Nhi Nữ Hầu Môn

Chương 65: Chương 65: Ánh mắt Quan Nguyên Hạc quá cao




Tỷ thí cầm học, từ khi rút thăm do Cố Dư Hinh và Tuệ An tỷ thí, cả giám khảo và các tiên sinh Thái Học viện lẫn Quốc Tử Giám đều cảm thấy Quốc Tử Giám phải thua là chuyện không thể nghi ngờ. Tỷ thí buổi sáng Quốc Tử Giám chỉ thắng được một môn, Lý viện sĩ của Thái Học viện đã âm thầm hí hửng cho kết quả cuộc thi lần này, buổi chiều tỷ thí thư pháp tất nhiên là Quốc Tử Giám sẽ thắng, nhưng đánh đàn thì còn cần phải lo nữa không?

Kể cả bên giám khảo cũng chỉ coi trận tỷ thí buổi chiều là có lệ thôi, vốn dĩ là cuộc ganh đua giữa hai trường, giờ lại trở thành sàn diễn cho một mình Lý viện sĩ phô trương thanh thế. Cho nên buổi chiều các viện sĩ, tiên sinh đến học viên Quốc Tử Giám đều có phần mệt mỏi ỉu xìu, không có tí nào tinh thần như lúc bắt đầu nữa.

Quả nhiên trận tỷ thí thư pháp diễn ra đầu tiên, Nhiếp Sương Sương của Quốc Tử Giám dễ dàng thắng Hoa tiểu thư bên Thái Học viện, tiếp đó là vào trận tỷ thí cầm học. Tỷ thí còn chưa bắt đầu, Lý viện sĩ đã hớn hở vuốt chòm râu ngắn cũn cười nói với Liễu viện sĩ:

“Ha ha, cuối cùng cũng đợi đến trận này, lão phu ngồi cả một ngày, thật sự là đau lưng mỏi cổ quá, chuẩn bị kết thúc thôi nào. Vi huynh có muốn cùng lão phu đến Tiên Hạc lâu uống chén trà nhạt hay không?”

Liễu viện sĩ nhìn Lý viện sĩ râu vểnh lên tận trời, dáng vẻ dương dương tự đắc, thì tức tới nỗi khói bốc lên tận đỉnh đầu, tức tối hừ lạnh một tiếng, quay phắt đầu đi. Vừa quay đầu lại thấy Tuệ An và Cố Dư Hinh đang cúi người hành lễ, tự ngồi vào chỗ của mình. Ông thấy Tuệ An cử chỉ thong dong ưu nhã, lễ nghi chu toàn, không khỏi thở dài một hơi, thầm nhủ: thôi, được thế là không tồi rồi, ít nhất cũng không khiến Quốc Tử Giám mất hết mặt mũi, có trách chỉ trách cái lão cáo già kia, trận tỷ thí sang năm, hừ…

Ai ngờ Thuần vương nghe được lời Lý viện sĩ nói, bỗng nhiên cười lên ha hả, nói:

“Hôm nay bản vương còn nghe được một chuyện vô cùng hay ho đây, nghe nói chúng học viên hai trường lén lút mở sòng cá cược cho trận buổi chiều. Nhắc tới chuyện này, thư pháp và cầm học ai cũng đoán được kết quả cả, vậy mà họ không mở sòng cá môn thư pháp, lại cá cho cầm học, nghe nói có người lấy ra hơn tám nghìn lượng bạc trắng đánh cược, nhưng lại cược cho Quốc Tử Giám thắng. Chúng học viên nghe được chuyện này, đua nhau ùa lên, đều muốn vơ vét tám nghìn lượng bạc vào tay. Chưa qua hai khắc tỷ lệ cá cược đã từ một ăn bốn lên thành một ăn chín. Chậc chậc, không phải là bản vương khen ông đâu, Liễu viện sĩ, nhưng Quốc tử sinh đúng là rất đoàn kết. Phần tình nghĩa bảo vệ danh dự của Quốc Tử Giám này, đáng ra ông phải khen ngợi chúng học viên vài câu mới phải, bất quá nói đi cũng phải nói lại, người bỏ tiền đặt cược và Thẩm tiểu thư chắc phải có giao tình sâu đậm lắm.”

Giọng nói của Thuần vương còn hàm chứa ý mỉa mai, không nói người đặt cược là kẻ ngốc, chỉ nói hắn bỏ ra một đống tiền, hành vi tiêu hoang lãng phí, chứng tỏ phong cách giảng dạy của Quốc Tử Giám chưa đến nơi đến chốn. Những kẻ phá gia chi tử nhường này, đốt tiền còn chưa đủ thì nói gì đến chuyện đoàn kết vì Quốc Tử Giám, hơn nữa câu nói cuối cùng, nghe sao cũng thấy không đúng.

