Mặt đất dưới chân rung chuyển không ngớt, từ rất nhẹ chuyển sang kịch liệt, cuối cùng là không thể nào đặt chân. Thanh Phong bất đắc dĩ hóa thành rồng bay lên, nhìn xuống những gò đất chỉ cao khoảng hai hoặc năm, sáu mét đột ngột dài ra, chậm rãi nối liền với đỉnh mộ. Hàn đàm giấu sâu giữa những gò đất như bị giam lại. Những bông hoa nhỏ màu trắng chung quanh hàn đàm bỗng nhiên chết khô, cánh hoa khô héo và lá cây bện lại với nhau rơi xuống và chui vào đất, chẳng mấy chốc lại chui ra một thân cây điểm xuyến những đóa hoa con con màu hồng, nhị hoa trắng sữa khẽ khàng lay động như đang vẫy chào Thanh Phong.
“Hoa hút máu?” Thanh Phong cả kinh, những đóa hoa mọc quanh hàn đàm là hoa hút máu sao?
Phi Cương nói: “Chưa từng hút máu thì chỉ là hoa trắng bình thường, sau khi hút rồi mới trở thành hoa hút máu.”
“Máu ở đâu?” Thanh Phong nhìn mình, lại nhìn sang Phi Cương.
Phi Cương nói: “Dưới đó nhiều lắm.”
“Dưới đó?”
Phi Cương hỏi ngược lại: “Lẽ nào ngươi chưa từng nghĩ xem là ai xây nên lăng mộ này?”
“Chủ nhân đó.” Thanh Phong trả lời tỉnh queo, nhưng sau khi nhìn thấy biểu cảm của Phi Cương thì nó lại không dám chắc, “Lẽ nào do ngươi đắp?” Trong đầu nó hiện lên hình ảnh Phi Cương cầm một cái xẻng dốc sức đào đất. Ba tầng mộ lận đó, thiệt là… Khổ lắm chứ!
Phi Cương nói: “Chủ nhân tự tay xây dựng một phần, còn lại thuê thợ xây. Sau đó bọn họ chết, trở thành phân bón cho hoa hút máu.” Phi Cương thong dong bước đến cạnh hoa hút máu, nhẹ nhàng ngắt xuống một đóa, “Thế nhưng có nhiều thợ chăng nữa vẫn sẽ bị ăn hết, bởi vậy hiện tại mới cần phân bón mới.”
Thanh Phong nhìn xuống dưới đất, chuẩn bịgiả chết bất cứ lúc nào.
Phi Cương nhìn thấu ý đồ của nó, “Không cần ngươi ra tay, lăng mộ sẽ tự giải quyết, ngươi chỉ cần ngoan ngoãn ở lại đây bảo vệ chủ nhân, đề phòng bọn Tử Cương vào đánh lén.”
“Chẳng phải ngươi đã thiết lập ba tầng bảo vệ ư?”
Phi Cương nói: “Có con người xuất hiện ở đây chứng tỏ bọn chúng tìm được những đường khác.”
“Con người?” Thanh Phong phấn chấn hẳn lên, “Vừa nãy phải chăng là Ung Hoài? Có phải y thật sự xuất hiện ở đây không?”
Phi Cương vung tay bay vào sơn động, “Trông nom hàn đàm, còn phạm sai lầm thì giết không tha!”
“Biết rồi.” Thanh Phong bay đến bên hàn đàm, ngoan ngoãn cuộn lại thành một vòng tròn, đầu gác lên mình vờ như đang ngủ, lỗ tai vểnh lên nghe ngóng động tĩnh chung quanh. Đến khi xác định hoàn toàn không còn tiếng động, nó lập tức dùng thuật ảo ảnh đưa chân thân rời đi, lén lút bay vòng qua những gò đất, dọc theo đường mộ chui về tầng thứ hai.
