Sau hôm phạt quỳ từ đường thì Đỗ Mỹ Kha bị nhiễm phong hàn, mấy hôm nay vẫn luôn tĩnh dưỡng trong viện, còn Tôn Tâm Từ bị đánh bằng gia pháp, mất hết cả mặt mũi thể diện, cũng theo mẫu thân của nàng ở lì trong phòng không dám bước nửa bàn chân ra ngoài. Chủ tử thất thế, bọn nô tài chẳng ai bảo ai cũng co đầu rụt cổ sống sót qua ngày, mấy ngày hôm nay Thu Lan viện yên ắng đến lạ thường, y hệt cái lúc mẹ con Đỗ Mỹ Kha còn chưa vào phủ.
Mà Tuệ An vì bận rộn chuẩn bị cho kỳ kiểm tra đánh giá cuối năm, thời gian này cũng không rảnh để ý tới hai mẹ con bọn họ, cho Hầu phủ sóng yên biển lặng mấy hôm cũng tốt. Không có đám người vừa nhìn đã buồn nôn lượn lờ trước mắt, Tuệ An càng cảm thấy thật vất vả mới có được cuộc sống thanh tĩnh thoải mái thế này.
Lúc nàng thấy Tôn Tâm Từ bày ra vẻ mặt tươi cười giả lả vẫy tay với nàng, có chút sững sờ chưa kịp phản ứng, sau đó trong lòng nổi lên một cơn ớn lạnh, thầm nghĩ không biết nàng ta lại lên cơn động kinh gì rồi.
Muốn diễn cái trò tỷ muội tình thâm sao, được, thế thì để mọi người cùng nhau diễn cho vui cửa vui nhà.
Tuệ An nghĩ vậy, tức thì trưng ra khuôn mặt tươi cười, bước vào lớp học kéo lấy cánh tay Tôn Tâm Từ, hiền hòa hỏi:
“Không biết Nhị muội cùng mọi người nhắc gì đến tỷ đây?”
Tôn Tâm Từ bị Tuệ An lôi kéo, rõ ràng cứng người lại, sau đó mới ha ha cười nói:
“Người ta đang nói chuyện xảy ra ở Đoan môn hôm đó, tỷ tỷ vì cứu Tiểu Từ, không tiếc lấy thân mình ngăn chặn mũi tên phóng tới, đến tận bây giờ Tiểu Từ nhớ đến tình cảnh ngày hôm ấy vẫn còn run sợ không thôi đây. Lúc ấy Tiểu Từ sợ hãi tới nỗi không cả đứng lên được, nếu không nhờ tỷ tỷ che chở cho muội, e là Tiểu Từ đã mất mạng dưới tay đám người Đông Khương kia, cho nên Tiểu Từ cảm động lắm, muội vừa mang ơn tỷ tỷ, cũng khâm phục bản lĩnh và sự dũng cảm của tỷ tỷ vô cùng.”
Tôn Tâm Từ ra vẻ cảm động cười nói, trong đôi mắt hạnh tràn đầy sùng bái, Tuệ An nghe nàng nói như vậy lại thấy mọi người xung quanh không có biểu hiện khác thường gì, trong lòng càng thêm buồn bực.
Tôn Tâm Từ sẽ nói tốt cho nàng? Tuệ An không tin, trực giác cho nàng biết nhất định Tôn Tâm Từ có âm mưu khác. Nhưng nghĩ tới chuyện nàng ta sẽ không ngu ngốc công khai nói xấu mình, lại cười đáp:
“Nhị muội nói gì vậy, là tỷ tỷ thì tất nhiên ta phải che chở cho muội muội, cái gì mà cảm kích với không cảm kích. Muội muội nói như thế, người không biết có khi còn hiểu lầm quan hệ giữa tỷ muội ta không tốt, nên mới khách sáo với nhau như thế đấy.”
“Tỷ tỷ nói phải, Tiểu Từ nghe tỷ tỷ tất, về sau muội không dám nói những lời này nữa.” Tôn Tâm Từ vội vàng gật đầu thưa phải, dáng vẻ một mực nghe theo lời Tuệ An không hề oán thán.
“Thẩm Đại tiểu thư, hôm đó thật sự là cô che chở hai người Văn Tam tiểu thư thoát hiểm à, nghe Thẩm Nhị tiểu thư nói cô còn giết được Đông Khương tử sĩ cứu một mạng của Tần vương điện hạ, chuyện này cũng là thật sao?”
Đích nữ Ngô Hinh của nhà Đại học sĩ Hàn Lâm viện Ngô Thanh Nguyên đưa ánh mắt tròn trịa nhìn chằm chằm vào Tuệ An, có phần gấp rút hỏi.
Tuệ An thấy nàng hỏi câu đó, hơi bất ngờ một chút, xem ra đúng là Tôn Tâm Từ đang nói đến chuyện hôm đó của mình, nhưng Tôn Tâm Từ làm thế rốt cuộc là có ý gì?
“Bên cạnh Tần vương điện hạ đầy rẫy cận vệ, mỗi người đều có bản lĩnh đầy mình, ngay chính Tần vương cũng nổi tiếng văn võ song toàn, Đông Khương tử sĩ kia đâu phải muốn làm gì là làm được? Ngày đó ta cũng bị dọa đến choáng váng, thấy có Đông Khương tử sĩ dám ra tay ám sát hoàng tử của Đại Huy ta, nên chỉ vung tay quất bừa một roi, khiến mọi người chê cười rồi. Nói ta cứu Tần vương một mạng, làm cho ta mất mặt quá. Nhị muội, tỷ cũng biết là muội muốn tốt cho tỷ, muốn nâng cao thanh danh của tỷ, nhưng nói tỷ cứu Tần vương, không phải để người ta cười rụng răng sao?”
