Nhiễm Hương Phiến | Quạt Nhiễm Hương

Chương 3: Chương 3




CHƯƠNG 3

Thiếu nữ tựa sát vào lòng Lạc Chương Thịnh, chẳng để tâm đến tư thế giữa đôi bên kỳ cục ra sao, cứ thế mà khóc mãi. Lạc Chương Thịnh còn đang tự hỏi phải làm thế nào để chấm dứt việc này thì cửa ra vào của nhã các bỗng nhiên bị đẩy mạnh.

Ngoài cửa xuất hiện hai thiếu nữ thanh tú vận y phục thư đồng, vừa nhìn thấy tình cảnh mập mờ giữa Lạc Chương Thịnh và thiếu nữ trong phòng, sương lạnh lập tức phủ đầy mặt, mắt sắc như đao, ném cho Lạc Chương Thịnh nhãn thần đầy vẻ đe dọa.

Lạc Chương Thịnh thầm kêu khổ trong lòng, ta vô can, ta trong sạch, ta bị oan mà. Hai thiếu nữ vừa xuất hiện sau khi lườm nguýt Lạc Chương Thịnh xong thì lập tức xông vào trong, một người bên trái một người bên ngoài đỡ lấy thiếu nữ còn đang khóc lóc ỉ ôi trong lòng Lạc Chương Thịnh, gọi dồn mấy tiếng ‘tiểu thư’, xem ra đây hẳn là nha hoàn theo hầu của thiếu nữ nọ. Lạc Chương Thịnh khẽ thở dài: “Các cô là người nhà của vị cô nương này sao, nàng ta uống say khướt, nhận lầm tại hạ là ai đó, khóc mãi không ngừng, các cô mau đưa nàng ta về nhà, lựa lời mà khuyên nhủ nàng ta.”

Hai cô nha hoàn vẫn nhìn Lạc Chương Thịnh một cách đầy dò xét, một trong hai người lạnh lùng lên tiếng: “Không mượn ngươi lắm lời! Nếu khi tiểu thư tỉnh lại, nói rằng ngươi đã làm ra chuyện gì đó vô lễ với tiểu thư, ta nhất định không tha cho ngươi!”

Lạc Chương Thịnh cười khổ nói: “Tại hạ thật sự là người đường hoàng ngay thẳng, tiểu thư nhà các cô ngay từ đầu đã nữ cải nam trang, ta nào biết được nàng ta là một vị cô nương chứ, cho rằng cũng là một sĩ tử thi trượt như mình, nên mới cùng nhau đến tửu lâu cộng ẩm, sau đó nàng ấy uống sai rồi bắt đầu nhìn ta thành ai đó, cứ khóc mãi, ta còn cách nào khác đâu. Tại hạ họ Lạc tên Chương Thịnh, chính là người ở kinh thành này, nếu tiểu thư nhà các cô có chuyện gì, cứ việc đến tìm ta.”

Nha hoàn đang đỡ thiếu nữ cười lạnh nói: “Hóa ra ngươi chính là nhi tử Lạc Chương Thịnh của Lạc tả tướng, kẻ chẳng có nổi tên trên bảng vàng vừa rồi, được, ta nhớ kỹ ngươi rồi, cho dù ngươi là nhi tử của Tả Tướng, nếu dám vô lễ với tiểu thư nhà ta, cũng sẽ chết không toàn thây!” Nói xong, lại ném cho Lạc Chương Thịnh một cái trừng mắt dữ tợn, sau đó mới đỡ thiếu nữ đi khỏi.

Lạc Chương Thịnh đứng yên tại chỗ, nhìn đăm đăm vào cửa của nhã các, sau cúi đầu nhìn xuống bộ trường sam dây đầy nước mắt nước mũi của mình, thở dài nói: “Đúng là tai bay vạ gió…”

Ra khỏi tửu lâu, đoàn người náo nhiệt lúc nãy đã tản đi hết cả, bầu không khí im ắng dị thường, xác pháo vụn vương vãi khắp nơi, bay tứ tung trong gió. Vài mảnh bay ngay vào chân Lạc Chương Thịnh, hắn cúi đầu nhìn một lúc rồi lại thong dong đi về phía trước.