Nếu không phải từng đi qua con đường dẫn từ tầng ba lên tầng hai hàng trăm ngàn lần, Thanh Phong tuyệt đối cho rằng mình đã đi nhầm đường. Con đường thẳng tắp rộng rãi trong ký ức đã không còn, thay vào đó là con đường mòn uốn khúc như rắn trường lập lòe ánh đèn yếu ớt.
Phi Cương bảo gã gọi cả lăng mộ sống dậy, lẽ nào sống dậy thật rồi? Tức là đường mộ thành ra thế này do đã biến từ thẳng thành cong?
Thanh Phong dè dặt đi về phía trước. Lúc đi ngang qua hàng lửa âm phủ ở hai bên, nó rõ ràng cảm thấy lửa như bừng lên, ánh lửa một trái một phải hệt như đôi mắt lặng lẽ giám sát mỗi động tác của nó.
Áp lực bị giám sát hại nó cả người ngứa ngáy như bị sâu cắn. Thanh Phong đi được bảy, tám bước thì chịu hết nổi, ba chân bốn cẳng vội vã chạy như bay. Nhưng bất luận nó có chạy nhanh đến đâu thì lửa âm phủ hai bên vẫn theo bóng nó mà sáng lên đến tận cuối đường.
Thanh Phong dừng bước, hoảng sợ nhìn về phía trước. Cuối đường mộ là hang động to tướng, cao xuyên cả ba tầng mộ, khoảng mười thước hơn, có hình cầu, trên dưới đều hẹp, ở giữa lại phình ra. Đỉnh động và vách tường thiết kế mấy chục bàn tay kim loại hết sức sống động với những động tác khác nhau, chỉ duy đều đang nâng những ngọn lửa lớn cỡ nắm tay. Ở vị trí nó đang đứng trên đường mộ dẫn ra một con đường hệt như địa đạo, có vẻ rộng hơn nơi này, nơi tiếp giáp đặtsẵn thứ gì to to, đen đen trông như cái bàn.
Đây rốt cuộc là đâu?
Sống ở nơi này bao năm, lần đầu tiên nó nhìn thấy nơi như vậy. Từ tầng thứ hai xuống tầng thứ ba, lại từ tầng ba lên tầng hai, trước sau chưa quá hai tiếng nhưng lại sinh ra biến hóa như đã qua hai trăm năm.
Nó vẫy đuôi toan nhảy vào hang thì nghe thấy ngoài đường mộ vọng ra tiếng kêu ngắt quãng của con gái. Thanh Phong đang chúi người ra trước đành gắng sức huơ tay về sau, lảo đảo chạy ngược phía địa đạo, nằm rạp xuống rồi bò ra bên ngoài vài bước, trốn trong bóng tối nơi ánh đèn không chiếu tới để rình trộm.
Bên kia là mấy cáibóng lay lắt.
Thanh Phong nhận ra dẫn đầu là A Tư, A Tưởng sóng vai cùng đi. Phía sau là Tiểu Tình đi ở khoảng giữa gần sát hai người, đầu cúi thấp, nhìn từ xa cũng cảm giác được sự tủi thân vô tận từ người cô bé tỏa ra. Đi cuối còn có một người, nhìn qua khe hở giữa A Tư và Tiểu Tình thì chỉ thấy được nửa bên tóc lay động, nhưng đầu bị khuất sau lưng A Tư nên khó nhìn rõ mặt mũi.
Cái đầu đã nhồi nhét đầy nghi vấn của Thanh Phong lại nảy ra thêm một câu hỏi mới: Người đi cuối có phải Ung Hoài hay không? Về phần bọn họ làm sao hội họp, cớ gì lại xuất hiện ở đây hoàn toàn không nằm trong phạm vi quan tâm của nó.