Tuệ An vừa nói vừa giả vờ ngại ngùng lườm yêu Tôn Tâm Từ, mà Tôn Tâm Từ thì xấu hổ đỏ mặt, hệt như không hề nghĩ tới khía cạnh này, sợ Tuệ An không vui, có chút bàng hoàng cúi thấp đầu.
“Nói vậy hôm đó đúng là Thẩm tiểu thư đã che chở hai người Văn Tam tiểu thư chạy khỏi Thường Âm lâu đến tửu lâu khác?” Ngô Hinh hỏi lại lần nữa.
Tuệ An không biết vị Ngô tiểu thư này tại sao cứ cố ý vòng lại vấn đề đó, tình huống hôm ấy không ít người đã chứng kiến tận mắt, nghĩ Tôn Tâm Từ không thể đổi trắng thay đen cái gì, liền gật đầu thừa nhận.
Nàng vừa gật đầu đã thấy không khí xung quanh có gì đó càng thêm khác lạ, những ánh mắt của các tiểu thư nơi đây nhìn về phía nàng đều lộ rõ vẻ cổ quái, Tuệ An còn chưa kịp lên tiếng, bỗng nghe sau lưng truyền đến thanh âm của Văn Cảnh Tâm:
“Hôm đó quả thật đã làm phiền An nương, hơn nữa ngày ấy trong Thường Âm lâu, mấy tiểu nha hoàn của An nương còn ra tay cứu giúp được vài vị phu nhân tiểu thư khác nữa, lão thái quân nhà ta cứ khen An nương là tướng môn hổ sĩ mãi thôi, nói phủ Phượng Dương hầu có lão Hầu gia là tướng tài hiếm thấy, Thẩm nữ hầu cũng là bậc nữ trung hào kiệt, tuy hai vị Hầu gia đã mất nhiều năm, nhưng gia phong Hầu phủ vẫn không hề suy bại, nay Hầu phủ lại có thêm một nữ nhi xuất sắc chẳng kém, ngay nha hoàn trong phủ cũng gan dạ giỏi giang như thế, quả là gia môn được đích thân Hoàng thượng sắc phong tước vị có khác, người người trung dũng.”
Tuệ An thấy Văn Cảnh Tâm và Văn Tư Tồn cùng đi đến, mà Văn Cảnh Tâm đang mỉm cười gật đầu với mình, lời nói ra từng câu đều tỏ rõ ủng hộ mình, trong lòng sao không vui vẻ cho được. Chúng nữ tử nghe vậy, vội vàng gật đầu phụ họa, đúng lúc này trong nội viện truyền đến một hồi chuông báo, Tuệ An gấp rút kéo Văn Cảnh Tâm ngồi vào chỗ của bọn họ như mọi khi.
Hôm nay là buổi học vẽ, mỗi học viên đã ngồi ngay ngắn trước một chiếc bàn thấp bày đủ loại văn phòng tứ bảo, Tuệ An ngồi xuống, trong thời gian chờ giảng viên môn họa học là Lưu học sĩ đến, đành nhàm chán với lấy một cái bút lông sói chấm vào nghiên mực đặt ở chính giữa tờ giấy, nhìn mực nước từ từ nhuộm đen mảnh giấy trên bàn.
Tới giờ Thìn một khắc, mới thấy một nam tử trung niên mặc trường bào trắng đi về phía phòng học, chính là giảng viên môn họa học Lưu học sĩ, Lưu Đồng Giang. Chỉ khác là phía sau ông còn đi theo ba vị nam tử, một người trong đó là Giám sát Quốc học*, Liễu viện sĩ, bên cạnh là một vị thiếu niên tuấn tú khác mặc trên người trường bào thêu tùng xanh trong tuyết, đầu cài chiếc trâm bạch ngọc, nhưng lại là Tứ công tử Âu Dương Văn, con trai dòng chính nhà học sĩ Viện Hàn lâm Âu Dương Tăng.
*Thật ra cũng không biết chức của vị Liễu viện sĩ này là gì, nhưng áng chừng tương đương với hiệu phó trong một trường, chuyên môn lo về các hoạt động ngoại khóa cho học viên (Theo từ điển Bách khoa toàn thư do Tử Băng Cung biên soạn và phát hành :v)
Âu Dương Văn năm nay vừa qua nhược quán, cũng có tiếng là nhân tài kiệt xuất. Hắn từ nhỏ đã thông minh hơn người, ba tuổi thuộc lòng hàng trăm bài thơ cổ, năm tuổi xuất khẩu thành thơ, tám tuổi viết sách lý luận, mười ba trúng cử, mười bảy trúng tiến sĩ, mặc dù chỉ xếp thứ năm mươi trong kỳ thi cả nước, nhưng không thể phủ nhận hắn chính là nhân tài cực kỳ hiếm có. Chỉ là hắn không có lòng tiến thân nơi quan trường, cực yêu thích làm thơ vẽ tranh, hỉ thước dưới ngòi bút của hắn vô cùng sống động, không khác nào một con chim thật. Bởi vì chim hỉ thước được coi là điềm lành, nên trong phòng các quý phu nhân đều đặt ít nhất một bộ tranh hỉ thước vui đùa để mong có được nhiều may mắn, vì vậy tranh của Âu Dương Văn ai cũng muốn có, hiện giờ giá thị trường của một bức hắn vẽ vào khoảng trên dưới hai ngàn lượng. Chỉ trách Âu Dương Văn là người thanh cao, lấy việc bán tranh thu lợi làm hổ thẹn, cho nên tranh của hắn rất ít khi nhìn thấy xuất hiện bên ngoài.
Nhưng Âu Dương Văn này là môn sinh của Thái Học viện, cớ sao hôm nay lại đến Quốc Tử Giám?