Thuần vương vừa dứt lời, liền làm cho Liễu viện sĩ xấu hổ cúi gằm khuôn mặt già nua, muốn đáp cũng không được, không đáp lại càng chẳng xong. Ông mím chặt môi, chòm râu cũng trở nên run rẩy.

Lý viện sĩ là phụ thân Lý Tiệp dư, cũng chính là mẹ ruột Bình vương, tuy không thể nói Thái Học viện là thiên hạ của Bình vương, nhưng đối với Thuần vương cũng là cái gai trong mắt cái kim trong thịt, vậy mà hôm nay Liễu viện sĩ lại bị Lý viện sĩ xoay như chong chóng, cứ thế nhẹ nhàng mang danh hiệu thiên hạ đệ nhất học phủ tặng cho người khác, Thuần vương làm sao có thể không tức giận, nhìn thấy ông đỏ bừng mặt cúi đầu không đáp, chỉ thầm mắng trong lòng, đúng là mọt sách chết ngốc!

Lý Vân Sưởng ngồi cạnh Thuần vương, nghe vậy nhìn về phía Tuệ An trên đài, thấy nàng trầm tĩnh ngồi đó, khí chất nhã nhặn thanh cao, dáng người nhỏ nhắn, lại lộ ra một vẻ tịch mịch khó có được. Chợt nhớ tới ở phòng học lúc nãy, hắn dùng tay bắt lấy cằm nàng, ánh mắt Tuệ An như bùng lên ngọn lửa nho nhỏ trừng nhìn hắn, tay phải đang đặt trên mặt vô thức gõ gõ vài cái, nhếch môi cười nói:

“Nhị ca nói không sai, cùng trường mà dốc sức tin tưởng nhau như thế, biết đâu vị Thẩm tiểu thư này lại có tài năng đặc biệt gì thì sao.”

Đối với Thất hoàng đệ này, Thuần vương tự nhận có thể hiểu được tám phần, ngày thường là người ôn hòa tao nhã, nhưng cũng không phải là kẻ có lòng tốt mở miệng giải vây cho người. Nghe Lý Vân Sưởng nói thế, Thuần vương ngạc nhiên không thôi, vì vậy liền liếc nhìn khuôn mặt tuấn tú của Lý Vân Sưởng, ghé sát vào hắn thấp giọng cười đùa:

“Sao thế? Thất đệ vừa mắt vị Thẩm tiểu thư này rồi ư? Hay để vi huynh đến chỗ phụ hoàng xin một đạo thánh chỉ, ban nàng làm trắc phi cho đệ, được không? Bản vương thấy Thẩm tiểu thư này tương lai nhất định cũng là một đại mỹ nhân đấy, chắc không làm Thất đệ phải chịu thiệt đâu.”

Lý Vân Sưởng nghe vậy trong lòng không vui, nét khinh bỉ thoáng hiện lên sau hàng mi đen tuyền. Nhưng trên mặt lại chỉ cười một tiếng, nói:

“Chính phi của đệ còn chưa vào cửa, trắc phi gì chứ? Nếu như sau này khiến cho đích thứ lẫn lộn, không ra thể thống gì không phải sẽ đi ngược lại ý tốt của Nhị ca sao? Còn nữa, bản vương và Thẩm tiểu thư chẳng qua chỉ gặp qua hai lần, nói đùa cũng phải xem nặng nhẹ, kính xin Nhị ca ăn nói cẩn thận.”

Thuần vương nghe hắn nói đích thứ khác biệt, nhất thời không biết là hắn có ám chỉ chuyện khác không, lại nghĩ nếu không phải mẫu hậu mất sớm, chỉ sợ hắn đã trở thành Hoàng thái tử từ lâu. Lập tức tâm phiền ý loạn, cũng đem chuyện của Tuệ An quên không còn một mảnh.

Quan Nguyên Hạc ở bên nghe không sót một câu hai người nói chuyện, trầm ngâm nhướng mày nhìn Lý Vân Sưởng một cái.

Đúng lúc này, phía dưới vang lên tiếng đàn của Cố Dư Hinh, ‘ting’ một tiếng cắt đứt suy nghĩ mọi người.

Không thể nghi ngờ tài đàn của Cố Dư Hinh đúng là thiên hạ vô song, kỹ thuật hoa lệ lại trôi chảy, nhưng vào tai Quan Nguyên Hạc lại khiến y khẽ nhíu đôi mày, bỗng dưng nhớ tới sự việc của nhiều năm về trước.

Lúc ấy phía Nam Đại Huy vẫn chưa còn bình định, có vài thế lực phiên bang dựa vào địa hình hiểm trở của nó mà mang quân gây chiến, một trong số đó là cánh quân của cháu trai Mã Quốc công tiền triều, Mã Nghĩa, hắn tụ tập dư đảng tiền triều thành lập Hạ quốc quân.