Không ngừng nảy ra nghi vấn nhưng lại chẳng thu hoạch được dù chỉ nửa câu trả lời khiến Thanh Phong cảm giác đầu mình sắp nổ tung đến nơi. Oái! Nếu cứ tiếp tục như vậy, sớm muộn cũng có ngày nó vì suy nghĩ quá nhiều mà biến thành rồng trọc mất thôi. Đương nhiên, không phải trọc tóc, mà là trọc vẩy. Bạn hãy tưởng tượng thử xem, một con rồng oai phong lẫm liệt bị rụng sạch vảy là cảnh tượng thảm thương đến nhường nào. Có lẽ đám đồng bọn cương thi sẽ chỉ vào nó và cười nhạo nó là con rồng bị thịt, con người sẽ nhận lầm nó là giun, còn Ung Hoài… Nghĩ đến khả năng bị Ung Hoài chế giễu, Thanh Phong cảm thấy mình sắp xoắn xuýt chết mất.
Đương lúc nó mãi đắm chìm trong giả tưởng chưa phát sinh và vĩnh viễn không có khả năng phát sinh, bốn người đối diện đã lộ mặt. Người đi cuối không phải Ung Hoài Thanh Phong hằng trông ngóng mà là người có duyên gặp mặt hai lần với nó, Tần Phú Sinh. Chủy thủ của gã chĩa vào lưng Tiểu Tình, gã nói với A Tư, A Tưởng: “Qua đẩy đi.”
Thứ gã bảo họ đẩy chính là đồ vật hệt như cái bàn trong mắt Thanh Phong. Chân bàn có hình trụ, cao khoảng một mét, bên trên đặt một cái khay hình chữ thập có thể xoay được. Theo lớp bụi phủ trên mặt bàn mà xét, e rằng đã lâu lắm không có ai đến làm việc ở đây.
A Tưởng bép xép hỏi: “Nó là cái gì vậy?”
“Ngươi không cần biết nó là cái gì, ngươi chỉ cần biết nếu ngươi không làm theo lời của ta thì ả sẽ chết vô cùng thê thảm.” Chủy thủ của Tần Phú Sinh đẩy nhẹ về trước, thành công khiến cho Tiểu Tình thét lên một tiếng chói tai.
“Bình tĩnh chút nào!” A Tưởng và A Tư cùng rống lên.
Tần Phú Sinh hất cằm về phía bàn đá.
A Tư A Tưởng đành bất đắc dĩ qua đó.
Động tác của họ gợi lên sự chú ý của Thanh Phong, nó tạm thời quẳng hết phiền não của mình qua một bên, tập trung quan sát từng động tĩnh nhỏ bên kia.
“Dùng sức hơn nữa!” Thấy bọn họ đẩy cả nửa ngày mà cối đã vẫn không nhúc nhích, Tần Phú Sinh bắt đầu sốt ruột, túm tóc Tiểu Tình giật mạnh về sau, chủy thủ gác lên cổ cô bé, “Làn da xinh đẹp thế này mà để lại sẹo do đao cắt thì đáng tiếc biết bao!”
A Tưởng giận dữ quát: “Biết là tiếc thì đừng… vẽ bậy!”
“Bọn tôi… đang… cố…” Lời nói gắng sức như đang chứng minh A Tư mệt bở hơi tai.
A Tưởng dùng hết sức bình sinh, miệng đôi khi phát ra tiếng hộc hộc, mặt mũi đỏ gay, hai mắt nhồi máu, gân xanh nổi đầy trên trán. Sản phụ khó sinh cũng không hơn họ là bao.
Biểu hiện dốc sức của hai người rốt cuộc giành được lòng tin của Tần Phú Sinh. Gã đẩy Tiểu Tình đến hai cái cán cối còn lại, lấy chủy thủ thúc vào lưng ý giục cô nàng dùng lực.
Tiểu Tình cầm lấy cán cối, hồi hộp thở sâu.
“Đừng sợ.” A Tư quay lại mỉm cười với cô bé.
Tần Phú Sinh tức giận cắt ngang màn “liếc mắt đưa tình” của hai người, gã nói: “Muốn nói chuyện yêu đường thì đẩy trước rồi hẵng nói!”
