Dịch giả: nh0ckd255
Phòng ngủ của tước sĩ Deville còn rộng hơn cả phòng khách cộng phòng bếp nhà Klein, từ giường ngủ cho tới phòng thay đồ, phòng tắm và khu để bàn và giá sách, bài trí tinh xảo, chi tiết xa xỉ. Nhưng Klein lại cảm thấy nơi này âm u, nhiệt độ thấp hơn bên ngoài tới một nửa.
Cùng lúc đó, hắn dường như nghe thấy tiếng khóc và tiếng rên rỉ như đang giãy dụa vang ngay bên tai. Klein giật mình, lại thấy mọi thứ trở lại bình thường: Ánh nắng sáng rực chiếu vào qua cửa sổ, rải khắp cả gian phòng. Nhiệt độ không cao không thấp. Cảnh sát, vệ sĩ và quản gia đứng xung quanh đều im lặng, không ai nói câu gì.
Chuyện này... Hắn quay đầu nhìn chiếc giường ngủ cổ điển và hoa lẹ, chỉ thấy trong bóng tối như có một đôi mắt mơ hồ đang quay tròn, như là lũ thiêu thân không sợ chết bên cạnh đèn khí gas.
Klein đi thêm vài bước tới gần nơi đó, linh thị lại mất hình ảnh vừa nhìn thấy.
Không phải oan hồn theo tiêu chuẩn, càng không phải ác linh... Rốt cuộc là cái gì? Klein nhíu mày, nhớ lại những tri thức thần bí học mà hắn học được trong khoảng thời gian này. Theo hắn thấy, nhiệm vụ hôm nay mà giao cho “Người Nhặt Xác”, “Kẻ Đào Mộ” hoặc “Người Thông Linh” có khi chẳng chút khó khăn nào, nhưng đây rõ ràng không phải lĩnh vực mà hắn am hiểu nhất.
Cố nén cái ý định điều tra theo hướng bói toán, Klein chậm rãi nhìn xung quanh, tìm kiếm dấu vết khác để xác minh suy đoán của mình.
“Này, anh đốc sát.” Tước sĩ Deville do dự rồi hỏi: “Có phát hiện gì không?”
“Nếu phát hiện dễ như vậy, tôi tin rằng đồng nghiệp của tôi sẽ không chờ tới bây giờ.” Klein đáp đầy khách sáo, theo bản năng liếc vị nhà từ thiện này một cái.
Ngay khi hắn định dời mắt qua nơi khác, hắn bỗng phát hiện chiếc gương sau lưng tước sĩ Deville phản chiếu một bóng người màu trắng mỏng manh. Không, là những bóng người màu trắng chồng lên nhau, và méo mó! Bóng dáng ấy biến mất, Klein lại mang máng nghe thấy tiếng khóc.
Phù... Hắn thở ra một hơi thật dài nhằm điều chỉnh lại nỗi sợ hãi khiến hắn suýt thì rút súng ra.
Tăng linh cảm, mở linh thị, sớm muộn gì cũng bị dọa cho phát điên... Klein dùng cách cười nhạo để giảm bớt sự căng thẳng cho bản thân, sau đó lại nhìn về phía tước sĩ Deville.
Lúc này hắn đã thấy thứ gì đó khác biệt. Xung quanh vị tước sĩ Deville này thường có những bóng dáng mỏng, màu trắng và bóp méo thoáng hiện, làm cho ánh sáng ở khu vực này tối tăm cả đi. Mà mỗi một lần bóng trắng vụt lóe lại kèm theo tiếng khóc và rên rỉ hư ảo, người bình thường khó mà nghe thấy. Người bình thường ở trạng thái bình thường khó mà nghe thấy? Là vì ban ngày? Klein gật gật đầu.
Hắn đã có phán đoán sơ bộ cho vụ án này: Thứ quấn lấy tước sĩ Deville là những oán niệm, là linh tính còn sót lại được tạo ra từ thứ tình cảm khó từ bỏ nhất trước khi chết. Loại oán niệm và thứ còn sót lại nếu tích góp một khoảng thời gian, trở nên mạnh hơn gấp mấy lần thì sẽ biến thành hung linh khủng khiếp.