Mã Nghĩa kia cũng có thể xem như là đấng anh hào, cho dù Đại Huy đã dần dần nhất thống thiên hạ, nhưng hắn vẫn chiếm đóng Quảng thành không một kẽ hở, khiến cho quân đội Đại Huy phái ra vây công ngoài thành ròng rã mấy tháng cũng không cách nào quy phục được hắn. Năm đó Giang Nam lâm vào hạn hán, thóc lúa khan hiếm vô cùng, quân lương cũng theo đó cắt giảm đủ bề, triều đình không thể tiếp tế kịp thời, cho nên trên triều tranh cãi kịch liệt, Hoàng thượng cũng đã dự định rút quân trở lại.

Khi đó y mới tòng quân không lâu, tuổi trẻ khí thịnh, mỗi lần ra quân đều xung phong dẫn đầu chém giết nơi sa trường, lòng dạ cũng không trầm ổn quyết đoán như bây giờ, nghe nói sắp có lệnh rút quân, nhất thời liền nghĩ tới những huynh đệ vì công thành mà bỏ mạng mấy tháng nay, sao chịu lui quân bấy giờ, để cho bọn họ hi sinh vô ích, cho nên mới nổi lòng ám sát.

Y kéo theo vài vị huynh đệ chí cốt trong quân, kiếm thêm mấy bộ áo giáp của địch, làm ra tình huống bị quân địch bắt được áp giải vào thành. Không biết có phải là may mắn hay không, cuối cùng bọn họ cũng tìm được cơ, hội, giết chết Mã Nghĩa. Quảng thành nhất thời lâm vào đại loạn, mà Thống soái quân đội Đại Huy khi đó lại đúng là Vĩnh Ninh hầu Nhiếp Diên, ông kịp thời phát hiện trong thành có biến, ngay lập tức phát động tiến công, quả nhiên là công phá được thành trì, mà nhờ vậy y và mấy người huynh đệ mới có thể thoát khỏi hiểm cảnh.

Tuy nói trận chiến ấy có công lao của bọn họ, nhưng vẫn không thoát nổi quân quy nghiêm ngặt, mỗi người bị phạt bốn mươi quân trượng. Bởi vì Quảng thành và Tương Dương cách nhau không xa, An Viễn hầu nghe được chuyện này, liền xin cấp trên cho y tới phủ dưỡng thương vài ngày.

Hôm đó y được người hầu đỡ ra ngoài đi dạo xung quanh, tình cờ gặp Cố Dư Nhuế đang ngồi tập đàn trong sân, nàng hỏi y về chuyện trên sa trường, nói muốn cảm nhận không khí chiến tranh loạn lạc, cũng xin y cho lời đánh giá tiếng đàn của nàng, khúc đàn chính là ‘Quan ải đêm mưa’.

Lúc ấy Cố Dư Hinh vẫn là một cô bé chưa cao đến thắt lưng y, nàng ngồi nghe tỷ tỷ đánh đàn, còn ngước khuôn mặt nhỏ nhắn mập mạp, cất giọng non nớt hỏi y:

“Đại ca ca, sau này Hinh Nhi lớn lên cũng muốn đàn ra khúc nhạc dễ nghe như tỷ tỷ, Đại ca ca cũng ngồi nghe Hinh Nhi đàn có được không?”

Trả lời thế nào bây giờ y cũng không nhớ nữa, ai ngờ hôm nay nhoáng một cái, cô bé con ngày xưa đã trưởng thành một đại cô nương rồi.

Lần này từ biên quan trở về, thân thể tổ mẫu lại thấy không khỏe. Mỗi lần y đến phòng bà thỉnh an, bà cũng sẽ không bỏ qua cơ hội càu nhàu chuyện y phải sớm ngày thành gia lập thất, ngẫm lại mình đúng là đã phiêu bạt nhiều năm, giờ Đông Khương cũng bình định, những gì nên làm thì phải làm thôi, dù sao cũng không thể để trưởng bối lo lắng.

Nhưng mà nếu nghị hôn, thì phải tìm người nào vừa mắt mới được, quý nữ trong kinh đa số mảnh mai yếu ớt, động tí là khóc lóc sướt mướt, y không thích. Người ta nói anh hùng khó qua ải mỹ nhân, mặc dù y không ham mê nữ sắc, nhưng cũng không muốn lấy một người cả ngày quấn quýt phu quân, bào mòn ý chí chiến đấu của nam tử, rồi thì người động một chút là nổi nóng gây chuyện, muốn phu quân che chở sủng ái từng giây từng phút cũng không được, người hay nghĩ ngợi lung tung, đa sầu đa cảm lại càng không nên, còn có người quen thói gây sóng tạo gió, tâm tư xảo trá, nhỏ nhen tham lợi… Tất cả y đều chán ghét.