Hắn cứ đi như thế, thời gian trôi qua bao lâu cũng không rõ, từ phố thị sầm uất trong thành đi mãi ra vùng ngoại ô không khí trong lành ẩm ướt, từ đó lại lững thững ra khỏi cổng thành, đến một vùng đồng nội bên ngoài, rồi lại men theo một lối mòn nhỏ, tiếp tục đi. Xa xa hiện ra một dòng sông xanh thẫm uốn quanh một dáng núi đơn côi. Hắn bước lên cây cầu đá, đi sang bờ bên kia. Quang cảnh xung quanh ngày càng thêm hoang vắng, cảnh vật mỗi lúc lại càng thêm thanh u.

Còn đang định tiếp tục đi nữa, trời bỗng nhiên đổ xuống một cơn mưa, Lạc Chương Thịnh đội mưa chạy khắp xung quanh, định tìm một tán cây lớn để trú, bỗng nhiên trông thấy sau một bóng cây rậm rạp, ẩn hiện một gian tiểu viện tường trắng ngói đen.

Hắn do dự một chút, thầm nghĩ, từ đây chạy sang đấy tá túc cũng chỉ một chốc đã đến, nghĩ thế, chân cũng bèn rảo nhanh về phía ấy. Trong màn mưa, gian tiểu viện toát ra một nét thanh nhã khó nói, trông giống như nơi ẩn cư của các bậc thi hào xưa kia hay biệt viện nghỉ ngơi của các tay phú thương trong kinh thành.

Lạc Chương Thịnh đi đến trước viện, đưa tay gõ cửa, nhưng vừa chạm vào cửa đã theo đó mà mở ra. Bên trong hiện ra một đình viện cỏ hoang um tùm, vô cùng vắng vẻ, thử gõ thêm vài cái, vẫn chẳng nghe thấy bất cứ động tĩnh nào. Lẽ nào tiểu viện này lại là một ngôi nhà đã bỏ hoang từ lâu, chẳng có ai ở?

Mưa càng lúc càng thêm nặng hạt, Lạc Chương Thịnh bước nhẹ vào viện môn, chắp tay cất cao giọng nói: “Xin hỏi chủ nhân có ở đây không? Tại hạ trên đường đi ngang qua nơi này, đột nhiên mắc phải trận mưa, chẳng hay có thể xin trú lại chốc lát, chờ qua cơn mưa gió này?”

Vẫn là một sự yên tĩnh kỳ lạ, không có bất kỳ tiếng trả lời nào.

Lạc Chương Thịnh không thể làm gì khác hơn là cao giọng nói thêm lần nữa: “Thế, tại hạ đường đột làm phiền rồi.” Khép lại đại môn, bước nhanh qua đình viện, men theo một dãy hành lang quanh co để vào trong sương phòng.

Sương phòng ấy thoạt nhìn qua trông giống như một đại sảnh, cửa chính im lìm khép kín. Lạc Chương Thịnh đứng bên ngoài hành lang dùng tay áo lau đi nước mưa trên mặt, trong lúc bất cẩn, khiến cho đồ vật cất trong tay áo bất ngờ rơi ra, gây nên một tiếng động nhỏ, hóa ra là phiến quạt cũ hắn đã mua lúc nãy ở chợ. Lạc Chương Thịnh cúi người nhặt cây quạt lên, mở ra xem qua: “Ồ, may mà không có bị ướt.”

Lúc cất cây quạt vào trong ngực áo, tầm mắt của Lạc Chương Thịnh lơ đãng nhìn quanh, bất ngờ phát hiện ra cửa chính đại sảnh khi nãy còn đóng kín từ lúc nào đã mở ra một phiến, có một người đang đứng bên cửa, không nói một lời lẳng lặng nhìn về phía hắn.