Nhưng tước sĩ Deville là một nhà từ thiện có tiếng, cho dù người soi mói như Benson cũng rất kính trọng ông ta, sao lại bị nhiều “oán niệm chết chóc” quấn lấy người như vậy? Trong ngoài bất nhất? Là thủ đoạn mang ý xấu của người phi phàm? Klein suy đoán các khả năng.
Hắn ngẫm nghĩ rồi mở miệng hỏi tước sĩ Deville: “Tước sĩ đáng kính, tôi có mấy vấn đề muốn hỏi.”
“Xin hãy hỏi đi.” Deville mệt mỏi ngồi xuống.
Klein sắp xếp ngôn từ rồi nói: “Lúc ông rời khỏi nơi này đi chỗ khác, ví dụ như vùng quê hoặc Backlund, có phải đều được sự yên bình trong ít nhất là nửa đêm, sau đó tình hình dần như cũ, càng lúc càng nghiêm trọng hơn, mãi tới lúc ban ngày ngủ vẫn nghe thấy tiếng rên rỉ và tiếng khóc?”
Deville lập tức mở to đôi mắt vốn khép hờ, trong con ngươi xanh thẳm kia trở nên sáng rực hơn vài phần: “Đúng vậy, anh tìm được nguồn gốc của sự tình rồi à?”
Lúc này ông ta mới nhận ra vì mất ngủ trường kỳ, trạng thái tinh thần không tốt mà ông ta đã quên nói manh mối quan trọng đó cho cảnh sát!
Thấy câu hỏi của Klein nhận được câu trả lời là đúng, đốc sát Tolle thầm thở phào nhẹ nhõm, hiểu rằng vị Kẻ Gác Đêm này đã tìm được manh mối rồi. Mà cảnh sát trưởng Gate thì kinh ngạc và tò mò, không nhịn được mà liếc chuyên gia tâm lý học Klein mấy cái.
Phù hợp với đặc điểm oán niệm dần quấn lấy, tụ tập từng chút một... Klein cơ bản là xác nhận đáp án. Mà hiện tại hắn có hai biện pháp giúp tước sĩ Deville thoát khỏi sự quấy nhiễu, một là bố trí dàn tế ở quanh ông ta, rồi dùng nghi thức ma pháp để thanh trừ “oán niệm chết chóc”, hai là dùng các phương thức thần bí học khác tìm ra ngọn nguồn vấn đề, giải quyết chuyện từ gốc rễ. Nhớ tới quy định “Cố gắng không để người thường biết tới sự tồn tại của sức mạnh phi phàm”, Klein định sử dụng biện pháp thứ hai trước, nếu không hiệu quả thì mới khẩn cầu nữ thần.
“Tước sĩ, bệnh của ông là bệnh tâm lý, là vấn đề về tinh thần.” Hắn nhìn Deville, nghiêm trang nói dối.
Tước sĩ Deville cau mày hỏi ngược lại: “Ý của anh là tôi là bệnh nhân tâm thần, cần đi bệnh viện tâm thần?”
“Không, không nghiêm trọng đến thế. Trên thực tế thì đại đa số người đều có một số vấn đề về tâm lý và tinh thần không ít thì nhiều.” Klein thuận miệng trấn an một câu: “Xin cho phép tôi giới thiệu lại một lần nữa, tôi là chuyên gia tâm lý học của sở cảnh sát quận Akhova.”
“Chuyên gia tâm lý học?” Deville và quản gia của ông ta đồng thời nhìn về phía người quen, đốc sát Tolle.
Tolle gật đầu trịnh trọng tỏ vẻ là đúng.
“Được rồi, vậy tôi phải làm gì để phối hợp với việc điều trị? Hơn nữa tôi không rõ vì sao quản gia, vệ sĩ và người hầu của tôi đều nghe thấy tiếng khóc và rên rỉ đó...” Deville nắm chặt gậy batoong bằng cả hai tay, vẻ mặt nghi hoặc.
Klein trả lời rất chuyên nghiệp:
“Tôi sẽ giải thích cho ông sau. Giờ phiền ông bảo quản gia, người hầu và vệ sĩ ra ngoài. Đốc sát Tolle, cảnh sát trưởng Gate, phiền các anh cũng ra ngoài giúp. Tôi cần một không gian yên tĩnh để tiến hành trị liệu sơ bộ.”
Sử dụng pháp thuật “trị liệu“... Đốc sát Tolle lặng lẽ bổ sung thêm một câu cho hắn, rồi gật đầu với Tước sĩ Deville.