Y không có đủ nhẫn nại để quan tâm nữ nhân, cũng không muốn lãng phí thời gian nơi hậu viện, cho nên tốt nhất phải là một người thông minh hiểu biết, không có phu quân chăm sóc cũng có thể bảo vệ bản thân, lòng dạ hẹp hòi một chút cũng không sao, mà đanh đá lanh lợi có khi càng không tệ…

Quan Nguyên Hạc nghĩ đi nghĩ lại, chẳng biết tại sao lại vô thức hướng ánh mắt về phía Tuệ An, thấy nàng lặng lẽ ngồi trên chỗ của mình, trầm tĩnh không biết đang suy nghĩ chuyện gì. Dáng vẻ nàng dường như hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi tình hình bên ngoài, trong mắt y xẹt qua một tia tán thưởng.

Lúc này đây, tiếng đàn của Cố Dư Hinh cũng dần dần chậm lại, Lý viện sĩ kích động cười lên ha hả:

“Đúng là học trò của Chu lão tiên sinh có khác, kỹ thuật lưu loát thành thạo, trò giỏi hơn thầy, xanh đậm hơn lam*. Không tệ, không tệ.”

*Một câu có ý khen ngợi, xanh và lam cùng bắt nguồn từ một màu nhưng cái có sau đậm hơn cái có trước.

Liễu viện sĩ nghe vậy thiếu điều không lật bàn mắng ông già kia một câu, đúng là đồ khoe mẽ, mèo khen mèo dài đuôi.

Chu lão tiên sinh nghe vậy chỉ lắc lắc đầu, không đáp lời ông. Mà Thuần vương thấy Tuệ An ngẩn người tại chỗ, bị nha hoàn kéo một cái mới giật mình đứng dậy, không khỏi vỗ bàn cười thành tiếng, nói:

“Không phải là nha đầu kia ngủ quên rồi chứ, được rồi, ta thấy cũng chẳng có gì hay để xem nữa. Thất đệ, hôm nay đệ có định đi thăm Tứ đệ không? Giờ sắc trời vẫn còn sớm, hay là cùng bản vương đến Vĩnh Ninh cung nhìn qua Tứ đệ đi.”

Ai ngờ hắn vừa dứt lời, giữa quảng trường liền vang lên một tiếng đàn uyển chuyển mượt mà. Hắn kinh ngạc quay đầu đã thấy Tuệ An đang nâng lên tay áo, động tác khi chạm vào dây đàn vô cùng đẹp mắt, Thuần vương há hốc miệng, lắp bắp nói:

“A, là ai vừa nói với bản vương… Thẩm tiểu thư học ở lớp cầm học đã một năm có lẻ, nhưng ngay cả âm nào ở đâu cũng không biết?”

Lời này của hắn không có ai đáp lại, các tiên sinh của Thái Học viện và Quốc Tử Giám đều chung một biểu cảm ý hết hắn. Cho dù đa mưu túc trí như Lý viện sĩ cũng chỉ kém không móc hai con mắt ra để nhìn thấy rõ hơn, nụ cười treo trên mặt cả ngày trời đã trở nên cứng đờ.

Ma Lý Vân Sưởng thì nhìn Tuệ An khẽ cong môi một cái, ánh mắt chăm chú sáng ngời, còn Quan Nguyên Hạc lại không có phản ứng gì đặc biệt. Bởi vì y là người luyện võ nên vốn có tầm nhìn rất tốt, thấy nàng trước còn bình tĩnh, đàn lên một hồi lại bỗng nhiên đỏ bừng khóe mắt, lệ rơi cuồn cuộn, chỉ cảm thấy khúc nhạc này quá mức bi thương, y không thích.

Y là người không hiểu nhạc lý, đối với cầm học cũng không học hỏi là bao, cho nên nghe tiếng đàn thê lương này thì rất khó chịu. Khẽ nhíu mày, thu hồi ánh mắt, không thể hiện ra bất cứ xúc cảm nào.

Vô thức lại nhớ tới cái ngày mẫu thân mang y đi thăm mộ Đại ca, vừa đốt vàng mã cho huynh ấy, mẫu thân vừa len lén nhìn trời rơi lệ. Khi đó không biết phụ thân đang ở nơi nào, y từng hỏi mẫu thân, vì sao phụ thân không đến thăm Đại ca, Đại ca chắc chắn nhớ phụ thân lắm, thế nhưng mẫu thân lại nói với y, phụ thân là người làm đại sự, Đại ca sẽ hiểu cho phụ thân.

Mải nhớ đến những chuyện này, lúc hoàn hồn lại đã thấy trên khuôn mặt xinh đẹp của Tuệ An không biết thấm đẫm nước mắt tự khi nào, từng hạt từng hạt trong suốt như ngọc đọng trên chiếc cằm nhỏ nhắn, cuối cùng nặng nề rơi xuống dây đàn bắn lên không trung, trên gương mặt nàng đong đầy sự thương tiếc mà y chưa bao giờ nhìn thấy, trong lòng thầm nghĩ: cô nhóc tinh quái này, cũng không phải giả vờ.