Tuệ An đang rối ren, Lưu học sĩ đã nghiêng người cung kính mời Liễu viện sĩ, Âu Dương Văn cùng một lão giả khoác trên người trường bào xanh thẫm thêu tơ vàng vào lớp học. Chúng học viên gấp rút đứng dậy chào, Liễu viện sĩ bước lên phía trước, cười ra hiệu mọi người ngồi xuống, chỉ vào lão giả giới thiệu với các học viên:
“Hai vị này là Lý viện sĩ và Âu Dương Văn của bên Thái Học viện.”
Tuệ An nhìn lão giả kia tuổi chừng sáu mươi, mặt mày hồng hào, khí chất ung dung, chòm râu bạc trắng tỏ vẻ vô cùng thanh cao văn nhã, còn không phải là viện sĩ của Thái Học viện, Lý Chính Thuần, không khỏi càng thêm buồn bực. Các học viên khác trong phòng cũng mỗi người một vẻ, chỉ thầm suy nghĩ Thái Học viện cùng Quốc Tử Giám vẫn luôn đối đầu, sao hôm nay viện sĩ bên Thái Học đến địa bàn của Quốc Tử Giám làm cái gì.
Lại nghe Liễu viện sĩ nói tiếp:
“Trước nay Quốc Tử Giám vẫn chia thành hai viện Đông Tây, trong Tây viện có sáu Sở, tất cả sáu Sở chỉ tuyển học viên là nữ tử, mà cuối mỗi năm sẽ có một kỳ kiểm tra đánh giá các học viên, để các học viên tự so tài với nhau, mang ý nghĩa tổng kết cho một năm, cũng là để học viên tự mình kiểm tra học thức, khích lệ chúng học viên càng thêm chăm chỉ học tập vào năm tới. Sự kiện này cũng chính là nguyên do khiến cho học viên của Quốc Tử Giám ta càng ngày càng vang danh học rộng biết nhiều, bây giờ kỳ kiểm tra đánh giá cuối năm của Quốc Tử Giám đã sắp tới gần, năm nay Quốc Tử Giám chúng ta quyết định thay đổi phương pháp kiểm tra cho học viên. Cách thức mới này không phải là hai học viên chúng ta cùng nhau thi tài nữa, mà là Quốc Tử Giám ta sẽ luận bàn kiến thức cùng Thái Học viện. Phương pháp này sẽ giúp Quốc Tử Giám và Thái Học viện hiểu biết lẫn nhau hơn, đã được đích thân Thánh thượng chuẩn tấu, kết quả tỷ thí giữa Quốc Tử Giám với Thái Học viện sẽ do năm vị giám khảo cùng nhau đánh giá, bên nào thắng cuộc sẽ giành được quyền chấm thi cho kỳ thi tuyển chọn quan viên vào năm tới. Hôm nay Lý viện sĩ đến đây là để chính tay chọn ra năm học viên đại diện cho Quốc Tử Giám chúng ta tham gia tỷ thí, mà đương nhiên sau đó thầy cũng sẽ tới Thái Học viện chọn năm học viên bên đó.”
Quốc Tử Giám và Thái Học viện cùng là quan học*, đều là những trường học nổi danh ngàn năm văn hiến. Chỉ là có triều đại ưu tiên phát triển Thái Học viện, có triều đại chỉ dùng Quốc Tử Giám, cũng có thời gian hai bên đồng thời tham gia giảng dạy, tỷ như Đại Huy bây giờ. Chế độ giảng dạy của Quốc Tử Giám cùng Thái Học viện mặc dù khác biệt, nhưng hai bên đều là trường học dành cho tầng lớp vương công quý tộc, thế gia danh môn, học viên theo học hai trường cũng có cách gọi khác nhau, một bên là Thái học sinh, một bên là Quốc tử sinh.
*Theo nghĩa hiện đại thì là trường công, do Nhà nước mở và tài trợ.
Hai trường cùng có trách nhiệm thay hoàng đế đọc diễn văn mỗi khi đất nước cử hành đại lễ, cùng đứng ra tổ chức và chấm thi cho cuộc tuyển chọn quan lại hoặc thi lên học sĩ, lại tranh đoạt học viên lẫn nhau, cho nên hai trường vì giành được cái danh đệ nhất học phủ, có thể nói học viên hai bên bằng mọi thủ đoạn cũng phải giành phần thắng, mỗi khi có cuộc thi nào diễn ra, hai bên nhất định phải trao đổi sứ giả với nhau, để ngăn ngừa học viên bên kia giở trò không hay.
Thật ra ngay khi Đại Huy bắt đầu kiến thiết, danh tiếng của Thái Học viện vốn đã cao hơn hẳn Quốc Tử Giám, nhưng kể từ lúc Thánh Tổ thay đổi chế độ quản lý, Quốc Tử Giám nhanh chóng phân riêng hai viện Đông Tây, Tây viện tuyển chọn học viên cho sáu Sở, nhận các tiểu thư danh môn, việc này khiến không ít môn hộ quý tộc âm thầm vui sướng, những vị công tử tiểu thư ai không muốn mang danh văn nhã, nên liền tranh nhau đưa con gái trong nhà tới Quốc Tử Giám giao thiệp lẫn nhau, nữ tử đã đến lẽ nào lại không hấp dẫn sự chú ý của các quý công tử, chỉ một thời gian ngắn Quốc Tử Giám đã trở nên cực kỳ nổi trội, chèn ép trên đầu Thái Học viện. Thái học sinh rối rít thôi học chạy sang Quốc Tử Giám, điều này khiến Thái Học viện không thể không bước theo Quốc Tử Giám, nhưng cho dù Thái Học viện có mở thêm sáu Sở, nhận vào tiểu thư, thì vẫn chậm hơn đối thủ, học viên đã bị Quốc Tử Giám đoạt mất, cho nên nữ học viên trong Thái Học viện phần lớn là những nữ nhi của các môn hộ nhỏ không có danh cũng chẳng có tiếng, thế là từ từ suy thoái.