Không biết vì lời uy hiếp của gã phát huy tác dụng hay bởi cối đá này vừa mắt Tiểu Tình mà cuối cùng cũng chịu phát ra tiếng cạch cạch, chuyển động từng chút một.
Cối đá xoay hết một vòng thì địa chấn xuất hiện.
Nơi bắt đầu rung chuyển tình cờ lại là góc chết nằm ngoài đường nhìn của họ, song với Thanh Phong đang nằm đối diện thì lại vô cùng rõ ràng. Theo sự chuyển động của cối đá, bức tường nằm dướicuối đường mộlộ ra vết nứt vuông góc thẳng tắp chạy dọc xuống, một sợi dây xích giấu trong vách tường từ từ lộ ra. Không chỉ như vậy, trên những vách đá khác cũng bắt đầu có đá vụn văng ra, ầm ầm đổ xuống hệt như mưa rào.
Đợi cho địa chấn qua đi, Tần Phú Sinh lấy Tiểu Tình chắn trước người và thò đầu xuống thăm dò, sau đó nói với A Tư, A Tưởng: “Một người trong các ngươi đi xuống!”
A Tưởng cả kinh hỏi: “Nhảy xuống?”
“Bò xuống, ở đây có xích sắt.” Tần Phú Sinh lấy mũi chân chỉ xuống dưới, thấy bọn họ chần chừ không chịu nhúc nhích thì bắt đầu mất kiên nhẫn, “Mau lên. Chớ quên ban nãy là ai lợi dụng địa đạo cứu các ngươi ra từ tay lũ cương thi, không có ta thì ba người các ngươi đã sớm thành mồi ngon cho chúng rồi.”
A Tư, A Tưởng dùng mắt trao đổi, đồng thời cùng tiến lên một bước.
A Tưởng hỏi: “Đệ hết sợ cao rồi?”
Không nhắc còn đỡ, vừa nhắc đến chữ “cao”, A Tư cảm thấy chân mình lại nhũn ra.
“Ca xuống.” A Tưởng quỳ xuống tại cửa đường mộ, thò tay mò mẫm xích sắt định giật thử vài cái nhưng xích sắt vừa to vừa nặng, gã chỉ muốn thử len ngón tay vào giữa vách tường và xích sắt mà ngón tay đã đau như sắp gãy đến nơi.
“Chớ giở trò!” Tần Phú Sinh nhấc chân đá vào mông A Tưởng.
Dù gã đá không mạnh lắm nhưng cũng đủ cho A Tưởng đang ghé vào mép vực toát mồ hôi lạnh.
“Được rồi.” A Tưởng rụt tay lại, xoa xoa vị trí đau nhức, sau đó nhổ vài ngụm nước bọt vào lòng bàn tay.
“Cẩn thận!” Tiểu Tình bị bắt làm con tin lo lắng nhìn gã, nước mắt sóng sánh trong mắt chỉ chực trào ra.
A Tưởng tươi cười với cô bé, khom lưng bắt lấy xích sắt, chậm chạp áp chân lên vách tường dò dẫm nơi đặt chân chống đỡ thể trọng. May mà hang động này có hình cầu, lấy đường mộ làm trục đối xứng, vách tường để đi xuống xây theo hình vòm cung, chỉ cần cẩn thận một chút thì vẫn đủ để chống đỡ thể trọng.
Tần Phú Sinh thấy gã trèo xuống hết sức thuận lợi thì hơi yên tâm, ngoắc tay ra dấu bảo A Tư đến đổi làm con tin rồi quay sang bảo với Tiểu Tình: “Bây giờ ngươi xuống đi!” Thủ pháp đổi con tin của gã vô cùng lão luyện khiến A Tư dù muốn thừa cơ ra tay nhưng lại không tìm được cơ hội.