Trong lòng Lý Vân Sưởng lại có chút sôi trào khó hiểu, hắn nghĩ đến lần đầu tiên gặp nhau, Tuệ An vội vàng ra tay giúp đỡ, nhớ tới lần gặp thứ hai ở phủ Uy Viễn hầu,, Tuệ An cố ý tránh né, cùng vẻ quẫn bách mất kiềm chế của nàng khi bị mình bắt gặp, còn có sự xa cách trong Quan phủ, cố giữ khoảng cách khi cùng xe ngựa hôm đó, khuôn mặt cứng đờ tức giận trong phòng học ban nãy, cuối cùng cảm xúc bi thương lúc này, trong lòng càng thêm buồn bực không hiểu. Nha đầu này thích mình, Lý Vân Sưởng có thể khẳng định điều đó, mặc dù hắn không phải cao thủ tình trường hay quý công tử phong hoa tuyết nguyệt. Nhưng từ nhỏ lớn lên trong cung, sao có thể không biết phong tình là gì, tâm tư của tiểu nha đầu này cho dù giấu giếm giỏi đến đâu, nhưng vẫn rất non trẻ, mỗi lần nàng nhìn thấy hắn lại là một cảm xúc khác nhau, hắn có muốn không nhận ra cũng không được.

Tầm tuổi như Tuệ An, động lòng với nam tử không phải là chuyện lạ, chỉ là nàng luôn trốn tránh hắn khắp nơi, nhìn qua không phải muốn dùng kế lạt mềm buộc chặt. Điều này đúng là khó đoán, nếu nàng là giả bộ, vậy thì hắn sẽ phải nhìn nàng với cặp mắt khác rồi. Mà trên người nha đầu này hình như còn cất giấu không ít bí mật, lời đồn nói nàng cầm học ngu dốt, lỗ mãng nóng nảy. Nay xem cũng không dễ dàng giải thích như vậy, nếu nói nàng che giấu tài năng, thì tại sao nàng phải làm thế? Hiện giờ chưa rõ cũng chẳng sao, về lâu về dài còn rất nhiều cơ hội, nếu tiểu nha đầu này đã muốn chơi, hắn sẽ hết mình tiếp đãi, chắc chắn có một ngày sẽ rõ nguyên do. Còn nữa, chơi trò trốn tìm với tiểu nha đầu này không hề nhàm chán tí nào.

“Ha ha, đàn hay! Có tình có cảnh, khiến lòng người rung động, Lý huynh cảm thấy thế nào?”

Đột nhiên Liễu viện sĩ hét lớn một tiếng, phá vỡ bầu không khí quỷ dị yên tĩnh trong lầu.

Ông thấy Lý viện sĩ tối sầm cả mặt, lại càng vui mừng, rung đùi cất giọng cười sang sảng, đã đắc ý đến nỗi không thể kiềm chế. Thuần vương nghe thấy tiếng cười của ông, liếc nhìn khuôn mặt đen xì của Lý viện sĩ, nhếch môi cười nói:

“Quốc Tử Giám đúng là không hổ cái danh thiên hạ đệ nhất học phủ, quả nhiên ngọa hổ tàng long.”

Tỷ thí cầm học không giống với tỷ thí họa học, có chúng học viên hai trường làm chứng, một khúc nhạc hay là khúc có thể khiến người người cùng chung cảm xúc, làm cho mọi người hòa theo tiếng đàn mới là thượng thừa. Hôm nay chỉ nhìn phản ứng của mọi người trên quảng trường liền có thể biết được, trận tỷ thí này Quốc Tử Giám tung ra một đòn chí tử như thế, Liễu viện sĩ có thể không cao hứng được sao? Ông nghe Thuần vương nói vậy, càng thêm thích chí, vỗ vỗ vai Lý viện sĩ, cười nói:

“Lão đệ, lát nữa kết thúc tỷ thí chớ vội đi. Ta mở một bàn tiệc ở Tiên Hạc lâu, hai chúng ta uống ly rượu thì thế nào?”

Tuệ An đánh xong âm cuối, cũng là lúc Liễu viện sĩ cười híp mắt lại. Ông đoán chừng trận tỷ thí này năm vị giám khảo ắt sẽ phán cho Quốc Tử Giám thắng. Về phía Lý viện sĩ đương nhiên là cam lòng, ông vẫn nhen nhóm một tia hi vọng, dù sao nói đến cầm học Cố Dư Hinh hơn Tuệ An nhiều lắm. Hơn nữa thầy giáo của Cố tiểu thư còn đang ngồi sờ sờ ở đây kia mà. Ai ngờ bên này ông ấp ủ hy vọng nhỏ nhoi, bên kia Chu lão tiên sinh cũng mở miệng đánh giá:

“Vị nữ học viên này quả thật không tệ, kỹ thuật thuần thục, lại bắt được hồn đàn, là một hạt giống tốt.