Lạc Chương Thịnh giật thót, người nọ vận một bộ trường sam hoàng sắc tươi đến mức ngả chừng sang đỏ, ước chừng hai mươi tư hai mươi lăm tuổi, tướng mạo không những tuấn mỹ mà còn nho nhã lạ lùng. Lạc Chương Thịnh vội vàng chắp tay nói: “Các hạ là chủ nhân của tòa viện này có phải không? Tại hạ trên đường đi gặp phải mưa to, nghĩ rằng trong viện không có người nên mới đường đột vào trong trú đỡ, thực sự vô cùng thất lễ, rất mong các hạ có thể rộng lượng mà bỏ quá cho.”

Người nọ im lặng chờ nghe hắn nói hết, nhẹ nhàng mỉm cười, nét mặt thanh tú lại ôn hòa vô cùng, chẳng khác nào gió xuân tháng ba mềm mại thổi qua: “Không sao cả, nơi đây đã lâu lắm rồi không có ai đến, hôm nay có khách ghé thăm, ngược lại còn có chút kinh hỉ. Nếu như ngươi không chê nơi đây quê mùa, xin mời vào trong sảnh ngồi.”

Bên trong đại sảnh, cách bày trí thập phần lịch sự và tao nhã, người nọ dẫn Lạc Chương Thịnh đến ngồi bên cạnh ghế nhỏ, trên bàn gần đấy là một ấm trà thơm vừa mới phao xong. Người nọ thay Lạc Chương Thịnh rót đầy chung trà trước mặt, Lạc Chương Thịnh vội nói “đa tạ”, sau lại nói thêm: “Tại hạ Lạc Chương Thịnh, xin hỏi tôn tính của các hạ.”

Người nọ đáp: “Ta là Thu Thiều, ngươi không cần quá mức khách khí, cứ gọi thẳng tên ta là được.”

Lạc Chương Thịnh vừa thưởng thức trà vừa tìm cách bắt chuyện với Thu Thiều: “Thu huynh, gian viện này của huynh thật là tao nhã, chỉ là vừa rồi trong lúc đi vào, cảm thấy nơi đình viện có chút vắng vẻ, lẽ nào ở đây chỉ có một mình huynh thôi sao?”

Thu Thiều đáp: “Phải, trong gian viện này, chỉ có một mình ta mà thôi.”

Nghe thế, Lạc Chương Thịnh vô cùng kinh ngạc: “Ngay cả một hạ nhân cũng không có? Thu huynh, nhìn huynh tư văn nhã nhặn thế này, có lẽ là một thư sinh, một mình ở nơi này thật sự là quá hẻo lánh.”

Thu Thiều nhẹ nhàng đáp: “Quen rồi thì sẽ cảm thấy không sao cả. Huống hồ—ta chỉ là một kẻ thư sinh, có nơi để ở đã tốt lắm rồi, không quá để tâm đến những việc khác.”

Đôi bên trò chuyện qua lại nãy giờ, trông cách nói năng và phong thái của Thu Thiều, Lạc Chương Thịnh mơ hồ cảm thấy y rất giống với những văn nhân nho sĩ tính tình cổ quái thời nào cũng có, mà những kẻ như thế, chỉ luôn thích sống một mình ở những nơi hoang sơn dã lĩnh. Thu Thiều này, xem ra chính là một trong số đó.

Nhân dịp ấy, Lạc Chương Thịnh thử đưa ra kiến nghị: “Nếu như hôm nay đã có duyên kết làm bằng hữu, Thu huynh nếu không chê tại hạ ồn ào lỗ mãng, nay mai ta sẽ quay lại thăm hỏi, thuận dịp sẽ thay huynh sửa sang lại đình viện bên ngoài, xem như là đáp tạ việc tá túc hôm nay, huynh thấy thế nào? Tại hạ tuy đọc sách chẳng ra sao cả, nhưng sửa sang đình viện thì cũng có thể xem như là nghề tay trái đấy.”