Tiểu Tình nhìn gã, lại nhìn A Tư, lặng lẽ khom lưng, men theo dấu chân của A Tưởng từng bước đi xuống.
Tần Phú Sinh một tay bóp cổ A Tư, một tay chỉa chủy thủ vào tim gã và giục: “Ngồi xuống.”
“Hả?” A Tư nghi hoặc thì nghi hoặc nhưng vẫn làm theo. Có điều câu kế tiếp của Tần Phú Sinh lại hại gã suýt ngất, “Ngươi cõng ta xuống dưới.”
Chân A Tư nhũn ra, “Ông nghiêm túc đấy à?”
“Ngươi muốn chết sao?”
“Tôi sợ độ cao.”
“Ai bảo ngươi nhìn xuống dưới.”
“Tôi sợ không phải vì tôi nhìn thấy nó cao mà sợ là sợ sự tồn tại của nó kìa!”
“Ngươi không nhìn làm sao biết nó tồn tại?”
“…” A Tư buồn rầu phát hiện vốn từ của mình đã cạn, “Được thôi, ông nói đúng lắm, nhưng tôi đã nhìn thấy độ cao của nó rồi.”
Tần Phú Sinh nói: “Quên nó đi.”
“Ông không sợ chết thiệt hả?”
“Câu này phải là ta hỏi ngươi mới đúng.” Tần Phú Sinh nói: “Tiểu Tình đang ở ngay dưới chân chúng ta, nếu chúng ta không xuống thì con ả cũng khó lòng sống nổi. Đi thôi! Chỉ cần các ngươi ngoan ngoãn nghe lời, ta sẽ cho các ngươi được thấy thứ đẹp đẽ nhất thế gian này.”
Bị A Tưởng tẩy não quá lâu, vừa nghe thấy thứ đẹp đẽ là A Tư buột miệng hỏi ngay: “Đồ liệm?”
“Mấy thứ đấy thì đáng gì.” Tần Phú Sinh khinh thường nói: “Thứ người chết mặc rồi ngoài bán được chút tiền thối tha thì còn để làm gì?”
…
Không vì vài văn tiền thối chứ chả lẽ lại vì vài miếng đậu hủ thối? Nếu thật sự cao thượng như vậy thì đi mà đọc sách, thi trạng nguyên, cưới công chúa, làm phò mã ấy!
A Tư vừa oán thầm vừa run rẩy mò mẫm xích sắt.
Bọn họ bên kia kì kèo chậm chạp bò xuống, Thanh Phong bên này thấy thế thì bắt đầu bực mình. Nó phát hiện Tần Phú Sinh có thể mang đến những phát hiện khá bất ngờ về lăng mộ này, ví như cạm bẫy trong thạch thất, ví như đẩy cối đá sẽ xuất hiện dây xích. Quá rõ ràng, chuyện Tần Phú Sinh biết nhiều hơn con rồng thổ địa là nó nhiều lắm. Nhưng sao gã lại biết? Gã từ đâu tới? Thanh Phong suy đoán vô số đáp án nhưng lại bị tự nó bác bỏ hết. Thân là thành viên mới nhất, nhỏ tuổi nhất mộ, nó phát hiện chuyện nó cần biết còn rất nhiều.
Mà cái đầu cất giữ một phần đáp án lại đang gác lên vai A Tư, hoảng hốt cảm nhận từng cơn run rẩy mỗi lúc một tệ hại từ người của gã. “Bình tĩnh!” Câu này bị gã nhắc đi nhắc lại tới mấy chục lần, rốt cuộc không biết là để cảnh cáo A Tư hay đang tự an ủi mình.
A Tư cầm lấy xích sắt, cảm thấy lòng bàn tay toàn là mồ hôi, bàn chân giẫm lên vách tường thì nhũn như bông, hệt như chỉ cần bất cẩn một tí sẽ rơi xuống ngay. Gã chúi đầu vào vách tường, than khóc cầu xin: “Tôi không được nữa rồi… Hết chịu nổi rồi.”