Dù vậy nhưng Thái Học viện vẫn cố gắng cải thiện tình trạng khi đó, trải qua hơn hai mươi năm phát triển quả thật đã đạt được thành quả, có không ít danh môn vọng tộc trong kinh và những thế gia huân quý cũng đưa con cháu đến học ở Thái Học viện, mới khiến cho Thái Học viện với Quốc Tử Giám hình thành cục diện hai hổ một núi như bây giờ. Thế nhưng bao nhiêu năm trở về đây hai trường tổ chức thi thố đều là do các nam học viên đứng ra tỷ thí, đề ra tương đương với các lần thi cử trạng nguyên. Năm nay bỗng nhiên lại xét cả sáu môn tài nghệ, đúng là lần đầu tiên. Cho nên trong phòng học nhất thời choáng váng, thanh âm ồn ào nổi lên khắp nơi.
Sau một hồi lâu, Liễu viện sĩ mới nâng tay ra hiệu cho mọi người im lặng, trầm giọng nói:
“Các trò yên lặng nghe ta nói quy tắc cụ thể lần đánh giá này của Quốc Tử Giám cùng Thái Học viện và phương thức tuyển chọn học viên tham gia nào.”
Nghe vậy, phòng học lập tức im lìm không tiếng động, Liễu viện sĩ thấy thế mới chậm rãi nói:
“Do Quốc Tử Giám mở sáu môn cầm, kì, thi, hoa, kỵ xạ, y khoa, mà Thái Học viện lại thay môn y học bằng môn luật. Cho nên hai môn y và luật sẽ không tổ chức thi tuyển, lần này hai trường chỉ đánh giá giới hạn trong năm môn còn lại, bên nào thắng ở ba môn sẽ đảm nhận chức trách trong cuộc tuyển chọn quan viên năm tới. Để đánh giá năm môn, Quốc Tử Giám cùng Thái Học viện sẽ lần lượt chọn ra năm học viên khác nhau, thời gian tỷ thí đã định vào ba ngày sau, địa điểm diễn ra là ở Ung Luật quảng trường của Quốc Tử Giám.”
Tuệ An nghe nói cả Quốc Tử Giám chỉ chọn ra năm người đại biểu tham dự so tài, trong lòng âm thầm vui vẻ, những chuyện thế này đương nhiên học viên giỏi nhất của các môn sẽ được chọn đi ứng thí, nói cách khác căn bản không dính dáng đến nàng. Hai trường tổ chức đánh giá chung thế này, thật ra còn rút gọn kỳ kiểm tra đánh giá năm nay ấy chứ, nàng cũng chẳng cần lo lắng xảy ra sai sót trong kỳ kiểm tra đánh giá, cũng không cần buồn bực nhốt mình trong thư phòng cả ngày nữa, thật sự là một tin tức không thể tốt hơn.
“Liễu viện sĩ, vậy học viên tham gia lần đánh giá này có phải sẽ được chọn trong số học viên có học lực nổi bật nhất các môn không?”
Một vị công tử mặc cẩm bào xanh ngọc, mặt vuông chữ điền dáng người thấp bé đứng lên, cung kính có lễ hỏi Liễu viện sĩ. Người này là thứ tử của phủ Uy Ninh bá, Mộ Phương, hắn mặc dù tướng mạo xấu xí, nhưng có tài đánh cờ hơn người, trong Quốc Tử Giám không ai có thể đánh bại, từng cùng người được mệnh danh thánh cờ của Đại Huy là Từ Am đại sư giao đấu suốt một ngày một đêm cuối cùng chỉ thua có ba nước.
Đôi mắt hắn lấp lánh ánh sáng nhìn chằm chằm Liễu viện sĩ, vẻ mặt vui tươi mãn nguyện, lúc này Tuệ An mới để ý tới các học viên xung quanh, phàm là người nổi trội ở một môn nào đó đều mang vẻ mặt chuyên chú mong chờ, hưng phấn nhưng cũng bất an nhìn Liễu viện sĩ, hiển nhiên mọi người ai cũng hi vọng có thể được chọn tham gia kì đánh giá của hai trường lần này.
Ngẫm lại cũng đúng, kỳ kiểm tra đánh giá các năm mọi người đều nghĩ đến nát óc tìm cơ hội xuất đầu lộ diện cho mình, nay đổi phương thức thi thố như vậy, không khác nào một cơ hội từ trên trời rơi xuống. Khoan hãy nói có thắng được trong trận chung kết hay không, chỉ cần là người được chọn đã là vinh quang vô hạn rồi, khó trách tất cả mọi người lại mong đợi như vậy.
Phải nói giữa năm môn Tuệ An cũng được tính là một trong những cao thủ đứng đầu về kỵ xạ, tài cưỡi ngựa bắn cung của Tuệ An có thể xếp vào hàng thượng đẳng ở Quốc Tử Giám, ít nhất trong số nữ tử nàng là người giỏi nhất, nhưng lần này hai trường so tài, chắc chắn không giới hạn nam nữ, luận xạ kỵ thì trong Quốc Tử Giám còn có rất nhiều công tử trên cơ Tuệ An, cho nên Tuệ An nàng căn bản không có cơ hội tham dự, không cho rằng đây là chuyện của mình.
Lúc này nàng thấy mọi người đều nhao nhao ra sức ứng cử, không khỏi có phần xấu hổ, cảm thấy quả nhiên mình là loại không có tiền đồ gì cả.