Vừa rồi Cố Dư Hinh đàn xong, ông không nói lấy một câu, nay lại mở miệng nói thế khác nào phán luôn phần thắng thuộc về Tuệ An. Ông dứt lời, Lý Vân Sưởng cũng hùa theo:

“Chu lão tiên sinh đức cao vọng trọng, bản vương bội phục.”

“Ha ha, nếu Chu lão tiên sinh và Thất đệ đều nói Quốc Tử Giám thắng, vậy thì người không hiểu cầm học như bản vương, tất nhiên không thể trái lời, không thể trái lời…”

Không may đúng vào lúc này, Cố Dư Hinh ở dưới khán đài nhưng lại tự nguyện nhận thua, hướng bên này hành lễ một cái, xoay người rời đi.

Cử chỉ của Cố Dư Hinh rất đột ngột, khiến cho quảng trường vốn ồn ào trở nên tĩnh lặng, tiếp đó là xôn xao bàn tán, có người nói nàng xấu hổ nên mới rời đi, là phong phạm của con cháu thế gia trăm năm. Cũng có người nói nàng cảm động bởi khúc nhạc của Tuệ An, bằng lòng nhận thua, nhường Tuệ An chiến thắng, đủ mọi ý kiến.

Phản ứng của những người ngồi trên khán đài cũng không đồng nhất, chỉ có Chu lão tiên sinh vẫn trầm mặc từ lúc Cố Dư Hinh lên đài biểu diễn, lúc này mới gật gù hòa nhã hơn.

Tuệ An đứng dưới đài ngơ ngác nhìn theo bóng lưng Cố Dư Hinh, chẳng biết tại sao trong lòng không thể vui vẻ khi là người thắng cuộc. Cố Dư Hinh làm vậy rõ ràng là nhường chiến thắng này cho nàng, mà hôm nay nàng có thắng, cũng là không chính thức, nếu bị người có tâm đặt điều lại càng khó lòng giải thích ngọn nguồn.

Nhưng mà hôm nay có thể biểu hiện như vậy, Tuệ An cho rằng mình thắng không phải nhờ người nhường lại, giờ bỗng nhiên cảm thấy có chút hốt hoảng, nàng tự biết mình có luyện đàn thêm một vạn năm nữa cũng không hơn được Cố Dư Hinh, chỉ thầm than sau khi sống lại vận mệnh thay đổi tốt quá, cũng không nghĩ nhiều. Huống chi Cố tiểu thư người ta mang vẻ mặt chân thành tha thiết, thái độ khiêm nhường đến thế, chắc không thể có ý gì xấu đâu. Nàng không nên vì bị mẹ con Đỗ Mỹ Kha cắn một cái, gặp ai cũng trông gà hóa cuốc, như vậy không hay tí nào.

Tuệ An nghĩ thế không khỏi cong môi mỉm cười, nghiêng đầu nhìn về phía khán đài. Kiếp trước nàng, và cả mẫu thân nàng đều bị gán cái tiếng lỗ mãng mà sống qua ngày, cái loại đồn đại ấy như một chiếc màn vô hình, không lúc nào là không cuốn chặt lấy nàng. Cho dù nàng luôn miệng nói không thèm để tâm, nhưng chỉ có trong lòng mình là hiểu rõ nhất, sự sỉ nhục của người khác, nét khinh thường cùng ánh mắt kiêu ngạo của bọn họ, khiến nàng tự ti vô cùng. Cũng chính vì sự tự ti hình thành từ lúc nào không hay này, làm cho nàng phải dùng vũ lực che giấu bản thân, lấy móng vuốt bén nhọn tự bảo vệ mình.

Hôm nay thật sự nàng rất vui vẻ, ít nhất từ sau nàng hôm nay, sẽ không có người dám chỉ vào mặt mắng nàng lỗ mãng nữa, bởi vì giờ đây nàng đã được công nhận.

“Tỷ thí cầm học, bên thắng ______ Quốc Tử Giám.”

Lời vừa nói ra, phía dưới liền nổ tung, kết quả này quá mức ngoài dự liệu của mọi người, chúng học viên Quốc Tử Giám vốn tưởng rằng đã thua chắc cuộc tỷ thí rồi, cả ngày hôm nay bọn họ phải nhìn Thái học sinh trưng lên khuôn mặt dương dương tự đắc. Những vị công tử tiểu thư cao quý này lý nào không tức tối cho được, giờ vinh quang đột nhiên bay tới, tức thì trở nên quý giá cực kỳ, ai nấy thi nhau hoan hô ầm ĩ, ngẩng đầu ưỡn ngực vênh váo hơn hẳn.

Mà trên khán đài Văn Cảnh Tâm mặc dù cảm thấy Tuệ An có gì đó rất khác thường, nhưng trong lòng vẫn vui vẻ không thôi, đang kéo tay Nhiếp Sương Sương vừa cười vừa khóc.