Tần Phú Sinh lần thứ ba mươi sáu hối hận vì quyết định của mình. Gã không ngờ lại có người sợ độ cao tới nhường này. “Nghĩ đến Tiểu Tình!”
Cổ họng A Tư bật ra tiếng nấc nghẹn.
Tần Phú Sinh không còn gì để nói.
A Tưởng đã đáp xuống đất, ngưỡng lên cổ vũ cho A Tư: “Đừng sợ! Tưởng tượng như đang đi trên đất bằng ấy, đệ đang đi ngược trên đất bằng mà thôi!”
“Nghe lời anh ngươi đi kìa!” Nếu chẳng phải sợ dọa cho “thú cưỡi” giật mình, Tần Phú Sinh thật muốn rống thẳng vào tai gã.
Nhưng hình như A Tư đã quyết định làm con ve, bám mãi trên “cây” không chịu động đậy.
“Cứ thế này thì thể lực của ngươi sẽ không chịu nổi đâu!” Tần Phú Sinh kề chủy thủ vào cổ gã, toan dù vũ lực ép gã ngoan ngoãn nghe lời.
A Tư quả thật ngoan ngoãn, gã đã lỡ trót thì trét, “Ông giết tôi đi.”
“…” Đến nước này thì Tần Phú Sinh không thể không nghĩ tới đường lui. Gã cúi đầu đánh giá độ cao, còn khoảng năm, sáu mét, với tuổi tác của gã khả năng nhảy xuống mà vẫn bình an vô sự quá nhỏ. Gã cất chủy thủ đi, luồn nắm tay qua nách A Tư bám lấy xích sắt, chậm rãi bò xuống khỏi lưng A Tư. Sau khi hoàn toàn tách khỏi A Tư, gã lập tức thở phào nhẹ nhõm song lại nghe A Tưởng bên dưới rống lên: “Đá ổng! Đạp ổng! Chém chết ổng!”
A Tư run giọng nói: “Ca hỏi thử ổng có chịu đưa đầu qua đây không đã.”
Câu này như đã nhắc nhở Tần Phú Sinh, gã mặc kệ việc tiếp tục leo xuống, định bụng trước khi Tiểu Tình tiếp đất phải bắt một người làm con tin, nhưng A Tưởng đã nhìn thấy âm mưu của gã, lớn tiếng gọi Tiểu Tình: “Cẩn thận! Mau lên!”
Tiểu Tình cắn răng bước từng đoạn nhỏ, sau đó đúng vào lúc Tần Phú Sinh sắp bắt kịp thì cô bé bất thình lình nhảy xuống.
A Tưởng giang tay đỡ được cô bé, sau đó đẩy cô ra sau lưng mình.
Sau khi Tần Phú Sinh tiếp đất, A Tưởng đã lấy chủy thủ ra nhìn chằm chằm vào gã.
Nhìn A Tư vẫn đang đu trên dây xích, Tần Phú Sinh mỉm cười, lắc lắc xích sắt, “Ngươi dám chắc sẽ đối xử với ta như vậy?”
Sự lắc lư của xích sắt mang lại tiếng kêu hoảng hốt của A Tư, giọng gã thảm thiết như đang phải chịu những hình phạt vô nhân tính nhất trên đời. A Tưởng thấy A Tư thần hồn nát thần tính như vậy đành nghiến răng hỏi: “Ông muốn thế nào?”
“Chỉ cần các ngươi không giở trò, ngoan ngoãn hợp tác thì ta sẽ không gây tổn thương cho các ngươi, còn có thể cho các ngươi rất nhiều lợi lộc, bao gồm…” Gã ngẩng đầu nhìn bóng người đang lắc lư như lá bị gió thổi mà lay động bên trên, “Cho hắn xuống.”
