Nơi tuyển nhận đệ tử của Đoạn Trần tự cũng không hoành tráng rực rỡ cho lắm.
Một quảng trường rộng lớn đủ để chứa hết hơn ngàn người, mấy tấm bồ đoàn, chính giữa quảng trường có một ao sen không lớn cũng không nhỏ, trong ao có các loại sen đủ màu, đỏ, trắng, hồng, thậm chí còn có một vài đóa sen xanh, nhìn qua vô cùng đơn sơ. E rằng thứ có giá nhất ở đây cũng chỉ có đóa sen xanh nho nhỏ kia, ít ra vẫn là một loại linh thảo không tồi.
Những Phật tu phụ trách tuyển nhận đệ tử của Đoạn Trần tự ngồi trên mấy tấm bồ đoàn kia, bên cạnh có đốt một lư hương, yên lặng niệm kinh. Hiện tại vẫn còn mấy canh giờ nữa mới đến thời gian tuyển chọn đệ tử chính thức, vậy nên những Phật tu này liền ngồi tụng kinh trong hoàn cảnh phức tạp này, tranh thủ lĩnh ngộ Phật đạo, bỗng dưng lại tạo ra một bầu không khí vô cùng kỳ lạ, khiến các tu sĩ đang kích động nhất thời bị tạt một chậu nước lạnh, không thể không đè nén cảm xúc của bản thân, cũng cố gắng khiến mình trông có vẻ “có Phật tính” một chút.
Trước khi đến, Tạ Chinh Hồng đã dùng Tù Đan khóa để khóa chặt Kim Đan của mình, che giấu thân phận tu sĩ kỳ Kim Đan. Tù Đan khóa này được chế tạo theo cách đặc biệt, dù dùng đá thí luyện cũng khó kiểm tra được. Thậm chí ngay cả dung mạo Tạ Chinh Hồng cũng thay đổi một lượt, tránh để bị người khác nhận ra.
Tin tức Tạ Chinh Hồng muốn tới Kinh Tàng tiểu thế giới cũng không phải bí mật, phỏng chừng sau khi hắn rời đi, người nên biết đều đã biết hết cả rồi, mà bộ dáng hắn ra sao có lẽ cũng đã lan truyền đến nơi này. Tạ Chinh Hồng muốn những tông môn này có thể để mình bù đắp kiến thức, dĩ nhiên phải điều chỉnh một chút rồi.
Đương nhiên, Tạ Chinh Hồng sử dụng Dịch Dung đan chứ không phải Thiên Biến Vạn Hóa phù.
Tuy rằng Văn Xuân Tương nói mình đã có thể vẽ được tấm phù không khác loại đó lắm, nhưng Tạ Chinh Hồng vẫn từ chối ý tốt của Văn Xuân Tương.
Biến thành cái dạng gì cũng không quan trọng lắm, nhưng lỡ may lại biến thành một nữ tu đến Đoạn Trần tự thì sẽ khá gây chú ý.
Nữ tu thường ít hơn nhiều so với nam tu, trong Phật môn thì càng hiếm hơn nữa. Vả lại, khuôn mặt khi biến thành nữ của Tạ Chinh Hồng hiện nay đã trở thành mục tiêu truy đuổi trong Đạo Xuân trung thế giới, vô số người muốn moi được bí mật của di phủ Hướng Nguyệt từ “nữ tu xinh đẹp” này. Nếu chẳng may biến thành bộ dáng của “A Hồng cô nương” thì đúng là gặp nghiệp chướng.
Dù sao đây cũng là nơi tuyển nhận Phật tu, không thể quá mức hỗn loạn được. Mà vì có mấy đại sư đang tụng kinh nên từ khi bước vào quảng trường Đoạn Trần tự, các tu sĩ không thể không trang bị võ trang hạng nặng cho mình được.
Phần lớn tu sĩ bắt đầu tìm một chỗ ngồi tụng kinh giống các Phật tu kia, hi vọng để lại ấn tượng tốt với đối phương. Vài người khác thì tìm chỗ trống luyện chế phật châu pháp khí, hoặc cố ý lớn tiếng trao đổi Phật pháp với đạo hữu bên cạnh, rất rõ ràng, những người này đang hận không thể lập tức mang cả thần phật trên chín tầng mây ra đàm luận một phen, nói tóm lại, bát tiên quá hải, các hiển thần thông[1].
