Hôm sau, Tuệ An nghĩ mình không cần đi đâu, liền sai Đông Nhi mặc cho nàng cái áo đỏ tươi thêu cúc vàng, thêm váy trắng thuần giản dị. Trên đầu chỉ vãn một búi song yến* lỏng, dùng bữa xong thì đâm đầu vào thư phòng, đuổi hết nhóm nha hoàn ra ngoài, một mực ở trong đó mài mực vẽ tranh, tận khi mặt trời lên đến đỉnh đầu cũng không ra.
*Song yến kế
Đông Nhi cùng Hạ Nhi ở bên cạnh hầu hạ, hai người lén lút ngó vào trong vài lần, thấy Tuệ An nghiêm túc vẽ vời, khiến hai người cũng không biết có chuyện gì, đờ người ở bên ngoài đến giờ cơm mà vẫn không dám quấy rầy Tuệ An.
Các nàng chỉ nói cô nương trúng tà mất rồi, bỗng nhiên lại chăm chú đến thư họa, chẳng qua dù sao hai người cũng hiểu rõ tính tình Tuệ An, chỉ đoán rằng Tuệ An như vậy nhất định là có liên quan đến buổi kiểm tra đánh giá ở Quốc Tử Giám mấy hôm nữa, chắc là nước đến chân mới nhảy, chứ chẳng lý nào nàng lại đổi tính yêu thích cầm kỳ thư họa cả. Nhưng các nàng nghĩ mãi không ra, trước kia hằng năm Tuệ An đâu có để ý mấy chuyện thế này, sao năm nay lại quan tâm nhiều như vậy, chẳng lẽ là không muốn thua Nhị cô nương?
Dĩ nhiên các nàng sẽ không biết, Tuệ An đã trải qua một kiếp thất bại, giờ may mắn được làm lại, đương nhiên không thể tùy hứng qua loa như kiếp trước, huống chi kiếp này nàng còn có rất nhiều dự định khác, nếu như không tĩnh tâm suy nghĩ mọi chuyện, không ép mình thay đổi để bước chân vào tầng lớp quý tộc trong kinh thành này, chỉ sợ nàng vẫn sẽ như kiếp trước không bước nổi một bước, chứ nói gì đến báo thù rửa hận nữa?
Kỳ thật Tuệ An nước đến chân mới nhảy thế này cũng là bất đắc dĩ, kiếp trước nàng đã được lĩnh giáo uy lực của lời đồn đại. Một nữ tử chỉ cần thanh danh bị hỏng, mặc kệ nàng có bao nhiêu cái hay cái đẹp, cũng sẽ bị chôn dấu dưới từng tầng từng tầng đồn đại, đừng hòng có hội xuất đầu lộ diện. Thế đạo này bất công với nữ tử như thế đấy, cho nên phận nữ nhi chỉ cần đi sai một bước, là có thể hủy hoại cả đời.
Kiếp trước nàng đã từng nghe Phương mama dạy bảo như vậy, nhưng Tuệ An nào có cho là đúng, chỉ cho rằng bà nói quá lên, đến giờ mới biết lời ấy một chút cũng không sai. Cho nên kiếp này nàng đã quyết tâm phải khiến cho bản thân bước chân vào vòng xoáy quý tộc này, ít nhất là không thể gây hấn với các phu nhân tiểu thư trong kinh thành này được, chỉ có như vậy kiếp này nàng mới có thể bước đi thuận lợi. Mà muốn làm những chuyện này thì trước tiên phải nâng cao hình tượng của mình, không thể thoắt cái đã biến thành tài nữ, cầm kỳ thi họa mọi thứ tinh thông, nhưng tối thiểu không thể mang danh lỗ mãng nữa, chí ít cũng phải học lấy chút vốn thi thư, không bao giờ đánh mất thể diện của mình là đúng đắn nhất.
Tuy nói lối sống của Đại Huy cởi mở phóng khoáng, nữ tử đã có thể phóng ngựa ngoài đường, nhưng cơ hội cho một tiểu thư khuê các xuất đầu lộ diện, nâng cao thanh danh của mình cũng không hề nhiều. Mà buổi kiểm tra đánh giá của Quốc Tử Giám chính là cơ hội ngàn năm có một, để cho mình lấy được thanh danh tốt đẹp. Rất nhiều vị tài nữ nổi danh kinh thành đều do được khen thưởng trong kỳ kiểm tra đánh giá này, cho nên mới có tiếng lành đồn xa.
Điều này cũng là nguyên nhân khiến cho khi đến kỳ kiểm tra đánh giá mỗi năm của Quốc Tử Giám cùng Thái Học viện, các công tử thì không nói làm gì, còn các vị cô nương thì đúng là hao hết tâm tư trang điểm phối đồ, tranh nhau nổi bật. Chưa kể nhiều năm gần đây vào kỳ kiểm tra đánh giá của Quốc Tử Giám cùng Thái Học viện, còn thường xuyên mời tới những vị nhân sĩ có tiếng tăm địa vị đến làm giám khảo, điều này cũng khiến cho kỳ kiểm tra đánh giá hằng năm này đã trở thành một buổi hội họp linh đình.
Đại hội như vậy, đối với các quý nữ trong kinh mà nói, chính là cực kỳ quan trọng, nếu như có thể tại kỳ kiểm tra đánh giá thắng được chúng học sinh hoặc được giám khảo ca ngợi đôi lời, thì không đến mấy ngày, sợ là bà mối trong kinh sẽ đạp nát cửa phủ để thay người cầu thân, rồi có được một mối hôn nhân tốt, cũng là cơ hội lớn cho các nàng. Đặc biệt là đối với những thứ nữ nhà danh gia vọng tộc, vốn bản thân các nàng cũng có rất ít cơ hội để thể hiện, các phu nhân quý nữ trong kinh thành có tụ họp cũng chẳng cho mời các nàng, kỳ kiểm tra đánh giá mỗi năm của Quốc Tử Giám chính là cơ hội duy nhất cho các nàng đổi đời.
Hôm nay Tuệ An cuống cuồng ôn luyện, không phải muốn tìm hôn sự tốt gì cả, cũng không mơ tới có thể nổi bật trong kỳ kiểm tra đánh giá đầy rẫy người tài này, chút ít tài cán của nàng thì nàng vẫn biết, cho dù là trọng sinh một lần cũng không thể nào xoay người biến thành tài nữ gì được, nàng chỉ là không muốn bị người châm chọc như kiếp trước mà thôi. Muốn dựa vào ưu thế biết trước đề bài, dốc sức tạo lập vài phần danh tiếng cho bản thân kể cũng không tệ.
Chẳng qua nói đi cũng phải nói lại, đến bây giờ Tuệ An cũng không hiểu được tại sao nàng có thể trọng sinh mà sống lại, càng không rõ vì sao kiếp này lại có nhiều chuyện khác kiếp trước đến vậy. Cho nên đề bài trong kỳ kiểm tra đánh giá mà nàng phải vắt óc mới nghĩ ra ở kiếp trước, cũng không cách nào xác định là có giống với kiếp này hay không. Vì vậy để an toàn, Tuệ An mang hết tất cả những đề thi nàng còn nhớ mà Quốc Tử Giám đã ra ở kiếp trước viết ra, chuẩn bị kỹ càng một phen, cầu mong mình có thể may mắn thêm lần nữa, cho nàng bình an qua kỳ kiểm tra đánh giá năm nay.