“Vậy đừng lãng phí thời gian nữa.” A Tưởng giao chủy thủ cho Tiểu Tình, chìa tay ra cho gã xem, “Nào.”
Tần Phú Sinh chẳng buồn vòng vo, gã đi thẳng vào đề: “Ở vị trí hướng chính đông, ngươi tìm trên vách tường một hòn đá to bằng nắm tay.”
A Tưởng đi đến hướng chính đông của hang động chăm chú tìm kiếm. Vách động cũng khá bằng phẳng nên chẳng mấy chốc gã đã tìm thấy.
“Ấn vào!”
A Tưởng thử ấn vào, cả hang động lập tức điên cuồng rung chuyển, không nhẹ như khi xích sắt xuất hiện mà là chấn động thật sự dữ dội! Ngay cả Thanh Phong nằm trên đường mộ cũng suýt nữa bị chấn bay chứ đừng nói A Tư đang đu trên xích sắt. May mà đúng vào lúc mấu chốt gã đã gan lỳ bám lấy xích sắt tuột xuống một đoạn, bởi thế lúc bị chấn bay thì độ cao chỉ cần ba, bốn mét, nhưng như vậy cũng đủ rồi, giây phút tiếp đất, gã cảm giác được trong cơ thể có một khúc xương bị đụng gãy!
“A!” Gã bật ra tiếng kêu thảm thiết.
Tiểu Tình và A Tưởng đều giật nảy, trong cơn chấn động của hang liều mạng chạy về phía A Tư, chỉ sợ Tần Phú Sinh lại hạ độc thủ. Nhưng lần này Tần Phú Sinh không đoái hoài gì đến bọn họ, gã mừng rỡ như điên mà chạy vòng quanh hang động.
Chấn động dần dần qua đi.
A Tưởng cuối cùng cũng đến được bên cạnh A Tư, định đỡ A Tư đang đau đến xanh cả mặt đứng lên nhưng lại bị đối phương cự tuyệt một cách quyết liệt.
“Đệ sao rồi?” Hai tay A Tưởng đành lóng ngóng huơ trong không khí, không tìm được nơi nào để chạm vào, cuối cùng đành đau lòng ôm lấy đầu mình.
A Tư cắn răng, nửa buổi mới nói được một câu hoàn chỉnh: “Chân… gãy rồi.”
“Đừng sợ, ca lập tức mang đệ ra ngoài nối xương.” A Tưởng muốn vén ống quần gã lên nhưng lại bị gã đẩy ra.
“Coi chừng, Tần Phú Sinh…” A Tư tuy đau đến tái cả mặt nhưng đầu óc lại vô cùng tỉnh táo.
A Tư ngẩng đầu tìm vị trí của Tần Phú Sinh thì phát hiện gã đang đứng ở hướng chính tây, đào đào gì đó trên vách tường.
Mắt Tiểu Tình chợt lóe lên, cô bé siết chặt chủy thủ, lặng lẽ mò mẫm đến gần Tần Phú Sinh.
“Ha ha ha…” Tần Phú Sinh đột nhiên cười phá lên như điên dại, “Tìm thấy rồi, cuối cùng ta cũng tìm thấy rồi!” Gã cúi người xuống, áp miệng lên tường mút lấy mút để.
Tiểu Tình giơ chủy thủy lên, nhắm thẳng vào lưng gã mà dùng sức đâm xuống. Chủy thủ cắm vào da thịt, bị giữ chặt lại, mười ly chung quanh vết thương ấy vậy mà chẳng hề rỉ ra dù chỉ một giọt máu. Cô bé đang rầu rĩ thì bị một luồng sức mạnh to lớn đánh bay, nặng nề giáng xuống ngay chân của A Tư.
A Tư chỉ kịp bật ra nửa tiếng kêu thảm rồi ngất đi.
Thân là lực chiến đấu duy nhất còn lại, A Tưởng rút chủy thủ đứng chắn trước người A Tư và Tiểu Tình.