Nhiếp Sương Sương thấy nàng vui mừng thành như vậy, cười hì hì đưa tay véo lên má nàng, chỉ vào Tuệ An mà nói:

“Xem muội kìa, người không biết có khi còn tưởng muội mới là người thi đấu đấy. Đi thôi, chúng ta qua đó chúc mừng nữ anh hùng của Quốc Tử Giám nào.”

Đoàn người cười nói bước xuống bậc thang, khi đi qua mấy người Hứa Yên Nhiên, Tạ Vân Chi còn cố ý đi chậm lại, giả vờ quay qua Lưu tiểu thư bên cạnh bàn tán:

“Thật không ngờ tài đàn của Thẩm muội muội lại kỳ diệu đến vậy, so với những kẻ ngày thường chỉ biết mở miệng khoe khoang, tự cho mình là giỏi giang thì hơn không biết bao nhiêu lần nữa.”

Trên khán đài, Liễu viện sĩ mặt mày hớn hở bước lên đọc kết quả của trận tỷ thí hôm nay, lại không có bao nhiêu người chịu đứng yên nghe ông nói. Ông cũng chẳng để ý chuyện đó, nói xong liền đắc chí đưa mấy vị giám khảo xuống lầu.

Bên kia Tuệ An đang cùng mấy người Văn Cảnh Tâm hàn huyên vài câu, Văn Cảnh Tâm tò mò hỏi Tuệ An học đàn từ lúc nào, Tuệ An sao dám nói thật cho nàng biết. Chỉ có thể trợn mắt nói dối, nói để đối phó với cuộc kiểm tra đánh giá cuối năm, sợ đàn không hay sẽ bị mọi người chê cười, nên lúc ở nhà đã luyện tập mất mấy tháng trời.

Đúng lúc đó đoàn người Quan Nguyên Hạc cũng từ trên lầu đi xuống. Tuệ An vừa quay đầu lại thì chạm phải ánh mắt y nhìn sang, vội vàng gật đầu cười một tiếng. Thấy khuôn mặt nhỏ nhắn trắng nõn, lúc này vẫn còn có thể nhìn ra vệt nước mắt đọng trên đôi má, nhưng nụ cười kia lại sáng ngời một mảnh, hai mắt long lanh ngấn nước, Quan Nguyên Hạc làm một động tác rất hiếm khi bắt gặp nơi y, y cong môi cười.

Thế này cũng dọa Tuệ An quá, nàng nhất thời đông cứng, trợn tròn hai mắt nhìn y, vừa vặn lúc này, Chu lão tiên sinh vẫy tay với Tuệ An, nói:

“Hai trò đến đây.”

Tuệ An thấy ông ra hiệu cho mình đi tới, nhưng không xác định được có phải gọi mình hay không, đang ngẩn ngơ, sau lưng lại truyền tới một giọng nữ mềm mại:

“Thẩm tiểu thư, tiên sinh đang gọi chúng ta kìa.”

Tuệ An quay đầu thấy Cố Dư Hinh không biết đứng sau lưng mình từ lúc nào, đang trêu ghẹo nhìn nàng, Tuệ An ngượng ngùng sờ mũi, cùng nàng đi tới trước mặt Chu lão tiên sinh. Lúc cúi đầu vẫn nghĩ ngợi quẩn quanh, nàng biết ngay mà, làm gì có chuyện, Quan mặt băng lại cười với nàng, thì ra là nàng tự mình đa tình, người ta rõ ràng là cười với Cố tiểu thư đấy.

Hai người đứng trước Chu lão tiên sinh, đã thấy ông nói với Cố Dư Hinh đầu tiên:

“Xưa nay vi sư dạy con thế nào, cầm học coi trọng tình cảm, nếu lúc đàn con có thể nắm bắt được cảm xúc của khúc nhạc, đàn theo tình cảm trong đó, thì kỹ thuật cũng chỉ là thứ phụ trợ mà thôi, đây chính là ý cảnh vi sư đã nói bao lần. Nhưng con hôm nay, chỉ một lòng triển khai kỹ thuật hoa lệ, chăm chăm lấy lòng mọi người, đàn ra không khác gì những khúc nhạc hạ đẳng khác!”

Lời ông nói vô cùng nặng nề, Cố Dư Hinh nghe vậy lại không hề tỏ ra ương bướng không phục, thái độ luôn khiêm tốn có mực, xấu hổ thi lễ, nói:

“Học trò biết sai.”

Thấy vậy, Chu lão tiên sinh mới gật nhẹ đầu nhìn sang Tuệ An, hiền hòa nói:

“Tiểu cô nương có nhận thức với cầm học rất tốt, cảm xúc lúc đàn cũng không tệ, rất nhiều người luyện đàn cả đời, nhưng vì không có thiên phú, nên không cách nào chạm được tới hồn đàn. Chỉ là kỹ thuật của tiểu cô nương còn chưa tốt lắm, nếu có thể học tập rèn luyện thêm chắc chắn sẽ hay hơn, tiểu cô nương có muốn đi theo lão phu học tập cầm học hay không?”