Lại nói Tuệ An bên này quay ngoắt ngâm cứu thi họa, thì bên kia Phương mama cũng vui mừng như điên.
So với Thẩm Thanh chỉ một mực yêu chiều Tuệ An, Phương mama lại càng thêm thông suốt, bà biết rõ cầm kỳ thi họa có thể ảnh hưởng đến thanh danh của một nữ tử như thế nào, là một thứ không thể bỏ qua. Lúc trước Thẩm Thanh còn sống bà luôn khuyên răn đủ điều, không thể mặc cho Tuệ An vui chơi như thế, nhưng Thẩm Thanh cũng không muốn bắt ép nữ nhi làm chuyện không thích, còn cho rằng dưới sự bảo bọc của nàng thì có không học cầm kỳ thi họa cũng nhất định có thể tìm được một nhà gia giáo, suy nghĩ của Thẩm Thanh lúc đó y hệt phụ thân Thẩm Cường của nàng, đối với nữ nhi đều yêu thương tận xương tủy, phóng mắt khắp kinh thành này về độ chiều chuộng nữ nhi, nếu phủ Phượng Dương hầu đứng thứ hai, thì không một nhà nào dám xưng là nhất.
Mà thứ nhất Phương mama chỉ là phận nô tài, thứ hai là thật sự không muốn Tuệ An không vui, cho nên Thẩm Thanh vừa nói không cần cho Tuệ An học mấy thứ cầm kỳ thi họa để lấy lòng ai, Phương mama nào có thể cố chấp khuyên bảo được nữa.
Nhưng hôm nay thấy Tuệ An đột nhiên hiểu chuyện, nỗ lực luyện tập vẽ vời, rốt cuộc Phương mama cũng có thể vui tươi hớn hở rồi, bà chạy đi chạy lại mấy vòng trong bếp, chỉ muốn chuẩn bị đồ lót dạ thật tốt, cho Tuệ An bồi bổ trí não. Cho nên khi Tuệ An vươn vai bẻ cổ từ trong thư phòng bước ra đã thấy một bàn đầy thịt cá bày sẵn trong phòng, đều là những món ăn nàng thích. Nhìn sang vẻ mặt từ ái của Phương mama, khóe miệng Tuệ An khẽ giật, mặc kệ vung tay lao vào ăn uống.
Đợi Tuệ An ăn xong, bụng phình lên không ít, Đông Nhi phải đỡ nàng đứng dậy, Phương mama mới hài lòng gật đầu:
“Đây là khoảng thời gian cô nương trưởng thành, ăn như vậy cũng được rồi, sáng mai vú chuẩn bị thêm cho cô nương một chén mật ong, tổ yến hầm gà, cá hấp hoàng muội…”
Tuệ An nghe vậy rất không đoan trang ợ lên một tiếng, phóng khoáng vung lên tay nhỏ, vỗ bàn nói: “Được, vú cứ chuẩn bị, An nương nhất định ăn bằng hết, tranh thủ sớm ngày nuôi thành một con heo mập chỉ chờ làm thịt vậy.”
Ai ngờ Phương mama nghe vậy cũng nghiêm nghị gật đầu, nói:
“Đúng vậy, thật không hiểu thói đời bây giờ thế nào, có gì hay mà cứ thích thú mấy kiểu mỹ nhân õng ẹo yếu ớt thế không biết, vú nói nữ tử phải mập một tí mới dễ nhìn, tròn tròn phúc hậu, thì mới vui mắt.” Tuệ An nghe vậy á khẩu không biết nói gì, vấn đề ăn uống của nàng căn bản không cùng một phương hướng với Phương mama.
Vì đồ ăn chứa nhiều dầu mỡ, Phương mama sai người mang cho Tuệ An một chén trà tiêu cơm, Tuệ An uống xong thì lười biếng nằm oặt trên nhuyễn tháp nhắm mắt xoa lấy xoa để cái bụng tròn vo.
Thu Nhi từ bên ngoài vén rèm bước vào, cười nói:
“Hôm qua vừa bỏ lệnh cấm thành, sáng sớm hôm nay nô tỳ đã đến Lưu gia thôn, tìm Sa Vân nương, hôm đó nàng được chúng ta cứu ở trên núi, về sau vì sợ Mã công tử tìm đến gây chuyện, nên đã suốt đêm thu dọn hành lý tới thôn bên cạnh tránh né, sau lại nghe nói kinh thành xảy ra sự kiện Đoan môn, ra lệnh cấm thành, mới trở về Lưu gia thôn, ai ngờ Mã công tử kia vẫn luôn thương nhớ đến nàng, sáng nay hắn đã dẫn theo một toán nô tài đến Lưu gia thôn, may mà có người trong thôn biết được, lén báo tin cho Vân nương, nàng mới thoát nạn. Khi nô tỳ đến Lưu gia thôn, đúng lúc Mã công tử còn đang bị dân làng cản ở đầu thôn. Cũng phải nói đến Vân nương này biết chút y thuật, phàm là người trong thôn ai có bệnh tật gì đều tìm tới nàng, mà nàng lại không chịu thu tiền khám chữa, nên được người trong thôn yêu thích mọi bề, dân làng đều nguyện ý che chở giúp nàng, nếu không e là đã gặp chuyện chẳng lành. Nô tỳ gặp Sa Vân nương đem ý của cô nương nói lại với nàng, nàng còn dứt khoát ký ngay vào khế ước bán thân, nói chỉ cần có thể vào Quốc Tử Giám học tập y thuật thì nàng bằng lòng làm nha hoàn phủ ta, còn cảm kích cô nương cả đời nữa. Bây giờ Sa Vân nương đang ở bên ngoài, cô nương có muốn gặp nàng không? Đây là khế ước bán thân của nàng.”
Tuệ An nghe thế cũng ngồi dậy, Hạ Nhi cấm lấy tờ khế ước bán thân trong tay Thu Nhi dâng lên cho Tuệ An, Xuân Nhi nhanh nhẹn đặt thêm một chiếc gối mềm sau lưng cho Tuệ An dựa vào.
Tuệ An nhìn khế ước bán thân, thấy bên trên là một nét chữ Khải nhỏ nhắn đầy thanh thoát, rõ ràng không phải bút tích của Thu Nhi, khẽ nhíu mày, nói:
“Mau để nàng vào đi.”
Thu Nhi đáp một tiếng, xoay người rời khỏi, lát sau đã dẫn vào một tiểu cô nương yểu điệu một thân áo vải bằng bông màu cam cùng váy xanh thêu hoa lan trắng.
Nàng ăn mặc cực kỳ giản dị thuần khiết, y phục đều bằng vải bông dày cộm, có phần cũ kỹ, nhưng vô cùng sạch sẽ. Một đầu tóc đen chỉ dùng chiếc trâm gỗ khắc hình hoa mai cố định, vai nhỏ eo thon, mặt phấn má đào, còn không phải tiểu nương tử bị Mã Minh Viễn đùa giỡn trên đường núi hôm đó, Sa Vân nương sao.