Thu Thiều cười nói: “Được, nói như thế, Lạc huynh đây là nhân sĩ của kinh thành? Ngày hôm nay đến chỗ vắng vẻ thế này, hẳn là để đạp thanh rồi.” ()

Lạc Chương Thịnh thở dài nói: “Ai, không phải là đạp thanh gì cả, là đến đây để giải khuây cho vơi bớt nỗi sầu trong lòng mà thôi. Nói đến việc này, hừm hừm, cũng khá là mất mặt, ta thi trượt đó mà…” Rồi cứ thế đem hết mọi chuyện chất chứa trong lòng từ trước đến nay lần lượt kể ra, từ việc từ nhỏ đã phải nhốt mình trong thư phòng dốc sức học tập, cùng nhi tử của đối thủ phụ thân so bì cao thấp ra sao, cho đến việc hôm nay thi trượt bị cha dùng gậy đánh đuổi ra khỏi nhà. Vừa nói vừa thở dài liên tục. Chắc là dạo này đang gặp phải vận xui, hết việc nọ lại kéo đến việc kia, lại còn đụng phải một vị tiểu thư nữ cải nam trang, vì lo cho danh tiết của người ta mà cả nói chuyện cũng không dám, chỉ theo đến tửu lâu ngồi im hầu rượu, thế mà cũng bị vu cho cái tiếng vô lễ, bất kính, sau đó buồn tình lang thang ra vùng ngoại thành giải khuây, lại mắc ngay vào trận mưa to này.

Nói hết những việc đó, Lạc Chương Thịnh không khỏi ngậm ngùi thương cho chính mình, cuối cùng kết lại: “…Hầy, nói tóm lại, dạo gần đây ta đúng là “xui như Tường vương”, hôm nào đó phải đến miếu thắp một nén hương, đuổi cái vận xui này đi mới được.”

Từ đầu đến cuối vẫn im lặng một mực nghe hắn kể lể, khi nghe đến câu “xui như Tường vương”, Thu Thiều trong thoáng chốc tỏ vẻ kinh ngạc.

Lạc Chương Thịnh nhìn thần sắc khác thường của y, nói: “Thu Thiều huynh, chẳng lẽ huynh chỉ mới dọn đến đây thôi sao, chưa từng nghe qua điển cố ‘xui như Tường vương’? Đó là một câu ví von cực kỳ phổ biến của người kinh thành đấy.”

Thu Thiều kinh ngạc nhướn mày nhìn hắn, dáng vẻ rõ ràng hoàn toàn chẳng hay biết gì.

Lạc Chương Thịnh nói: “Ai, huynh quả nhiên là không biết rồi. Thế này, mười mấy năm về trước, việc Tường vương vì phạm tội mưu nghịch mà bị xử trảm, huynh có nghe nói qua rồi chứ? Vị Tường vương này ấy, thực ra là bị oan đó, nghe nói hắn trời sinh tính đạm bạc, chỉ thích trồng hoa và vẽ tranh. Mấy mươi năm trước An vương và Lộc vương cùng nhau mưu phản, ý đồ soán vị, sau khi sự việc vỡ lở lại khăng khăng khai bừa, một mực khẳng định Tường vương cũng có tham dự vào. Tiên đế trong lúc tức giận, không thèm thẩm tra, lập tức phái người bắt Tường vương về xử tử. Kết quả, bên này Tường vương vừa tắt thở, bên kia cũng vừa tra ra hắn thật sự vô tội trong việc này. Không những thế, lại còn là công thần lớn nhất, nhờ hắn truy ra manh mối, An vương và Lộc vương mới không thể mưu phản thành công. Sau đó, tiên đế hối hận vô cùng, vừa hạ chiếu thư nhận tội thông cáo với thiên hạ vừa sai người hậu táng cho Tường vương, nhưng dù sao đi nữa Tường vương cũng đã chết oan. Vận khí của hắn thật sự là quá kém, chỉ cần chứng cứ nọ được tìm ra sớm hơn một canh giờ, hắn đã không phải oan khuất mà chết đi như thế. Thế nên dân chúng ở kinh thành hiện giờ đều dùng cách ví von như thế, hay nói là ‘oan như Tường vương’ hay ‘xui như Tường vương’.”