Song những Phật tu của Đoạn Trần tự đang ngồi tụng kinh bên trên lại có vẻ không nhận ra điều đó, vô cùng tập trung tiếp tục niệm kinh văn của mình, mí mắt cũng chẳng nâng lên chút nào.
Tạ Chinh Hồng nhìn lướt quá, không tiện chiếm chỗ của người ta, bèn đi tới trước một tảng đá lớn, lấy ra một tấm bồ đoàn đặt xuống, nhắm mắt dựa đầu vào tảng đá nghỉ ngơi. Đương nhiên, trọng điểm là muốn trấn an Văn tiền bối đang bị thương tổn bởi vô số cái đầu trọc lóc xung quanh.
Sau khi uy hiếp, Văn tiền bối liền chặn mọi cảm giác của mình, thể hiện một cách đầy đủ cái gọi là “Có thực lực thì thích làm gì cũng được”.
Nhưng hắn không biết rằng, Văn Xuân Tương không bị đả kích vì mấy tên hòa thượng trọc đầu kia, mà bởi y phát hiện ra mình chỉ còn mỗi cách đó để uy hiếp Tạ Chinh Hồng, sau đó lòng tự trọng bị tổn thương sâu sắc nên mới tạm thời từ chối trao đổi với Tạ Chinh Hồng.
Khi Tạ Chinh Hồng đang nghĩ xem lúc nào thì nên nói chuyện với tiền bối, bỗng có một tu sĩ ngồi xuống cạnh nơi Tạ Chinh Hồng đang dựa.
“Vị đạo hữu này, ngươi đoạt mất chỗ của ta rồi.” Tu sĩ nọ có bộ râu quai nón che kín mặt, pháp y trên người cũng rất mộc mạc, thế nhưng trông lại không hề lôi thôi mà trái lại còn có vài phần tiêu sái xuất trần.
Giọng nói của hắn rất to, dáng người khôi ngô, tuy khuôn mặt bị bộ râu che kín nhưng chắc chắn không phải một kẻ xấu xí.
Thậm chí, còn có thể nói là một mỹ nam cực kỳ có khí chất.
Tạ Chinh Hồng dịch sang một bên, lùi về một góc cạnh tảng đá, nhường lại chỗ ngồi, cười với tu sĩ nọ, “Xin lỗi.”
“Hề hề, đạo hữu đúng là thức thời đó.” Râu quai nón cười vỗ vỗ bả vai Tạ Chinh Hồng, rất không khách khí mà chiếm chỗ ngồi của Tạ Chinh Hồng, nằm luôn xuống đất, chỉ chốc lát sau liền ngủ khò khò.
Tiếng ngáy cũng rất vang dội.
Lập tức có không ít ánh mắt của các tu sĩ bắn xoẹt xoẹt đến đây, nhưng người này vẫn ngủ rất ngon lành.
Thậm chí, trong số các đệ tử Đoạn Trần tự đang tụng kinh cũng có một người không kìm lòng nổi mà mở đôi mắt tôn quý ra xem thử, thấy người nọ ngủ say sưa, khuôn mặt thoáng vặn vẹo một chút, thầm than tâm mình vẫn chưa đủ tĩnh, không bằng hai vị sư huynh, bèn nhắm mắt tụng kinh lần nữa.
Một vài tu sĩ có tâm kế thầm oán hận, không ngờ tên râu quai nón này lại nghĩ ra biện pháp như vậy để lòe bịp thiên hạ? Nhưng mà hiện giờ bắt chước bừa cũng chẳng kip nữa rồi, đành phải âm thầm áp chế sự bất mãn trong lòng, tiếp tục thi triển kỹ xảo của mình.
Thật là thú vị.
Tạ Chinh Hồng nghĩ.
Người râu quai nón này thế mà lại là tu sĩ có Phật tính nhất mà hắn từng gặp kể từ khi tu hành tới nay. Cho dù là Thánh Tâm phật quân Tam Tư cũng không khiến Tạ Chinh Hồng có cảm giác như vậy.
Tiêu sái, siêu nhiên, thậm chí còn cảm nhận được trên người hắn cái gọi là “Chúng sinh bình đẳng”.
Tạ Chinh Hồng mơ hồ cảm thấy mình và tu sĩ này ngày sau sẽ còn dây dưa nhân quả không ít, song với tu vi hiện tại của hắn, vẫn còn lâu mối nhân quả này mới đến. Suy nghĩ một lúc, bèn dứt khoát vứt ra sau đầu, không nghĩ nữa.