Sa Vân nương cảm nhận được ánh mắt của Tuệ An, gấp rút bước nhanh vào phòng quỳ xuống trước mặt nàng, khấu đầu một cách ngay ngắn, thanh âm trong trẻo vang lên:
“Vân nương tạ ơn ân cứu mạng của cô nương, từ nay về sau Vân nương chính là nô tỳ của cô nương, nhất định trung thành với chủ, báo đáp đại ân của cô nương, kính xin cô nương ban tên cho Vân nương.”
Tuệ An thấy nàng cung kính có thừa, thái độ thành khẩn, chẳng hiểu sao lại có chút không nỡ. Người bình thường nếu không phải cùng đường, chắc chắn sẽ không bán mình làm nô tài, huống chi là người biết y thuật như Sa Vân nương, nàng vừa dựa vào sức mình nuôi sống bản thân, vừa tránh Mã Minh Viễn như rắn rết. Ắt hẳn là một người có lòng tự tôn cao, kiên cường bất khuất. Lại biết phải tránh họa thế nào, cũng thông minh lanh lợi.
Một cô nương như vậy Tuệ An còn tưởng nàng sẽ không bằng lòng bán thân vào Hầu phủ, mà không ngờ nàng lại có thái độ như bây giờ, vì vậy chỉ cười hỏi:
“Cô nương có biết chữ không?”
“Bẩm cô nương, phụ thân Vân nương từng là tiên sinh của một trường học trong thôn, cho nên cũng dạy Vân nương nhận biết một ít chữ cái, nhưng cũng không nhiều lắm.”
Tuệ An nghe vậy khẽ gật đầu, lại hỏi:
“Chẳng qua ta chỉ thay cô nương ngăn cản một hồi tai ương, sao lại nói là ta có ân cứu mạng với cô nương cho được?”
Vân nương nghe vậy, ngẩng đầu nhìn về Tuệ An, nghiêm mặt nói:
“Vân nương tuy lớn lên nơi thôn dã, nhưng cũng hiểu phải giữ mình trong sạch, nếu hôm đó bị tên công tử kia bắt đi, nhất định sẽ tự sát, bảo vệ danh dự của mình. Cô nương giúp Vân nương chặn lại mối họa này, cũng chính là đã cứu Vân nương một mạng, hôm nay Vân nương lại bị người kia quấy rối, may mắn thoát được một lần, nhưng nếu không có cô nương tương trợ thì cuối cùng vẫn sẽ rơi vào tay Mã công tử, Vân nương tuy là nữ tử, cũng biết có ơn một giọt nước báo một dòng sông, huống chi cô nương đối với Vân nương còn là ơn tựa trời biển. Cho nên Vân nương tự nguyện bán mình vào Hầu phủ. Nhưng thực ra cũng là Vân nương có tâm tư riêng, lúc đầu đến đây là do Vân nương cần một nơi trú nạn, sau đó Vân nương biết thái độ làm người của cô nương, mới ôm tâm tư dựa dẫm vào cô nương, nhưng Vân nương chỉ có chủ tử là một mình cô nương mà thôi, không bao giờ dám sinh lòng khác, kính xin cô nương minh xét.”
Tuệ An nghe Sa Vân nương thẳng thắn thừa nhận, trên mặt vẫn thản nhiên như thường, nhưng trong lòng đã sinh ra vài phần yêu thích với nàng, cười nói:
“Nghe nói trong nhà chỉ còn một mình cô nương?”
“Thưa vâng, cha mẹ Vân nương mất sớm, vốn còn một người huynh trưởng. Nhưng huynh trưởng không muốn lãng phí cả đời nơi thôn quê, nên sáu năm trước đã giao phó Vân nương cho thúc thúc, phiêu bạt khắp nơi, ban đầu còn gửi thư về nhà, huynh trưởng đã tòng quân ở Tùy Châu, nhưng ba năm trước đã đột nhiên bặt vô âm tín. Mùa xuân năm nay thôn nô tỳ có một lão bá đến Tùy Châu buôn bán, Vân nương có nhờ ông hỏi thăm tung tích của huynh trưởng, khi lão bá trở về nói ông đã đến quân doanh hỏi thăm, họ nói huynh trưởng nô tỳ đã chết trên sa trường rồi. Vậy nhưng Vân nương nghe nói nếu như binh sĩ chết nơi chiến trường thì quan phủ sẽ có trách nhiệm gửi về cho gia đình một thẻ tử bài, còn trợ cấp một chút tiền bạc gọi là an ủi, Vân nương đến nay chưa từng nhận được thông báo gì từ quan phủ, nên càng không biết huynh trưởng hiện giờ sống hay chết, người ở phương nào.”
Thẻ tử bài là một thẻ gỗ mà các binh sĩ bắt buộc phải đeo trên tay, nó ghi họ tên quê quán của họ, binh sĩ tử trận sa trường, những binh lính khi thu dọn chiến trường cũng sẽ thu lại thẻ tử bài trên tay họ, để thống kê số người tử vong, thông báo đến gia quyến, nhưng như vậy cũng phải phụ thuộc vào hoàn cảnh, nếu là bên ta bại trận, thì không thể thu dọn chiến trường, mà cho dù là đánh thắng trận, cũng có thể sơ sót khi thu thập, coi như có thu hồi được thẻ tử bài, chẳng may gặp phải người quản lý quân đội qua loa tùy tiện, không báo cho gia đình cũng là chuyện thường tình.
Cho nên y theo tình huống của Vân nương, đúng là khó có thể khẳng định được điều gì. Tuệ An nghe vậy, thấy Sa Vân nương hai mắt ửng đỏ, lại nghe nàng nói huynh trưởng là tòng quân ở Tùy Châu, không khỏi nhướng mày, hỏi:
“Huynh trưởng của cô tham gia đại quân Đông chinh?”
“Dạ đúng, ở đây Vân nương vẫn còn thư của huynh trưởng gửi về bốn năm trước.” Sa Vân nương nói xong, vội vàng từ trong ngực lấy ra một phong thư, dâng lên Tuệ An.
Tuệ An thấy phong thư đã ố vàng, nếp gấp chỉnh tề nhưng đầy nhàu nát, nhàn nhạt lật xem, lại thở dài một hơi, trong thư đúng là có nhắc đến việc người này đã tham gia vào binh đoàn chủ lực của đại quân Đông chinh do Quan Nguyên Hạc dẫn dắt, vì vậy nhân tiện nói:
“Huynh trưởng cô nương tên gì?”
Sa Vân nương nghe Tuệ An hỏi tên huynh trưởng, trong lòng khấp khởi, gấp rút lên tiếng trả lời:
“Huynh trưởng của Vân nương gọi là Nhị Hổ.”
Tuệ An nghe vậy gật nhẹ đầu, đem lá thư đưa Đông Nhi trả lại cho Vân nương, nói:
“Chuyện này ta đã biết, về sau gọi tỷ là Thanh Nguyệt đi, Hạ Nhi sắp xếp chỗ ở cho tỷ ấy, tìm thêm mấy quyển sách thuốc để nàng đọc. Mấy ngày nay tỷ không cần làm gì cả, chuyên tâm xem sách thuốc thật tốt, từ nay trở đi sẽ theo ta đến Quốc Tử Giám học.”