Tuệ An bên này còn đang tự trách bản thân, bên kia Liễu viện sĩ lại nói tiếp quy tắc ghi danh ứng thí khiến chúng học viên càng thêm bất ngờ:
“Không phải, lần này Thái Học viện và Quốc Tử Giám tỷ thí là muốn công bố trình độ học vấn của tất cả học viên trong trường, tuyệt đối không có chuyện để cho những học viên hàng đầu tỷ thí với nhau nữa, cho nên để công bằng, hai bên quyết định dùng hình thức bốc thăm để chọn lấy học viên. Có nghĩa chỉ cần là học viên của Quốc Tử Giám ta, mỗi người các trò đều có khả năng được rút trúng, trở thành người đại biểu cho trường.”
Có nghĩa chỉ cần là học viên của Quốc Tử Giám ta, mỗi người các trò đều có khả năng được rút trúng, trở thành người đại biểu cho trường.”
Liễu viện sĩ vừa dứt lời, cả căn phòng liền sôi trào, các loại thanh âm thi nhau vang lên. Những học viên như Mộ Phương tự cho mình là giỏi vẫn nghĩ dựa vào bản lĩnh của mình có thể trở thành đại diện, oai phong hớn hở một hồi, không ngờ hy vọng lại rơi hết vào khoảng không, tất nhiên đua nhau tức giận bày tỏ sự phản đối. Mà những người chỉ có chút tài nghệ vốn nghĩ vô vọng, lại thầm cầu khấn tên mình có thể may mắn được rút trúng, nói không chừng còn có thể một trận thành danh.
Còn những học viên học hành kém cỏi, cả năm môn đều chẳng biết tí gì lại lén lút chột dạ không thôi, nếu bị rút trúng thành một trong năm học viên bắt buộc phải ra thi đấu, thì đúng là bất hạnh ở đâu tự dưng ập xuống, đến khi đó đừng nói vang danh cái gì, chỉ sợ sẽ bị mất sạch thể diện ấy chứ.
Trong lòng Tuệ An cũng giật thót, không phải nàng sợ bị rút trúng tên, mà cho dù có trúng thì Quốc Tử Giám nhất định cũng sẽ để nàng thi môn xạ kỵ, không phải không có cơ hội chiến thắng. Còn nữa, hiện nay năm sở cầm, kỳ, thư, họa, xạ kỵ, của Quốc Tử Giám có tổng cộng ba trăm năm mươi học viên, từ số đó rút ra tên năm người, tỷ lệ trúng cử cũng quá nhỏ bé, có thể rút trúng nàng e là rất khó.
Đợi Liễu viện sĩ cầm một chiếc hộp gỗ lim từ trong tay Lưu học sĩ bên cạnh ra hiệu cho mọi người im lặng, trong phòng học mới từ từ yên tĩnh. Lúc này Liễu viện sĩ cười nói:
“Phương pháp xét tuyển lần này do tất cả viện sĩ của Quốc Tử Giám và Thái Học viện cùng nhau thống nhất, là phương pháp công bằng nhất để so sánh học lực của đại đa số học viên hai trường, các trò không cần tranh chấp làm gì. Bây giờ chiếc hộp gỗ trong tay ta chứa tất cả mảnh giấy đã viết tên các trò, hiện tại sẽ do Lý viện sĩ của Thái Học viện rút ra tên của năm học sinh bất kỳ, xin mời Lý viện sĩ.”
Chúng học viên thấy chuyện đã không thể thay đổi, tức thì đều trợn to hai mắt nhìn chằm chằm vào Lý viện sĩ, Lý viện sĩ kia cũng rất dứt khoát, tùy tiện đưa tay đảo lộn ba trăm năm mươi tờ giấy trong hộp một lần, sau đó rất nhanh rút ra năm tờ, chỉ liếc mắt nhìn qua lại đưa trở về cho Liễu viện sĩ. Liễu viện sĩ lần lượt nhìn tên được ghi trên năm tờ giấy, ánh mắt nhấp nháy vài cái, khó mà nhìn ra vui buồn thế nào, chúng học viên phía dưới sớm đã không thể kiềm chế mà ầm ầm đòi xem kết quả.
Thấy mọi người kích động như thế, Liễu viện sĩ mới chậm chạp mở miệng:
“Năm học sinh được chọn lần này là Trình Mẫn Du tiểu thư, Bạch Ngự Lâm công tử, Văn Tư Tồn công tử…”
Mỗi lần Liễu viện sĩ đọc lên một cái tên, tất cả học viên phía dưới mỗi người một vẻ, chỉ có Trình Mẫn Du với Bạch Ngự Lâm lúc này không có mặt ở Sở họa học, cho nên cũng không có ai phản ứng thái quá, mỗi Văn Tư Tồn là đang ngồi trong phòng học này.
Mọi người nghe thấy tên của hắn, chẳng ai bảo ai cùng liếc mắt nhìn qua, có người cực kỳ hâm mộ, có người ghen ghét đố kỵ, cũng có không ít người hưng phấn ủng hộ hắn. Tuệ An nghe chỉ còn lại tên của hai người nữa, nghĩ đương nhiên sẽ không phải là mình, lại vui vẻ hùa vào không khí náo nhiệt xung quanh. Ai ngờ nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, đã nghe Liễu viện sĩ nhỏ giọng nói tiếp:
“Hai học viên may mắn cuối cùng là Thẩm Tuệ An tiểu thư và Nhiếp Sương Sương tiểu thư.”
Tuệ An nghe vậy nhất thời mơ màng, Văn Cảnh Tâm bên cạnh phản ứng nhanh hơn nàng nhiều, cười hì hì nói:
“Chúc mừng An nương.”