Khoảng chừng một hai canh giờ trôi qua, những Phật tu của Đoạn Trần tự đã tụng kinh xong, mặt trời cũng đã lên cao, sắp đến lúc bắt đầu nghi đức chiêu mộ đồ đệ.
Chỉ thấy một Phật tu dẫn đầu thu hồi lại bồ đoàn, vẻ mặt hờ hững, trên tay cầm một chuỗi phật châu, lẳng lặng hành lễ với những tu sĩ ở đây, “Bần tăng là Chân Nhất, rất vui được gặp chư vị đạo hữu.”
Các tu sĩ cũng vội vàng chắp tay chữ thập kính lễ.
Tạ Chinh Hồng từ trên tảng đá đứng lên, vị râu quai nón kia cũng không biết tỉnh từ lúc nào, đôi mắt nhìn chằm chằm Tạ Chinh Hồng, dường như có thể nhìn ra được gì đó ở Tạ Chinh Hồng.
“Pháp hội tuyển chọn đệ tử của Đoạn Trần tự, lập tức bắt đầu.” Giọng nói của hòa thượng Chân Nhất vẫn nhỏ nhẹ như trước, nhưng lại có thể khiến tất cả mọi người ở nơi này đều nghe thấy. Tu vi của y ước chừng là Kim Đan sơ kỳ, xem ra cũng không lớn lắm. Song lại có thể đứng ra tuyển nhận đệ tử thay cho các trưởng lão, có thể thấy địa vị của y ở Đoạn Trần tự cũng không thấp.
“Ngươi biết y hả?” Râu quai nón bỗng quay đầu nhìn về phía Tạ Chinh Hồng.
Tạ Chinh Hồng lắc đầu.
“Ta cũng không biết.” Râu quai nón xòe hai tay, vô tội nhún vai nói.
Lễ tuyển nhận đệ tử của Phật tu đương nhiên không giống của Pháp tu hay Kiếm tu.
Đa phần đệ tử Phật tu đều không am hiểu đấu pháp cho lắm, do đó, tất nhiên sẽ không tạo sát nghiệp bừa bãi. Hơn nữa tu sĩ đến tham gia pháp hội tuyển nhận đệ tử của Đoạn Trần tự đều có tu vi từ kỳ Luyện Khí đến kỳ Trúc Cơ, dù có đánh thì cũng chẳng nên trò trống gì. Vậy nên, hạng mục đấu pháp này đương nhiên bị xem nhẹ, có cũng được mà không có cũng chẳng sao.
Chỉ thấy hòa thượng Chân Nhất hơi nâng tay, tức thì liền có mấy trăm tia sáng vàng bay ra từ tay áo y.
Những tia sáng lần lượt bay đến trước mặt các tu sĩ, biến thành một khối bạch ngọc trống, bề mặt nhẵn nhụi, sờ vào mát lạnh.
“Mời chư vị cứ tự do phát huy, tùy ý viết vài câu lên đó.” Hai Phật tu đứng cạnh hòa thượng Chân Nhất nhất thời lộ vẻ mặt sửng sốt, dường như còn chưa kịp phản ứng.
Mặc dù đã biết tiêu chuẩn tuyển nhận đệ tử mỗi lần của Đoạn Trần tự đều khác nhau, nội dung kiểm tra cũng rất đa dạng, nhưng ít ra trước đó mọi người vẫn có thể đoán được nội dung, sao hôm nay lại chuyển sang viết chữ rồi?
Thay đổi này hơi nhanh quá rồi đó!
Đa số tu sĩ nhất thời không hiểu ra sao, có người lớn mật hỏi một câu, “Xin hỏi tiền bối, chúng ta phải viết những gì?”
“Tùy ý thôi.” Chân Nhất trả lời, “Bảng tổng kết của những bản bạch ngọc này nằm trên tay Hư Nhâm trưởng lão của chúng ta, những gì chư vị đạo hữu viết đều hiện lên trên đó. Nếu có người vượt qua bài kiểm tra, bảng bạch ngọc sẽ lưu lại, ngược lại thì sẽ biến mất.”
Lời này vừa nói ra, lập tức có không ít tu sĩ thay đổi sắc mặt.
Ở Đoạn Trần tự, Hư Nhâm pháp sư gần như chính là một chiêu bài sống.