Vân nương nghe nói có thể lập tức đến Quốc Tử Giám học y, hai mắt sáng ngời cả lên, vui mừng dập đầu nói:
“Nô tỳ Thanh Nguyệt xin cáo lui.”
Ba ngày sau, Tuệ An bị Phương mama lôi khỏi ổ chăn mang theo nha hoàn mới thu trèo lên xe ngựa đi tới Quốc Tử Giám, bởi vì hôm nay phải đưa Thanh Nguyệt đến viện y học nhập học, nên khi xe ngựa của phủ Phượng Dương hầu đến nơi thì trời vẫn còn sớm, trước cổng Quốc Tử Giám vắng lạnh vô cùng.
Tuệ An mang theo Sa Vân nương vào Tụ Hiền môn, đi qua đình viện hướng về Sở y học, vòng qua một dãy hành lang dài, lại thêm vườn hoa nơi các học viên vẫn thường tụ họp, thấy bên hành lang trồng hai hàng dương liễu, dương liễu lá xanh đã biến thành màu nâu dưới trời đông lạnh giá, đối ngược với số lượng cành lá um tùm, hơn mười thân cây che rợp cả một đoạn hành lang, lộ vẻ trang nghiêm khác thường. Cuối đường đã thấy một tòa lâu mang hoa văn cổ kính, biển đề hai chữ ‘Nhân ái’, cho thấy rõ quy tắc về y đức của Viện y học đối với học sinh: Cứu nhân độ thế*, trau dồi y thức, nhân ái không quên.
*Cứu người giúp đời để làm phúc, theo quan niệm của đạo Phật.
Tuệ An cùng Thanh Nguyệt đi hết hành lang, lại đi qua một bức tường màu hồng, thì vào đến cửa Sở y học. Trong viện trồng đầy thảo dược các loại, dù là mùa đông vẫn xanh ngắt một màu, Tuệ An đã sớm đưa tin cho Đỗ học sĩ của Sở y học, cho nên người gác cổng vừa thấy nàng đã trực tiếp dẫn hai người tới học đường nơi các tiến sĩ làm việc.
Sau khi cho người thông báo, Tuệ An mới dẫn Thanh Nguyệt đang lộ vẻ lo lắng hồi hộp vào phòng, phòng không lớn, nhưng trang trí rất ngăn nắp sạch sẽ, phía sau án thư ngồi một lão giả cao tuổi, từ tóc đến râu đều đã ngả màu trắng bạc, dung nhan từ ái, khuôn mặt tràn đầy vẻ nghiêm nghị của một người thầy thuốc, là một trong những học sĩ có thâm niên nhất trong Viện y học, Đỗ Thịnh.
Nhìn thấy hai người Tuệ An tiến đến, ánh mắt Đỗ học sĩ lần lượt quét qua hai người, sau mới nhìn về phía Tuệ An, cười nói:
“Thẩm tiểu thư tới sớm.”
Vị Đỗ học sĩ này vốn là Viện chính* của Thái y viện, khi Thẩm Thanh còn sống mỗi lần Tuệ An ngã bệnh, đều là mời vị Đỗ y chính này đến Hầu phủ trông nom, cho nên Tuệ An đối với Đỗ học sĩ cũng là chỗ thân quen.
*Giống như viện trưởng của bệnh viện, ở đây ý chỉ ông là cố chủ quản của Thái y viện.
Nàng nghe vậy thì cười lên một tiếng, nói:
“Không dám để Đỗ học sĩ phải chờ lâu.”
Đỗ học sĩ cười gật đầu, nhìn sang Thanh Nguyệt, thấy nàng mặt mũi dịu dàng, cử chỉ nhã nhặn, thì gật đầu hỏi:
“Nghe nói trước kia trò có biết sơ qua y thuật?”
Thanh Nguyệt thấy Đỗ học sĩ nhìn mình chằm chằm, còn cất tiếng hỏi, tức thì vô cùng căng thẳng, không tự giác nhìn về phía Tuệ An một cái, thấy nàng hướng mình cười trấn an, bấy giờ mới bình ổn tâm tình, đáp:
“Đúng như lời tiên sinh nói, tiểu nữ từng theo học lang trung trong thôn nên cũng biết một vài cách phân biệt dược thảo, nói y thuật thì không dám.”
Đỗ học sĩ thấy nàng trả lời đúng mực, lại hỏi:
“Vậy nói xem hư phổi thì có triệu chứng gì?”
“Mệt mỏi ra nhiều mồ hôi, lúc nóng lúc lạnh, có thể có thêm ho khan, sắc mặt tái nhợt, chân tay vô lực, đầu choáng lưng đau…” Học viên của Sở y học luôn rất ít người thực sự giỏi giang, cho nên Đỗ học sĩ thấy Thanh Nguyệt đối đáp trôi chảy, cũng hài lòng gật đầu nói: “Không tệ.”
Thanh Nguyệt nghe vậy khuôn mặt nhỏ nhắn lập tức ánh lên hào quang, Tuệ An thấy nàng cao hứng, tâm tình cũng khoan khoái không ít, cùng Đỗ học sĩ hàn huyên thêm vài câu, để lại học phí xong cũng không quấy rầy nữa, mang theo Thanh Nguyệt ra khỏi phòng. Thanh Nguyệt được gã sai vặt trong viện dẫn đi làm quen môi trường học tập, Tuệ An thì một thân một mình đến Sở họa học ngắm cảnh.
Ai ngờ Tuệ An vừa ra khỏi cổng Sở y học, đã thấy Mã Minh Viễn mang theo ba bốn gã sai vặt, cùng hai tên công tử bột khác mặc trường bào gấm nổi giận đùng đùng chạy tới. Nhìn thấy nàng, Mã Minh Viễn nhất thời trợn mắt há mồm, chỉ tay hét lớn:
“Thẩm Tuệ An, ngươi con mẹ nó có ý gì!”
“Thẩm Tuệ An, ngươi con mẹ nó có ý gì!”
Tuệ An nhíu mày đứng lại, Mã Minh Viễn mang theo một đám người trong nháy mắt đã tiến đến trước mặt nàng, hắn hằm hằm tức giận, há mồm la hét ầm ĩ:
“Thẩm Tuệ An, ta hỏi ngươi, có phải Sa Vân nương kia vẫn luôn ở chỗ của ngươi, hôm nay ngươi còn dẫn nàng đến Quốc Tử Giám có phải không?”
Tuệ An thấy hắn vừa nói vừa văng nước miếng tứ tung, không khỏi chán ghét lùi về sau hai bước, nhướng mày trả lời:
“Không phải ngươi biết rồi sao, còn hỏi ta làm gì.”
“Ngươi có ý gì, bản thiếu gia nhìn trúng Sa Vân nương thì có liên quan gì tới ngươi, ngươi cố ý đối đầu với tiểu gia ta đúng không? Hay là ngươi cảm thấy hôm đó tiểu gia ta thuận theo ý của ngươi thì là sợ ngươi?” Mã Minh Viễn nghe vậy giận dữ.