Deville im lặng mười mấy giây rồi nói: “Cullen, ông dẫn bọn họ tới phòng khách tầng hai chờ đi.”
“Vâng thưa Tước sĩ.” Quản gia Cullen không phản bác, bởi vì người đưa ra yêu cầu là một sĩ quan cảnh sát chính thức, một vị đốc sát tập sự và là một chuyên gia tâm lý học.
Dõi mắt nhìn bọn họ lần lượt đi ra và cũng đóng cửa phòng lại, Klein nhìn Deville, người có mái tóc màu vàng sậm và đôi mắt xanh thẳm, hắn nói: “Tước sĩ, mời ông nằm lên giường, thả lỏng tâm tình thử đi vào giấc ngủ.”
“... Vâng.” Tước sĩ Deville treo áo khoác và mũ lên giá để đồ, rồi chầm chậm đi tới bên giường, nằm lên.
Klein thì kéo hết rèm cửa lại, làm cho cả căn phòng tối xuống. Hắn cởi con lắc xuống, nhanh chóng dùng con lắc cảm xạ phán định cát hung sơ qua, sau đó hắn ngồi lên chiếc ghế đu ở cách cuối giường không xa, vẽ quả cầu ánh sáng để tiến vào minh tưởng, sau đó làm cho thế giới linh tính bày ra trước mặt. Ngay sau đó, hắn ngả người ra sau, nhanh chóng rơi vào ngủ say, làm cho thể tinh linh của mình tiếp xúc với bên ngoài.
Hắn đang sử dụng kỹ xảo xem bói cảnh mơ để bản thân ở trong không gian linh tính như đang nằm mơ, “kết nối” với đám oán niệm quấn lấy tước sĩ Deville.
Chỉ có kết nối giao tiếp mới lấy được đáp án, từ đó giải quyết vấn đề!
Hu hu hu!
Tiếng khóc đau buồn vang vọng bên tai Klein, hắn “thấy” xung quanh có những bóng người trắng nhạt và trong suốt hiện ra. A a a, tiếng rên rỉ đau đớn vang lên, Klein cố gắng lắm mới tìm lại được năng lực suy nghĩ bèn giơ tay phải ra đụng vào một oán niệm.
Đột nhiên những bóng dáng ấy biến thành lũ thiêu thân rào rào ùa tới phía hắn. Tầm mắt Klein nhòe đi, đầu hắn như bị người ta chém thành hai nửa, một nửa thì tỉnh táo nhìn, nửa kia nhìn vào “gương“. Trong “gương” ấy là một cô gái trẻ tuổi với thân thể cao lớn và ăn mặc như công nhân. Cô đi trong một nhà máy đầy bụi, đầu đau đớn từng cơn. Tầm mắt cô dần mờ đi, thân thể cô dần gầy yếu. Cô như mang máng nghe thấy có người gọi Charlotte, nói là cô mắc phải hội chứng Hysteria. Hội chứng cuồng loạn? Cô nhìn vào gương, thấy trên lợi mình có một đường màu xanh lam như có như không.
...
“Màn ảnh” lại chuyển, Klein lại như nhìn thấy cô gái khác mà mình đang hóa thân tên là Mary, cô cũng đang đi trong nhà máy chì, trẻ trung và hoạt bát. Bỗng nhiên gò má một bên mặt cô giật giật liên tục, sau đó là cánh tay và chân cùng bên.
“Cô mắc chứng động kinh.” Trong lúc toàn thân co giật, cô nghe thấy có người nói thế. Cô ngã xuống, co giật càng mạnh, cuối cùng mất ý thức.
...
Lại một cô gái khác, cô buồn rầu không vui, ngu ngơ đi lung tung trên đường phố, thậm chí bắt đầu gặp chướng ngại về nói năng. Đầu cô đau khủng khiếp, lợi cô có những đường màu xanh lam. Động một tí là người cô co giật.
Cô tới gặp một bác sĩ, bác sĩ ấy nói rằng: “Ravty, cô bị ảnh hưởng bởi chì.”
Vị bác sĩ ấy nhìn cô đầy thương hại, nhìn cô co giật mấy cái liên tục, nhìn đôi mắt cô mất đi mọi sắc thái vốn có.
...