Thu Thiều nghe xong những điều đó, thần tình vẫn vô cùng bình thản. Lạc Chương Thịnh đột nhiên lấy tay che miệng, ghé vào sát bên người Thu Thiều, hạ giọng nói: “Ngoài ra, còn có một truyền thuyết khác. Tường vương vì chết oan mà âm hồn không thể tan đi, vẫn còn lưu lại trong hoàng cung, những khi trời âm u mưa xuống hay đêm tối đen không trăng, có lẽ là những ngày âm khí tương đối thịnh, ở bất kỳ chỗ nào trong cung cũng có thể nhìn thấy Tường vương, dật dờ bay tới bay lui bay tới bay lui bay tới bay lui…”

Thu Thiều mặt không biểu tình, cười khẽ: “Tin đồn mà thôi.”

Lạc Chương Thịnh gõ nhẹ phiến quạt xuống bàn, nói: “Chuyện quỷ thần, không nên cái gì cũng tin, cũng không thể không tin, dù sao đi nữa đó cũng là một truyền thuyết.”

Thu Thiều nhướn mày hỏi: “Ngươi thì sao?”

Lạc Chương Thịnh sờ cằm nói: “Nửa tin nửa ngờ đó.”

Thu Thiều nhàn nhạt cười: “Nếu có một ngày, ngươi thật sự gặp được, có sợ hay không, hay là trốn đi còn không kịp?”

Lạc Chương Thịnh nói: “Ai nhìn thấy quỷ, đều sẽ bị dọa cho hết hồn một phen, nói hoàn toàn không sợ là chỉ gạt người, nhưng cũng chưa đến mức sợ đến phát khiếp. Năm đó Tường vương là một người thập phần phong nhã, lúc thành quỷ rồi hẳn nhiên cũng là một con quỷ phong nhã vô cùng, ta và hắn lại không oán không thù. Thu Thiều huynh, còn huynh có sợ hay không?”

Thu Thiều tự châm thêm trà vào chén cho mình, không đáp.

Tiếng mưa bên ngoài nhỏ dần, Thu Thiều đứng lên, quay người nhìn về phía ngoại sảnh.

Trong đình viện có một tán hoa đào đang độ nở rộ, hoa như ráng hồng, trong làn mưa lất phất hệt như sương mờ bao phủ, phảng phất như một bức họa ẩn hiện xa xa.

Lạc Chương Thịnh cũng đứng lên, thong thả bước đến bên cạnh Thu Thiều, nhìn về phía tán hoa đào nọ, tán thưởng: “Hoa thật đẹp, như thi như họa. Đúng rồi, nói đến hoa đào, hôm nay ta mua được một phiến quạt ở chợ, trên mặt quạt chỉ vẽ mấy nhành cây trơ trụi, không lá mà cũng chẳng hoa, nếu đem hoa đào ngoài sân kia thu vào trong quạt, nhất định phong nhã tột cùng. Đáng tiếc ta lại chẳng giỏi vẽ tranh cho lắm.”

Thu Thiều nhìn chăm chú vào phiến phạt đang xòe ra trong tay hắn, sau giây lát mới chậm rãi hỏi: “Phiến quạt này của ngươi, từ đâu mà có?”

Lạc Chương Thịnh đáp: “Mua được ở chợ.”

Thu Thiều thở nhẹ ra: “Xem ra ngươi và ta xác thực có chút duyên phận. Phiến quạt này, tranh họa trên nó, là do ta vẽ.”

——

() Hội đạp thanh (tức giẫm lên cỏ) trong tiết Thanh Minh tháng ba.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.