Ngày hôm đó trên núi không thực hiện được mưu đồ, nhưng chí ít cũng ôm ấp được với Sa Vân nương, coi như nếm chút ngon ngọt, sau khi trở về chỉ cần nghĩ đến khuôn mặt nhỏ nhắn thanh tú của Sa Vân nương, nhớ đến dáng vẻ hoảng sợ bất lực của nàng, còn cả chiếc eo thon không đầy nắm tay, trong lòng hắn ngứa ngáy không thôi. Vốn muốn sai mấy đứa người làm bắt người về đùa nghịch một chút, nào ngờ hắn chưa kịp ra tay thì đã xảy ra sự kiện Đoan môn, mãi kinh thành mới thu hồi lệnh cấm, sáng sớm hôm kia hắn liền dẫn người phóng thẳng đến Lưu gia thôn, ấy vậy mà lại bị một đám dân đen lừa gạt cản trở. Hai ngày nay hắn đã lật tung Lưu gia thôn lên mà vẫn không thể tìm được Sa Vân nương, mấy hôm rồi chẳng màng ăn uống, làm gì cũng hữu khí vô lực. Ai ngờ hôm nay vừa vào Quốc Tử Giám, đã nghe Nhị công tử Tiết Hiển nhà Thông Chính tư Tiết gia nói Thẩm Tuệ An cùng với Sa Vân nương vừa đến Quốc Tử Giám, hai người bọn họ đang hướng tới Sở y học.
Tiết Hiển nọ cũng là người văn dốt võ nát, phụ thân là quan viên bát phẩm ở kinh thành, ngày thường luôn theo đuôi hắn nịnh nọt lấy lòng, là thứ tiểu nhân không hơn. Cũng là Tiết Hiển phát hiện Sa Vân nương và báo cho hắn đầu tiên, nên Mã Minh Viễn nghe vậy tức thì nổi giận đùng đùng chạy thẳng đến Sở y học như bây giờ.
“Người ta có Thái Hậu chống lưng cơ mà, đương nhiên không sợ Mã Đại công tử huynh.”
Tên công tử bột áo tím thêu mây đi cùng Mã Minh Viễn ở một bên cố tình châm biếm. Hắn là công tử nhà Ngô đại nhân của Tông nhân phủ, Ngô Thạch Bằng, hắn và Mã Minh Viễn chính là cá mè một lứa, đều không phải loại người tốt lành gì. Thực tế thì phụ thân của hắn đang đảm nhiệm chức quan tam phẩm, chẳng cần tốn công nịnh bợ Mã Minh Viễn, nhưng tên này lại là người cực kỳ thích thú mấy chuyện náo nhiệt, là một kẻ chỉ sợ thiên hạ không đủ loạn. Hắn vừa thêm mồi lửa, sắc mặt Mã Minh Viễn quả nhiên khó coi vài phần.
Tuệ An thấy bọn họ người đông thế mạnh, không muốn tốn công tranh cãi với họ, cũng chẳng quan tâm Mã Minh Viễn đang nổi điên mà vòng sang hướng khác. Ai ngờ nàng vừa đi hai bước, cánh tay đã bị Mã Minh Viễn túm lấy, đẩy Tuệ An ngã vào khóm hoa bên đường. Tuệ An hoàn toàn không dự đoán được ở Quốc Tử Giám mà Mã Minh Viễn cũng dám ra tay với nàng, chỉ hơi lơ là đã bị hắn đẩy cho lảo đảo, lùi về phía sau vài bước vẫn không thể tránh khỏi ngã xuống ven đường, cánh tay bị gai hoa đâm vào, nhất thời máu chảy đầm đìa.
Mã Minh Viễn đẩy Tuệ An còn chưa đủ, thấy tuệ an té ngã, hắn nhấc chân muốn đạp lên ngực nàng, tuệ an hoảng sợ, còn chưa kịp lăn người sang bên, nhưng nghe Mã Minh Viễn rên lên một tiếng, sau đó là phịch một tiếng quỳ gối trước mặt nàng.
Tuệ An ngẩn người, thật sự không biết Mã Minh Viễn này lại lên cơn gì nữa.
Nàng đang ngơ ngác, Mã Minh Viễn lại gầm lên một tiếng ôm đùi phải nhảy dựng lên, hai mắt trợn trừng, hét lớn một tiếng:
“Thằng oắt nào dám ám toán lão tử, lăn ra đây cho ta!”
Hắn vừa mới nói xong, miệng còn chưa khép lại, đã thấy một vật vọt vào trong miệng, luẩn quẩn va đập quanh mấy chiếc răng của hắn, trong miệng tanh tanh ngòn ngọt, đưa tay quẹt một cái quả nhiên là máu rỉ ra từ hàm răng, hai cái răng cửa lung lay giống như chạm nhẹ thôi cũng sẽ rơi rớt cả hàm luôn.
Mã Minh Viễn đau đớn kinh khủng, phun ra vật lạ trong miệng, tuệ an nhìn qua, là một hạt như hạt trong quả của cây dương liễu. Nàng kinh ngạc quay đầu nhìn về phía Sở y học, thấy hành lang bên cạnh núi giả không biết từ khi nào đã có một cái thân ảnh cao ngất đứng đó, không phải Quan Nguyên Hạc thì là ai.
Hôm nay y mặc trường bào xanh lam, cổ áo lẫn tay áo đều phủ thêm một lớp lông cáo màu bạc, bên hông đeo một đai lưng hoa văn chìm nổi, khoác thêm tấm áo khoác dày dặn, vốn y thân hình cao lớn khôi ngô, lại khoác trên người tấm áo khoác này, quả nhiên càng nổi bật lên khí thế kiên cường uy nghiêm của đấng nam tử, làm cho người ta sinh ra kính sợ. Chiếc áo khoác của y cùng với chiếc trên người Mã Minh Viễn thật ra cực kỳ giống nhau, chỉ là loại áo khoác vừa dày vừa nặng này mặc lên người Mã Minh Viễn, vốn không có cảm giác gì, nay có Quan Nguyên Hạc so sánh, Tuệ An chỉ cảm thấy nếu Mã Minh Viễn không có lớp quần áo bên trong phụ trợ, e là cả người đều bị chiếc áo khoác kia đè ép cho nghẹt thở mất.
Giữa ngón cái và ngón giữa tay phải Quan Nguyên Hạc vẫn đang cầm một quả dương liễu dang dở, tuệ an thật không hiểu là nên cảm thán hôm nay mình quá may mắn nên mới đụng phải chuyện anh hùng cứu mỹ nhân chuyện này, hay là nên cảm thán nàng cùng Quan Nguyên Hạc bát tự không hợp nữa, mỗi lần thấy y khẳng định là có chuyện chẳng hay ho gì.