Tuệ An thấy nàng vui mừng cho mình, cũng không biết chuyện xảy ra là tốt hay không tốt, chỉ cảm thán số phận của mình sau khi trọng sinh quả nhiên là quá kỳ diệu, sự việc có tỷ lệ nhỏ xíu như vậy cũng có thể rơi xuống đầu nàng. Nhưng lại nghĩ nàng đã có thể trọng sinh, thì trên đời này còn có chuyện gì là không thể đâu, chẳng biết làm gì khác đành cười trừ cho qua.
Đâu phải tất cả mọi người ở đây đều giống Văn Cảnh Tâm cao hứng thay Tuệ An, Liễu viện sĩ tuyên bố xong đã theo mấy người Lý viện sĩ ra khỏi phòng học, tiếp tục đến năm Sở khác thông báo tin tức này, mà Lưu học sĩ cũng hộ tống mấy người họ ra ngoài, lập tức học viên trong phòng học không còn gì phải cố kỵ nữa, mỗi người nhao nhao phát biểu ý kiến của mình, tranh cãi nổi ra khắp nơi. Có không ít học viên không cam lòng, còn đưa ánh mắt khinh thường nhìn về phía Tuệ An, có những vị công tử tiểu thư con nhà quyền quý, luôn cho mình giỏi giang hơn người đã không thể kiềm nén thêm, rối rít nói lời châm biếm nàng.
“Như Thẩm tiểu thư đây cũng có thể đại diện cho chúng học viên Quốc Tử Giám tham gia tỷ thí, ta thấy trận tranh tài năm nay e sẽ trở thành một vở kịch mất thôi.”
Mở miệng chê bai đầu tiên là một thiếu nữ ngồi bên trái phía trước Tuệ An, nàng vóc người yểu điệu, tướng mạo cũng vào hàng xuất sắc, khuôn mặt kiêu ngạo, đó là Hứa Yên Nhiên. Hứa Yên Nhiên này từng cùng Tam tiểu thư nhà Đại Lý tự khanh nói xấu Thẩm Thanh, đúng lúc bị Tuệ An gặp được, còn vì chuyện ấy mà động tay động chân, từ đó trở đi đã kết thành thù hận. Giờ lại nghe có cơ hội xuất đầu lộ diện tốt như vậy cũng vào tay Tuệ An, nàng há có thể không gây khó dễ?
Có nàng xung phong đi trước, các tiểu thư vốn đã tức tối trong lòng cũng đứng lên hưởng ứng.
“Đúng vậy, Lý viện sĩ đúng là may mắn, lần này Thái học sinh biết được ai là đại diện trường ta chẳng cao hứng đến chảy nước mắt ấy chứ.”
“Đúng đúng, tài nghệ của Trình Mẫn Du cũng không hơn ai, Quốc Tử Giám chúng ta chắc chỉ có thể dựa vào Văn công tử, Bạch công tử cùng Nhiếp tiểu thư thôi.”
Tuệ An thấy chúng nữ tử rối rít hùa theo lời Hứa Yên Nhiên, cũng không hề tỏ ra ngạc nhiên hay tức giận.
Là một trong năm người được chọn, Văn Tư Tồn đương nhiên không cần phải nói, còn Bạch Ngự Lâm có phụ thân đang nhậm chức Tả Thống lĩnh quân doanh Tiên phong thuộc hàng nhị phẩm, lại là quan viên thân tín của hoàng đế, tỷ tỷ của Bạch Ngự Lâm là Vương phi của Thái vương, gia thế như vậy có ai dám mở miệng mỉa mai? Còn Nhiếp Sương Sương kia là đích nữ phủ Vĩnh Ninh hầu, lai lịch không hề thua kém. Đối với những người này, Trình Mẫn Du chỉ là tiểu thư thứ xuất nhà quan viên lục phẩm cùng Thẩm Tuệ An nàng mang danh Hầu phủ, kỳ thật đã là phượng hoàng sa cơ chính là kiểu người các nàng có thể lấy ra trút cơn giận dữ.
Nếu là kiếp trước hở một cái là Tuệ An sẽ đùng đùng nổi giận, gặp chuyện không thể tỉnh táo. Nhưng đã chết một lần, tính tình của nàng cũng theo đó thay đổi rất nhiều rồi, nàng ép buộc bản thân trước khi hành động phải suy đi tính lại, ép buộc mình trở nên trầm ổn khéo léo, học cách nhẫn nại. Cũng không biết là lần trọng sinh này có ảnh hưởng quá lớn đến nàng, hay là do sự nhẫn nại trong tiềm thức tác động, nói thật nàng không tức giận tí nào, còn có cảm giác vui mừng hỉ hả thưởng thức nỗi ghen ghét của họ.
Nàng coi thường những loại người vô đạo đức này, chỉ nghĩ ba ngày sau trong trận thi đấu kỵ xạ nàng chỉ cần dốc toàn lực đoạt lấy chiến thắng là được, so với việc tranh cãi với bọn họ bây giờ, đến lúc đó không biết vẻ mặt của những người đã chê cười nàng này sẽ càng thú vị tới mức nào đây. Trải qua một đời đã hiểu được thế nào mới tốt nhất, Tuệ An không còn là cô thiếu nữ lỗ mãng động tí là vung roi đánh người nữa rồi.
Nàng không tức giận, nhưng Văn Cảnh Tâm nghe mấy lời đó lại tức đỏ cả mặt, nhịn không được đập tay lên bàn học muốn đứng lên tranh cãi giúp Tuệ An. Thấy nàng như thế, Tuệ An gấp rút nghiêng người đưa tay níu lại tay Văn Cảnh Tâm, trấn an vỗ về vài cái. Phiền phức của nàng, không lý nào lại để Văn Cảnh Tâm phải thay nàng giải quyết. Tuệ An vốn không muốn so đo với họ, nhưng cũng không nghĩ Văn Cảnh Tâm phải vì mấy chuyện không đâu này mà bực mình, thân thể nàng yếu đuối, nếu lại tức giận vì mình, thì thâm tâm Tuệ An cũng không yên. Cho nên nàng thả tay Văn Cảnh Tâm, nhìn thoáng qua chúng nữ tử trong phòng, khinh miệt nhếch môi nở nụ cười khanh khách.