Tuệ An nghe vậy có chút sững sờ, kiếp trước nàng cũng nghe qua danh tiếng của Chu Kỉ Văn, biết lão giả này là một người thanh cao ngạo nghễ, rất ít khi mở miệng khen người, cũng hiếm lắm mới thu một đồ đệ. Uy Viễn hầu phu nhân từng cầu xin Hoàng hậu, Hoàng hậu đích thân mời ông đến xin cho Thôi Tri Phỉ đi theo ông học đàn, nhưng Chu lão tiên sinh này lại từ chối cả lời thỉnh cầu của Hoàng hậu. Vậy mà giờ ông lại nói muốn mình theo ông học đàn, điều này khiến cho Tuệ An cảm thấy như đang lơ lửng trong mơ. Chỉ là khả năng của nàng nàng hiểu rõ nhất, nàng không có đủ kiên nhẫn để học đàn, càng không có hứng thú với cầm học. Cho nên chỉ sửng sốt một chút, liền cười cúi người, nhỏ nhẹ nói:

“Có thể được Chu lão tiên sinh nhìn trúng chính là vinh hạnh của học trò, nhưng tiểu nữ quả thật không phải là người yêu đàn hiểu đàn, hôm nay là do lòng có xúc động, chứ ngày thường học trò rất ngốc nghếch chậm hiểu, tính tình cũng nóng nảy. Thật sự không đam đương nổi sự ưu ái của tiên sinh.”

Nàng thẳng thắn cự tuyệt! Chu lão tiên sinh và Cố Dư Hinh không khỏi kinh ngạc nhìn Tuệ An một cái, cuối cùng Chu Kỉ Văn gật đầu nói:

“Nếu vậy thì thôi. Đúng rồi, khúc nhạc trò đàn khi nãy là do trò tự sáng tác?”

Hai người Tuệ An vừa qua chỗ ông, đám người Thuần vương chảng ai bảo ai cũng đưa mắt nhìn tới. Nghe Chu Kỉ Văn muốn thu Tuệ An làm đồ đệ thì kinh ngạc vô cùng, sau lại nghe Tuệ An cẩn thận từ chối, đã cảm thấy nàng kỳ lạ, giờ Chu lão tiên sinh hỏi như vậy, không khỏi càng bất ngờ, thầm nghĩ: chẳng lẽ thật sự là Tuệ An trong lúc nguy cấp phát huy thiên phú, tự mình phổ nhạc? Lập tức bắn ánh mắt sắc như dao về phía nàng.

Tuệ An thấy vậy hai tay toát mồ hôi, thầm nghĩ: khó trách Chu tiên sinh này muốn thu nàng làm đồ đệ, đúng là coi trọng nàng quá. Khúc nhạc này là năm đó Lý Vân Sưởng phụng mệnh thu thập nhạc phổ dân gian nàng nghe được, bởi vì khi đó muốn thu hẹp khoảng cách với hắn, ngày nào cũng đứng ở ngoài tường viện hy vọng có thể nghe được thanh âm của hắn, mới tình cờ nghe được khúc này. Mà lúc nàng nghe cũng bị nó làm cho xúc động tận tim gan, nên liền phân phó Đông Nhi đi tìm nhạc công phổ thành một khúc hoàn chỉnh theo tâm trạng của mình.

Thẩm Tuệ An nàng tự mình sáng tác ư? Nhầm lẫn thế này nàng không gánh nổi đâu, vì vậy Tuệ An gấp gáp khom người thi lễ, đáp:

“Là học trò tình cờ nghe một ông lão hát dạo đàn lên, lúc ấy lòng có xúc động, liền sai người lưu lại nhạc phổ, nghe ông lão đó nói khúc nhạc này là tiểu khúc được lưu truyền ở vùng bình nguyên phía Bắc. Học trò ngu dốt, tuyệt đối không sáng tác ra được thủ khúc nhường này.”

Chu Kỉ Văn nghe vậy gật gật đầu, không nói thêm câu nào. Tuệ An cùng Cố Dư Hinh vội cúi người hành lễ cáo lui. Đợi mấy người Thuần vương lần lượt rời đi, Liễu viện sĩ đi ở cuối cùng, lại vui tươi hớn hở nhìn Tuệ An, nói:

“Rất tốt, rất tốt.”

Liễu viện sĩ ngày thường luôn treo bốn chữ ‘nghiên cứu học vấn’ trên mặt, lúc nào cũng quắc thước uy nghi, hiếm khi cười thành như vậy, Tuệ An nhìn ông mà nổi cả da gà da vịt, nghiêm túc cúi người hành lễ.

Liễu viện sĩ thấy nàng khiêm tốn có mực, lễ nghi chu toàn, càng vui vẻ không tiếc lời khen ngợi nàng, một hồi mới gật đầu cất bước rời đi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.