Mã Minh Viễn dựa vào tỷ tỷ là Tiệp dư được sủng ái, lại là con trai độc nhất trong nhà, trên có tổ mẫu che chở, dưới có mẫu thân chiều chuộng, mấy năm nay có thể nói chuyện xấu xa gì hắn đều dám làm, trong kinh thành nổi danh hoàn khố, ngoại trừ hoàng tử cùng vài danh môn vọng tộc, thế gia huân quý là hắn không dám đắc tội, những công tử tiểu thư nhà quan viên hoặc môn hộ khác căn bản hắn chẳng coi ra gì, là người không sợ trời không sợ đất. Giới quý tộc kinh thành, hoặc là không thèm so đo với tên phá gia chi tử như vậy, hoặc là không dám trêu chọc tới Mã Tiệp dư, đa số đều tránh hắn mà đi, bình thường cũng không rỗi hơi động chạm đến loại người này. Điều này khiến Mã Minh Viễn càng ngày càng trở nên ngang ngược, cả gan làm loạn chẳng sợ một ai.
Cho nên Tuệ An nhiều lần đối đầu cùng hắn, mới làm cho Mã Minh Viễn tức tối đến thế. Nay hắn lại bị một kẻ xa lạ đánh nát cả răng, tất nhiên là đã giận đến cực điểm, hận không thể mang kẻ tiểu nhân hèn hạ kia đánh cho bằng chết mới thôi, mà khi hắn thấy Quan Nguyên Hạc cầm trong tay quả dương liễu đi tới, nhưng lại theo bản năng mà rụt người trở về, chỉ cảm thấy toàn thân người này tỏa ra một thứ khí thế làm cho người ta nhìn thấy mà sợ, không dám mạo phạm. Hắn tuy là chưa thấy qua Quan Nguyên Hạc, nhưng cũng không phải người mù, khí chất lạnh thấu tận xương của y cùng sự uy nghiêm quý phái đó không phải là ngày một ngày hai có thể có được, khiến hắn không thể không sinh lòng nghi ngờ, do dự đứng chôn chân tại chỗ.
Tuệ An không dễ dàng gì mới gặp được một lần anh hùng cứu mỹ nhân, nàng mặc dù không sợ Mã Minh Viễn, nhưng nếu vì chuyện của Sa Vân nương mà bị Mã Minh Viễn như chó điên cắn mãi không buông thì sao không tức cho được. Huống chi nàng cũng không phải người dễ bắt nạt, bây giờ mu tay nàng còn chưa hết đau, lý nào lại không tặng thêm cho hắn một đòn. Cho nên Tuệ An vừa thấy Mã Minh Viễn không tiền đồ co rúm người lại lại, cũng thản nhiên đứng lên, chậm rãi phủi đi bụi bẩn trên váy, nhẹ giọng cười nói:
“Chậc chậc, vẫn nghĩ Mã Đại công tử là anh hào bậc nhất trong giới hoàn khố*, không ngờ hóa ra lại là kẻ chỉ biết bắt nạt kẻ yếu, ra tay với nữ tử chân yếu tay mềm, nâng cao đạp thấp. Xem ra ta thật sự là xem trọng ngươi quá rồi.”
*Hoàn khố – trích từ bốn chữ “hoàn khố tử đệ”, là cụm từ ý chỉ những kẻ con nhà giàu ăn chơi trác táng, phá gia chi tử ngày xưa.
Tục ngữ nói nghề nào cũng có trạng nguyên, có ai không muốn trở thành người đứng nhất đâu, Mã Minh Viễn người ta tuy là hoàn khố, nhưng cũng là một kẻ vang danh giữa những hoàn khố, thích nhất chúng hoàn khố phải cúi đầu kính phục mình. Hôm nay nếu vì e ngại Quan Nguyên Hạc mà hắn phải nhịn xuống cơn tức này, rồi việc lan truyền ra ngoài, lại bị gán thêm tiếng bắt nạt kẻ yếu, chỉ dám chèn ép nữ tử, thì Mã Minh Viễn hắn còn mặt mũi nào lăn lộn trong kinh nữa. Huống chi những nhân vật lớn trong kinh thành này có ai là Mã Minh Viễn hắn không biết? Người trước mắt chẳng qua chỉ hơi dọa người một chút thôi, trên thực tế có khi chẳng có thân phận bối cảnh gì ấy chứ.
Mã Minh Viễn nghĩ, nhất thời ưỡn ngực thẳng lưng, bắt đầu mở miệng mắng chửi Quan Nguyên Hạc:
“Mẹ nó, dám ở trước mặt ông nội ngươi đây mà xúc phạm con cháu quý tộc! Mấy đứa nô tài chúng mày không có mắt à, còn không xông lên đánh nó!”
Mã Minh Viễn hét lớn một tiếng, phía sau vài tên người làm lực lưỡng mới giật mình ồ ạt như ong vỡ tổ phóng về phía Quan Nguyên Hạc.
Sau đó cho dù Tuệ An có trừng lớn mắt đến đâu, cũng không thấy rõ Quan Nguyên Hạc động thủ như thế nào, chỉ cảm thấy Quan Nguyên Hạc khẽ nâng vạt áo, nhanh như chớp, vài tên nô tài thô kệch tráng kiện kia đã thành miếng vải phần phật trong gió bay về phía lùm cây bên cạnh nàng, tiếng kêu rên nổi lên bốn phía. Gã sai vặt cuối cùng còn chưa kịp vọt tới trước mặt Quan Nguyên Hạc đã bị y vung tay xoay người hắn lại, một chưởng đánh vào thắt lưng đẩy tên đó về phía Mã Minh Viễn, đập thẳng lên người Mã Minh Viễn khiến hắn lùi sau mấy bước, hai người cùng ngã chổng vó, riêng Mã Minh Viễn còn bị gã sai vặt đặt mông ngồi hẳn lên mặt.
Mã Minh Viễn chỉ cảm thấy cái gáy đập xuống đất đau nhói một cái, tiếp theo trước mắt tối sầm, một lúc mới định thần hùng hùng hổ hổ đẩy gã sai vặt ở trên người ra. Chờ đến khi hắn lật đật ngồi dậy, phát quan cũng lệch hẳn sang một bên, quần áo nhếch nhác, mặt xám mày tro chật vật không còn hình tượng.
Tuệ an nhìn đến là vui vẻ, che miệng cười khanh khách không ngừng, khi đó Quan Nguyên Hạc đã đi tới trước mặt nàng, liếc Tuệ An một cái, lại dùng dáng vẻ cao cao tại thượng quay sang nhìn chằm chằm Mã Minh Viễn, nhìn tới nỗi hắn đang xoa gáy rên rỉ cũng dần dần trở nên sợ hãi, thanh âm lạnh lùng nói:
“Mã công tử, nếu như ngươi thông minh, nên hiểu lúc nào thì phải thu liễm, nếu lại làm chuyện ngu ngốc, ta nghĩ có một số việc nếu rơi vào tai lệnh tôn, chỉ sợ sẽ khiến Mã đại nhân nổi trận lôi đình, ngay cả tổ mẫu e cũng không muốn che chở ngươi, sinh lòng oán hận ngươi cũng không phải không có khả năng.”
Mã Minh Viễn nghe vậy, trên khuôn mặt trắng xanh hiện lên bất an cùng kinh hãi, cứng ngắc trả lời:
“Ngươi, ngươi có ý gì?”