Nàng vừa cười vừa ưỡn ngực nâng cằm lần lượt quét mắt qua những vị tiểu thư mỉa mai mình ban nãy, cuối cùng đặt mắt lên người Hứa Yên Nhiên, trên mặt nở nụ cười rực rỡ.
Trong phòng học vẫn có đủ loại thanh âm, chỉ thiếu duy nhất một tiếng cười, Tuệ An cười như chuông bạc ngân vang, nàng đột ngột cất tiếng, khiến cho những tiểu thư còn đang bày ra vẻ mặt khinh khỉnh coi thường nàng tức thì kinh ngạc há hốc miệng nhìn về phía qua không thốt nên lời.
Nữ tử tranh cãi đương nhiên các công tử sẽ không dính vào, cũng không quan tâm đến, Liễu viện sĩ vừa đi, các công tử trong lớp học đã đồng thời vây lấy Văn Tư Tồn bên kia, chúc mừng qua lại sau liền tụ tập nghị luận về trận tranh tài lần này. Thình lình nghe được tiếng cười réo rắt của Tuệ An, bọn họ cũng nháo nhác dừng cười nói nhìn sang phía nàng. Vừa nhìn đều cảm thấy như đã bị phong thái của nàng bắt lấy hồn, trong lòng chấn động, hai mắt sáng lên lấp lánh.
Văn Tư Tồn tuy bị mọi người vây quanh, nhưng sao không nghe thấy những lời phỉ báng của những tiểu thư kia? Hắn một mặt cười đối đáp bạn bè, một mặt vẫn chú ý đến Tuệ An. Lúc này hắn cũng theo ánh nhìn của mọi người, cả người liền run lên một cái.
Chỉ thấy Tuệ An ngồi yên tại chỗ cười đầy phóng khoáng, gương mặt trắng muốt tắm dưới ánh mặt trời, hàng lông mày nhướng cao vì vui vẻ, đôi mắt to tròn sáng rỡ vì cười mà cong lại, đáng yêu lại kiều diễm, ánh sáng trong đôi mắt đó khẽ chuyển, quả là tao nhã vô song. Nàng ngẩng đầu, cần cổ thon thả vẽ ra một đường cong duyên dáng, đầy vẻ tiêu sái lẫn cuồng ngạo, còn thêm vài phần tùy ý, cứ cười như vậy nhìn thẳng vào Hứa Yên Nhiên, tư thế cao cao tại thượng. Rõ ràng nàng còn chưa trưởng thành, nhưng chẳng biết tại sao đã có thể tỏa ra thứ khí chất diễm lệ như vậy, tựa như có ma thuật khiến cho tất cả nữ tử trong phòng trở nên biến sắc. Làm người ta nhịn không được có ý nghĩ, thiếu nữ này nếu thêm vài tuổi còn có khả năng tao nhã mê ly đến nhường nào?
Thoáng cái Tuệ An đã trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn, nàng chậm rãi thu lại vui vẻ thản nhiên đứng dậy, lịch sự đi về phía Hứa Yên Nhiên, dừng lại trước mặt nàng, nhìn chằm chằm vào Hứa Yên Nhiên.
Dựa vào sự hiểu biết của Hứa Yên Nhiên với Tuệ An, nàng cho rằng lúc này đáng ra Tuệ An phải nổi cơn thịnh nộ ra tay với nàng mới đúng, nhưng nàng lại tự nhiên bật cười sung sướng, sau đó trưng ra bộ mặt nghiêm nghị nhìn trân trối vào nàng, làm cho nàng sợ hãi một hồi, không biết Thẩm Tuệ An này muốn làm gì. Hơn nữa đột nhiên là đích ngắm của tất cả mọi người, Hứa Yên Nhiên khó mà che dấu được nét hoảng loạn hiện ra trên mặt.
Tuệ An thấy nàng đã luống cuống cả lên, không khỏi phì cười, rốt cuộc chỉ là đứa trẻ mới mười hai, còn non nớt vô cùng, ai bảo nàng không dưng động chạm tới mình.
“Hứa Yên Nhiên, Đại tiểu thư con của chính thất nhà Trung Dũng bá, ngoại tôn nữ Vĩnh Ninh bá, em dâu của Thái vương điện hạ, đường đường chính chính là một quý nữ danh môn, dung nhan mỹ miều, tài vẽ xuất chúng…Ha ha, thật không ngờ…”
Thấy Tuệ An cười lên khinh khích, trong mắt đều là coi thường cùng trêu ngươi, dáng vẻ quý phái đáp lời với mình, hoàn toàn không mang theo ác ý, trong lòng càng hoang mang hoảng hốt, không chịu nổi lớn giọng hỏi:
“Ngươi không ngờ cái gì? Rốt cuộc ngươi cười cái gì!”
Khẩu khí của nàng đã có phần nôn nóng, vừa dứt lời liền hối hận cắn chặt môi dưới.
Thấy nàng như thế, Tuệ An càng thêm tự tin, nàng nháy mắt hai cái, chậm rãi nhả ra từng chữ:
“Ta cười là vì không ngờ có một ngày Thẩm Tuệ An ta cũng có thể trở thành đối tượng khiến cho danh môn thục nữ như Hứa tiểu thư sinh lòng ganh tị cơ đấy…”
“Ngươi nói bậy!”