Từng hình ảnh hiện lên trong đầu Klein, hắn nửa chìm đắm vào, nửa tỉnh táo xem. Rồi hắn hiểu được những gì mà các cô gái này gặp phải: Bọn họ tiếp xúc với chì một thời gian dài mà không có đồ bảo hộ, thường phải ở trong môi trường bụi bẩn, và bọn họ chết vì trúng độc chì. Mà tước sĩ Deville thì đúng là có một nhà máy chế biến chì, hai nhà máy gốm sứ. Tất cả những nhà mấy ấy đều thuê nữ công nhân với giá tương đối rẻ!
Klein im lặng “xem” mọi thứ, cảm thấy chỉ có một điểm là hắn chưa rõ: Những “oán niệm chết chóc” ấy rất nhỏ bé, cho dù tích lũy lại thành một số lượng lớn nhưng không thể tạo ra ảnh hưởng gì cho thực tại, cho tước sĩ Deville cả. Trừ phi là có một oán niệm mạnh hơn và cố chấp hơn hẳn đã tập hợp chúng nó thành chỉnh thể.
Đúng lúc này, hắn lại “thấy” một cô gái. Cô ta không quá mười tám, đang ở trong nhà máy bôi men sứ lên đồ gốm.
“Harriet, dạo này cháu sao rồi, còn cảm thấy đau đầu không? Nếu nặng quá thì nhớ nói cho cô. Tước sĩ Deville quy định rất nghiêm ngặt là ai mà bị đau đầu nặng thì không thể tiếp xúc với chì nữa, bắt buộc phải rời khỏi nhà máy.” Một người phụ nữ lớn tuổi hỏi han quan tâm.
Harriet gãi gãi cằm, cười đáp: “Hơi hơi thôi ạ, cháu vẫn ổn.”
“Vậy mai nhớ nói cho cô biết là có nghiêm trọng không nhé.” Người phụ nữ dặn dò.
Harriet đồng ý, về đến nhà thi thoảng cô lại bóp trán. Cô thấy cha mẹ và anh trai về, thấy được vẻ đau khổ trên mặt bọn họ.
“Ba với lại anh của con thất nghiệp rồi...” Mẹ cô lau nước mắt, nói.
Bố cô và anh cô thì cúi đầu xuống, lí nhí bảo: “Bọn tôi sẽ ra bến tàu tìm việc.”
“Nhưng tiền mua bánh mì cho ngày mai của chúng ta đã hết rồi... Có lẽ chúng ta phải chuyển xuống khu ở trong cùng phố dưới mất thôi.” Mẹ Harriet nhìn cô, mắt đỏ bừng: “Khi nào con được lương? 10 saule phải không?”
Harriet lại nắn bóp trán: “”Vâng, thứ Bảy, thứ Bảy.”
Sau đó cô không nói gì cả, yên lặng như mọi khi. Hôm sau khi trở lại nhà máy, cô nói với quản lý là mình khỏi đau đầu rồi, không có vấn đề gì.
Cô mỉm cười, ngày nào cũng đi bộ 5km đi làm, rồi lại đi bộ 5km về nhà, động tác nắn bóp đầu ngày càng thường xuyên hơn.
“Ba với anh vẫn chưa tìm được việc ạ?” Harriet nhìn bánh mì đen nấu trong súp, không nhịn được mà hỏi bố và anh trai.
Bố cô rầu rĩ đáp: “Dạo này kinh tế đình trệ, nhiều nơi giảm biên chế, ngay cả bến tàu cũng làm một ngày nghỉ một ngày, một tuần mới được có 3 saule 7 penny.”
Harriet thở dài, không nói gì thêm, vẫn yên lặng như trước, chỉ là lặng lẽ giấu tay trái đột nhiên run rẩy ra sau lưng.
Ngày hôm sau cô lại đi bộ đi làm, mặt trời dần sáng, người đi đường dần nhiều. Bỗng nhiên cô co giật toàn thân, rồi ngã xuống đất, miệng sùi bọt mép.
Cô nhìn lên bầu trời, tầm mắt bắt đầu mờ đi. Cô thấy người đến người đi, thấy có người tới gần, thấy một cỗ xe ngựa đi qua, thấy huy hiệu bồ câu trắng đang giương cánh bay lên của gia tộc Deville. Cô há hốc miệng thở hổn hển, nhưng lại chẳng phát ra được âm thanh nào.
Cho nên cô vẫn không nói gì cả, im lặng như mọi khi. Chỉ khác là, cô đã chết.