng rồi, tôi gần như quen mất”. Hắn quấn chặt khăn quàng quanh cổ. “Muhammad sẽ không thấy thích thú vì những lời nói dối của cô đâu Sarah. Có cái gì đó đã mách bảo tôi rằng hai người sẽ có một đêm dài đầy đau đớn cùng nhau”.
Sarah im lặng một lúc. Sau đó, cô cất tiếng hỏi. “Vụ tấn công nào?”
“Vụ tấn công nào? Tôi không biết? Tôi chỉ là một ông chủ ngân hàng đầu tư”.
Cô hỏi hắn một lần nữa. “Vụ tấn công đó là gì? Các người dự định sẽ tiến hành ở đâu?”
“Nói tên thật của tôi đi, rồi tôi sẽ nói cho cô nghe”.
“Tên ông là Alain al-Nasser”.
“Không, Sarah. Không phải tên vỏ bọc của tôi. Tên thật của tôi cơ. Nói đi. Thú tội đi, Sarah, rồi tôi sẽ nói cho cô nghe điều cô muốn biết”.
Sarah bắt đầu run lập cập. Cô cố gắng thốt thành lời nhưng không thể lấy đủ can đảm.
“Nói đi!”, hắn hét lên. “Nói tên tao đi, đồ chó cái”.
Cô ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào mắt hắn.
“Tên-mày-là-Ahmed-bin-Shafiq!”
Đầu hắn giật ngược lại, tựa như đang tránh một cú đấm. Sau đó, hắn mỉm cười ngưỡng mộ.
“Mày là một phụ nữ rất dũng cảm”.
“Còn mày là thằng sát nhân hèn nhát”.
“Đáng lẽ tao nên tự tay giết mày”.
“Nói tao nghe mày dự định làm gì”.
Hắn do dự một lúc, sau đó mỉm cười ngạo nghễ với cô. “Bọn tao còn vài công việc chưa hoàn tất tại Vatican. Tội ác của bọn Thiên Chúa giáo và thế giới phương Tây đối với người Hồi giáo sẽ được trả thù dứt điểm. Nhưng mày sẽ không còn sống mà chứng kiến chiến thắng vinh quang này. Lúc đó mày đã chết rồi. Hắn nói với Muhammad những điều mày biết. Hãy làm cho những giờ cuối cùng trên trái đất của mày dễ chịu”.
Sau khi nói xong những lời này, hắn quay người bước đi. Tên lính gác vừa kéo Sarah ra khỏi xe vừa bịt miếng khăn tẩm ête lên mũi và miệng cô. Cô cào cấu hắn. Cô giãy giụa. Cô đá được vài cái vào ống chân bọc sắt của hắn. Sau đó, thuốc mê bắt đầu ngấm, và cô thấy mình lảo đảo té xuống đất. Một ai đó đỡ lấy cô. Một ai đó đặt cô vào thùng xe hơi. Một khuôn mặt xuất hiện trong một thời gian ngắn nhìn xuống cô, trông có vẻ tò mò và, lạ lùng thay, rất tha thiết. Khuôn mặt của Muhammad. Sau đó nắp thùng xe đậy lại, và cô chìm vào bóng đêm. Khi xe hơi bắt đầu chuyển bánh, cô bất tỉnh nhân sự.