Hứa Yên Nhiên nghe vậy nhất thời giận dữ, khuôn mặt nhỏ bé tức tối đỏ bừng, giơ tay chỉ vào Tuệ An, thẹn quá hóa giận không thể nghe tiếp.
Tuệ An thấy tiểu nha đầu đã vô lễ tới mức này, vẫn nở nụ cười, nhướng mày nói:
“Ơ? Không phải sao? Vậy thì xin hỏi Hứa tiểu thư xuất thân cao quý, dung mạo xuất chúng, thanh danh lan rộng, hơn Thẩm Tuệ An ta mọi mặt sao cứ nhất quyết phải nhằm vào ta đây?”
Hứa Yên Nhiên căn bản không ngờ Tuệ An có thể nói những lời sắc bén như vậy, lời nói ra tràn ngập ý tứ châm chọc, làm cho nàng xấu hổ đến mức chẳng còn biết trả lời thế nào, gương mặt tinh xảo hết chuyển hồng lại xanh. Nàng ngày thường luôn được nâng niu chiều chuộng đã thành thói quen, xưa này chưa từng gặp chuyện mất mặt nhường này, hiện giờ bị hỏi đến á khẩu không nói được gì, vừa thẹn vừa giận đỏ cả mắt, chỉ biết ghim chặt ánh nhìn lên người Tuệ An.
Tuệ An thấy nàng như thế, lại ra vẻ kinh ngạc nói:
“Ôi, sao Hứa tiểu thư lại khóc cơ chứ, ta có nói gì cô đâu.”
Văn Tư Tồn thấy Tuệ An dùng cách thức như đùa cợt một đứa trẻ mà nói với Hứa Yên Nhiên, nhịn không được bật cười một tiếng. Trong phòng học đang cực kỳ yên tĩnh, hắn vừa cười một cái chẳng khác nào thêm dầu vào lửa, tức thì nước mắt của Hứa Yên Nhiên rào rào rơi xuống.
Thấy Tuệ An nhìn sang, Văn Tư Tồn hơi xấu hổ sờ sờ mũi, hắn khẽ hắng giọng, cười nói:
“Được rồi, theo ta thấy nhất định là Hứa tiểu thư lo lắng quá mức cho thành tích của Quốc Tử Giám ta lần này mà thôi, nên mới nói nhầm vài câu, tuyệt đối không có ý nhằm vào Thẩm muội muội. Thật ra Hứa tiểu thư cũng không cần lo lắng, mặc dù Thẩm muội muội không tinh thông cầm kỳ thư họa, nhưng tài kỵ xạ lại thuộc hàng thượng thừa, ngay cả ta còn phải cúi đầu xưng thần cơ mà. Chí ít hạng nhất trong cuộc thi đấu kỵ xạ lần này Quốc Tử Giám ta nắm chắc rồi.”
“Nhị ca nói đúng lắm, An nương chắc chắn sẽ vì Quốc Tử Giám mà thắng được hạng nhất môn kỵ xạ, ta tin tưởng An nương.”
Văn Cảnh Tâm cũng cười đứng dậy, chạy tới ôm lấy tay Tuệ An.
“Tài xạ kỵ của Thẩm tiểu thư tại hạ cũng cam bái hạ phong, tin là có Thẩm tiểu thư làm đại diện, hạng nhất kỵ xạ có muốn trốn cũng không được.’
Vừa nói là công tử của nhà Lễ bộ Thượng thư Dương Hiểu Trịnh, Dương Minh Tuyên, hắn là biểu ca của Thủy Khinh Nhi. Lần đó hai người Thu Nhi ở Thường Âm lâu có ân cứu mạng với Thủy phu nhân và Thủy Khinh Nhi, Dương Minh Tuyên nói đỡ cho nàng cũng không hề khó hiểu, Tuệ An cũng trả lại hắn một ánh mắt cảm kích.
Có người nói giúp Tuệ An, lập tức tình thế xoay chuyển hẳn, mọi người nhốn nháo phụ họa theo, mà những người mỉa mai Tuệ An ban nãy thấy Hứa Yên Nhiên không mở miệng cũng lén lút cúi thấp đầu, đồng loạt giả câm giả điếc. Nhìn tình cảnh bỗng dưng biến thành thế này, Tuệ An lại âm thầm thấp thỏm, vừa rồi cho dù nàng có thua trong cuộc tỷ thí kỵ xạ thật thì cũng chẳng sao, nhưng bây giờ đã như vậy, cuộc thi ba ngày sau nàng tuyệt đối không được bại trận.
Mọi người lại bàn luận một hồi, Tuệ An thấy đã không còn liên quan đến mình nữa, liền kéo tay Văn Cảnh Tâm bước về chỗ ngồi. Văn Cảnh Tâm gặp Hứa Yên Nhiên vẫn trừng đôi mắt đỏ bừng nhìn Tuệ An, khẽ nhíu mày, nói:
“Lúc trước còn cho rằng nàng là người hiểu chuyện, hôm nay mới biết đúng là người thiển cận.”
Tuệ An nghe vậy cũng nhìn Hứa Yên Nhiên, thở dài một hơi, trên mặt lộ vẻ khổ sở. Hứa Yên Nhiên hiểu chuyện cũng được, thiển cận cũng được, tóm lại chừng nào còn phủ Trung Dũng bá, nàng vẫn có thể sống theo cái cách của nàng, suy cho cùng nàng ấy còn hạnh phúc hơn khối người là đằng khác. Kiếp trước nàng có mẫu thân chiều chuộng, không phải cuối cùng cũng trở thành một người như vậy sao? Thậm chí nàng còn hâm mộ Hứa Yên Nhiên là đằng khác, ước gì nàng có thể vĩnh viễn giống nàng ấy thì tốt.