“Trong Thanh Miên hạng có tòa tiểu viện ba gian, trước cửa tiểu viện trồng hai cây hòe già, hẳn Mã công tử rõ ràng rồi chứ?”
Quan Nguyên Hạc mập mờ nói một câu, nhất thời làm khuôn mặt Mã Minh Viễn càng thêm trắng bệch, hệt như cái hũ nút không dám há miệng nói một câu nào.
“Cút!”
Nhìn Mã Minh Viễn đứng lên, giống như thấy quỷ chẳng thèm để ý hình tượng gì cả, mang theo Tiết Hiển cùng bọn hạ nhân chuyên môn tác oai tác quái của hắn biến mất nhanh như chớp. Mà Ngô Thạch Bằng nọ thì đã gặp qua Quan Nguyên Hạc, cho nên hắn vừa thấy người ra tay trừng trị Mã Minh Viễn là Quan Nguyên Hạc, nhất thời cũng không dám xem náo nhiệt gì, đã sớm phi thân chạy trối chết tự lúc nào.
Sở y học vốn luôn thanh tịnh, nay lại vào lúc sáng sớm, bên này ầm ĩ hồi lâu nhưng cũng không có người trông thấy, nay mất đám người Mã Minh Viễn, chỉ còn lại Tuệ An vẫn nhìn theo bóng dáng Mã Minh Viễn cười hoài không dứt, cùng với Quan Nguyên Hạc nghiêm mặt nhìn trân trân vào nàng.
Tuệ an thấy Mã Minh Viễn chẳng khác nào con chuột thấy mèo, vừa nghe tiểu viện gì đó thì hết hồn, thoắt cái mất tăm mất tích, không khỏi tò mò tiểu viện mà Quan Nguyên Hạc nói rốt cuộc cất giấu bí mật gì. Bất quá theo như mấy chuyện xấu xa Mã Minh Viễn đã từng làm, chỉ sợ không thoát được liên quan tới nữ sắc, nếu là như thế thì nàng hỏi cũng không hay, mặc dù có hỏi chưa chắc Quan Nguyên Hạc sẽ giải đáp cho nàng.
Cho nên Tuệ An tươi cười ngẩng đầu, nói:
“Sao ngài lại ở chỗ này?”
Khi nàng đối diện ánh mắt trong trẻo nhưng lạnh lùng của Quan Nguyên Hạc, không nhịn được len lén thu lại nụ cười, bởi vì nàng có thể thấy được tâm trạng của Quan Nguyên Hạc bấy giờ không hề vui vẻ.
Nghĩ mới vừa rồi nàng nói mấy câu khích tướng Mã Minh Viễn, chắc chắn Quan Nguyên Hạc cũng nghe thấy, trong lòng khẽ giật mình chột dạ, đành cười giả lả, ha ha nói:
“Chuyện ban nãy, Quan tướng quân quả nhiên xứng danh anh hùng bậc nhất của Đại Huy ta, không chỉ oai phong bất phàm, văn thao võ lược khiến người Đông Khương nghe tên đã sợ mất mật, còn hào hiệp trượng nghĩa, khí khái tận trời, làm cho bọn tiểu nhân không coi trời đất ra gì, bắt nạt người yếu hơn cũng phải rụt người sợ hãi, tiểu nữ kính nể không thôi…”
Hôm nay Quan Nguyên Hạc đến đây là để đưa Tứ muội muội Quan Lễ Trân nhà thúc phụ đi học, đâu ngờ lại gặp phải việc này.
Trong đại quân Đông chinh có một binh sĩ gọi là Sa Nhị Hổ, ở trên chiến trường từng chắn một đao thay Quan Nguyên Hạc, y từng nghe Sa Nhị Hổ nhắc tới tiểu muội của hắn, hình như tên là Vân nương, mà Sa Nhị Hổ thật đúng là người kinh thành. Sa Vân nương trong miệng Mã Minh Viễn, dù Quan Nguyên Hạc không thể xác định có đúng là muội muội của Sa Nhị Hổ hay không, nhưng việc này nếu đã để y nghe thấy, cũng không lý nào lại bỏ qua. Vì vậy Quan Nguyên Hạc nghe Mã Minh Viễn la hét tên Sa Vân nương, nên chú ý mà bước tới bên đây. Không ngờ vừa qua cửa đã thấy Tuệ An bị đẩy ngã, Mã Minh Viễn còn nhấc chân muốn đá vào ngực nàng, nên y mới ra tay dạy dỗ tên Mã Minh Viễn kia một chút.
Vậy mà Tuệ An lại to gan lớn mật như vậy, trước mặt y dám thản nhiên như không lợi dụng y, nói lời khiêu khích Mã Minh Viễn, lấy y làm tấm bia che chắn tai ương cho nàng. Cho dù đúng là cuối cùng y vẫn ra tay giải vây cho nàng, nhưng có ai bị người khác lợi dụng mà trong lòng còn thoải mái được cơ chứ, huống chi Tuệ An lợi dụng y lần này chẳng phải là lần đầu tiên nữa là, điều này còn khiến cho Quan Nguyên Hạc cảm thấy nghi ngờ có phải bản thân đã quá dễ dãi với nàng rồi không, hay là tiểu nha đầu trước mắt này cho rằng y không thể làm gì được nàng nên mới nhởn nhơ vuốt râu hùm như thế?
Kỳ thật Quan Nguyên Hạc nghĩ rất đúng, Tuệ An dám làm như vậy, quả thực là nhằm vào việc Quan Nguyên Hạc là người quang minh chính đại, sẽ không so đo mấy việc cỏn con với nữ tử như nàng.
Nay Quan Nguyên Hạc thấy Tuệ An trưng ra nụ cười nịnh nọt lấy lòng, khuôn mặt nhỏ nhắn trắng muốt ngẩng lên, hai mắt chớp chớp nhìn mình, không hiểu sao một hơi nghẹn cứng trong lòng lại tan đi không ít.
Y nghĩ đến tình cảnh của Tuệ An, rồi dáng vẻ nàng bị Mã Minh Viễn bắt nạt, lại liếc mắt tới vệt máu chói mắt trên cánh tay trắng noãn như ngọc, không thể không sinh lòng xót xa, lời trách mắng gì đó cũng nói không nên lời , chỉ cười mình sao cứ nhất định phải so đo với tiểu cô nương đâu, dù sao nàng có khôn lỏi một chút, lanh lợi một chút cũng chẳng hại gì đến y.
Nhưng nếu dễ dàng bỏ qua cho nàng như thế, Quan Nguyên Hạc lại không cam tâm, cho nên y nhìn nàng bằng ánh mắt nghiêm nghị thâm trầm, mày phượng khẽ nhíu, dường như mang theo vài phần giận dữ trừng Tuệ An một cái, chỉ là ánh mắt thoáng cái đã khôi phục vẻ trầm tĩnh ban đầu, một lát sau mới hừ một tiếng, mắng:
“Ngu ngốc!”
Ngữ khí của y không phải giọng điệu ra vẻ nạt nộ người, chí ít cũng không khiến người ta ghét bỏ, nhưng lại làm cho người ta không thể hiểu được y có ý tứ gì. Tuệ An nghe vậy không biết làm sao, ngẩn người đứng đó, chỉ nghĩ việc này thì liên quan gì đến ngốc hay không ngốc, cớ sao lại mắng nàng ngốc cơ chứ. Thấy Tuệ An ngẩng đầu nhìn mình, vẻ mặt khó hiểu, cánh môi hồng nhạt hơi bĩu, hai má còn có chút trẻ con phồng lên làm như đang tức giận, trên trán lờ mờ hiện lên mấy mạch máu xanh non nớt lướt qua hai bên lông mày. Tức thì phần khó chịu cuối cùng nơi đáy lòng Quan Nguyên Hạc đã tan thành mây khói, bất giác cong cong khóe môi, nói:
“Lo chuyện bao đồng cũng chẳng sao, nhưng vì lo chuyện bao đồng mà làm ảnh hưởng tới cả bản thân mình, thì chính là ngu ngốc. Nếu gặp phải chuyện không hay, còn không biết tự lượng sức mình rút dao tương trợ, lại không có khả năng giải quyết hậu quả, vô duyên vô cớ rước về tai họa cho mình, đó là ngu ngốc không còn gì để nói. Cô hành sự lỗ mãng như vậy, tùy tâm sở dục, bốn phía đều có địch, đúng là không biết sống chết, biết thế thà chẳng làm cho xong.”
Tuệ An nghe y nói vậy sững sờ một hồi, sau đó lại có chút tủi thân, nhẹ giọng nói:
“Gặp được chuyện bất bình cũng không thể ngồi yên mặc kệ chứ?”
Quan Nguyên Hạc nghe vậy, mỉa mai mấp máy môi:
“Sao lại không thể?”
Tuệ An thấy y giọng điệu cố chấp, nhất thời nổi cáu, giận dữ nói:
“Người ta là tiểu cô nương chân yếu tay mềm chẳng may gặp phải kẻ xấu ở nơi rừng núi hoang vu, nếu thật sự trong sạch bị hủy, thì làm gì còn đường sống? Những nam tử như ngài mãi mãi sẽ không biết nữ tử sống trên đời này khó khăn đến nhường nào! Lạnh lùng bạc bẽo như ngài, ta không làm được.”
Vừa rồi Quan Nguyên Hạc cũng nghe được vài câu từ Mã Minh Viễn, cùng với thói quen của hắn đại khái cũng đoán được Tuệ An làm hỏng chuyện tốt của người ta, nên Mã Minh Viễn mới tìm nàng gây sự. Lúc này nghe Tuệ An nói vậy, nhớ đến chuyện hôm đó trên sườn núi gặp phải Tuệ An vung roi đánh Mã Minh Viễn thì đã rõ đến chín mười phần.
Quan Nguyên Hạc nhìn Tuệ An vẫn đang không phục, ra sức gân cái cổ khéo léo cãi lại y, cũng không làm khó nàng thêm nữa, chỉ nghiêm túc nhìn nàng chẳng quản đúng sai ném lại một câu:
“Tốt nhất nên thu liễm, chỉ mong cô nương có thể giữ vững lòng ngay thẳng nhiệt huyết, không ngại cường quyền như thế, nhưng cũng đừng vứt luôn cái mạng nhỏ của mình.”
Nói xong bước nhanh như gió, hất tay mà đi.
Tuệ An thấy y đi xa, lại càng buồn bực, nghĩ tới Mã phủ hiện giờ danh tiếng đang lên, còn phủ Phượng Dương hầu của mình đã sớm như ánh chiều tà, trong lòng cũng cảm thấy mệt mỏi. Nàng cũng tự biết dựa vào năng lực của nàng, muốn giải quyết được Mã Minh Viễn, còn phải hao tổn tâm tư kha khá, nên mới mở miệng khích bác làm cho Mã Minh Viễn đắc tội cùng Quan Nguyên Hạc, mượn năng lực của y xua đi phiền phức cho mình. Nếu như mẫu thân nàng vẫn còn sống, nếu như phụ thân có thể che chở nàng một chút thôi, thì làm sao nàng lại rơi vào tình cảnh thế này?
Quan Nguyên Hạc nói rất đúng, dựa vào vị thế hiện giờ của nàng, căn bản không nên làm việc tùy tiện như thế.
Đúng vậy, nàng cần phải thu người mà sống, nhưng Tuệ An chỉ cảm thấy cuộc sống hiện nay đã nín nhịn quá đủ rồi, nếu gặp chuyện gì cũng rụt đầu rụt cổ, lo trước lo sau, bên này không dám bên kia không thể, vậy chẳng khác nào một người đã chết.
Chưa kể dựa vào tình huống ngày hôm đó, nếu nàng không thèm ngó đến Sa Vân nương, thì chắc chắn sẽ cắn rứt lương tâm. Thu Nhi đưa Sa Vân nương về, còn để lại bạc, xong việc này nàng coi như đã làm hết bổn phận, cũng phẩy tay không quan tâm nữa. Thế nhưng hôm đó nghe Thu Nhi nói Sa Vân nương kia là một tiểu cô nương côi cút không người nương tựa, nghĩ tới tình cảnh của nàng và mình không thể không động lòng trắc ẩn. Sau mới nghĩ cách thu nhận Sa Vân nương, cho nàng đến Quốc Tử Giám học.
Dù là Mã Minh Viễn kia có muốn làm ầm lên nữa, Sa Vân nương đã vào Quốc Tử Giám rồi, hắn cũng không có gan làm loạn. Lại nói Vân nương là người có bản lĩnh, giúp nàng né được kiếp nạn này, tương lai khi cần có thể giúp ích với mình, chuyện nhất cử lưỡng tiện như vậy, sao không làm cho được, dù sao ngày đó trên đường, nàng đắc tội ai thì cũng đắc tội rồi. Làm thế thì có gì là sai? Sao lại đến nước không còn giữ nổi cái mạng nhỏ này cơ chứ?
“Ăn to nói lớn, tính dọa trẻ con chắc?”
Nghĩ tới những lời Quan Nguyên Hạc vừa nói, Tuệ An tức giận lầm bầm hai tiếng, nàng sửa sang lại y phục trên người, cũng không suy nghĩ nhiều, nhẹ nhàng đi về phía Sở họa học.
Trải qua một hồi náo loạn vừa rồi, thời gian đã không còn sớm, khi Tuệ An đến gần Sở họa học, trong phòng học đã ngồi đầy chúng học viên, đang túm năm tụm ba nói chuyện cùng nhau.
Tuệ An vào cửa chỉ thấy phía đông phòng học tụ tập một toán nữ học viên, vây thành vòng tròn không biết đang nói những gì, sắc mặt người nào người nấy trầm mặc như tờ, mà vị cô nương đứng giữa vòng vây của các nàng, đích thị là Tôn Tâm Từ.
Không biết nàng ta đã nói gì với mọi người, vừa thấy nàng tiến đến, liền lập tức ngậm miệng, mặt mày khẽ cong, nở nụ cười ngọt ngào đứng dậy, nhu thuận gọi nàng một tiếng:
“Đại tỷ, tỷ đã tới, bọn muội vừa nhắc đến tỷ xong.”