Nghe nói ông ta nhập đạo từ thưở thiếu niên, vốn là một Pháp tu xuất sắc, sau này lại chuyển sang tu Phật đạo, hôm nay đã là một vị Phật tu kỳ Nguyên Anh, Phật pháp vô biên. Những tu sĩ đến Đoạn Trần tự tám chín phần mười đều vì ông ta, thậm chí ngay cả việc tuyển đệ tử công khai cũng là do ông ta đề nghị. Hiện giờ bản bạch ngọc này là bài kiểm tra đầu tiên của ông ta, mọi người đều không dám xem nhẹ.
Nếu làm bài tốt, không biết chừng còn có thể được lão nhân gia thu làm đệ tử thân truyền ấy chứ!
Tạ Chinh Hồng vươn một ngón tay, linh lực hội tụ ở đầu ngón tay, khi chạm vào bạch ngọc thì ngay tức khắc cảm thấy có điểm kỳ lạ.
Trên tay lập tức như thể đang treo nặng ngàn cân, khó có thể cử động. Nhưng khi đầu ngón tay rời khỏi bạch ngọc thì liền thoải mái trở lại.
Dùng lực càng lớn, thì sự kìm hãm lại càng mạnh.
Tạ Chinh Hồng dừng tay, nếu bảng tổng kết của bản bạch ngọc này đang ở chỗ của một Phật tu kỳ Nguyên Anh, thì hẳn lực kìm hãm sẽ ngộ cường tắc cường[2]. Tạ Chinh Hồng đang dùng Tù Đan khoa nên hiện tại chỉ có linh lực của kỳ Trúc Cơ mà thôi, muốn phá giải khống chế thì vô cùng khó khăn.
Khi làm bài, những tu sĩ khác hiển nhiên cũng phát hiện vấn đề này, trong lòng càng căng thẳng đồng thời cũng dần dần hiểu ra ý nghĩa của bài kiểm tra này.
Người có thể viết được chữ trên ngọc thì mới có đủ tư cách để bước vào Đoạn Trần tự.
Tạ Chinh Hồng ngẫm nghĩ một lát, bỗng nhiên nhắm hai mắt lại.
Râu quai nón bên cạnh lẳng lặng nhìn Tạ Chinh Hồng, ánh mắt thoáng hiện lên ý cười.
Không bao lâu sau, hai mắt lại lần nữa mở ra, ngón tay chạm lên trên bề mặt bạch ngọc, tự do chuyển động một cách dễ dàng, không hề gặp chút trở ngại nào.
Bút tẩu long xà[3], rồng bay phượng múa.
Chẳng mấy chốc, Tạ Chinh Hồng đã viết xong thứ mình muốn: “Nhất tưởng đảo, nhị kiến đảo, tam tâm đảo, tứ vu vô thường khởi thường đảo, ngũ vu khởi lạc đảo, lục vu bất tịnh khởi tịnh đảo, thất vu vô ngã khởi ngã đảo.”[4]
******
★Chú thích:
[1]Bát tiên quá hải, các hiển thần thông: nghĩa là Bát tiên đi qua biển, mỗi người đều trổ phép thần thông. Xuất phát từ truyền thuyết về bát tiên:
Truyền thuyết kể rằng, trong lễ chúc thọ Vương Mẫu Nương Nương, tám vị đại tiên cũng đến dự hội bàn đào, họ kết bạn với nhau đem hoa rải xuống nhân gian để xua tà trừ hại, đi ngang qua biển Đông, thuận đường ngắm nhìn phong cảnh, mỗi vị đều dùng báu vật của mình lướt đi trên sóng. Câu này dùng để ví mỗi người đều có bản lĩnh và phương pháp riêng.
[2]Ngộ cường tắc cường: Nguyên câu là “Ngộ cường tắc cường, ngộ nhược tắc nhược “, nghĩa là gặp đối thủ mạnh thì càng mạnh, gặp đối thủ yếu thì càng yếu. Khi gặp đối thủ mạnh thì ý chí, khát vọng chiến thắng của chúng ta sẽ càng lớn hơn, dù không thắng được thì cũng mạnh mẽ hơn ban đầu. Còn khi gặp đối thủ yếu thì ta không dùng toàn lực mà chỉ dùng một phần nên sẽ yếu hơn.
[3]Bút tẩu long xà: nét chữ như rồng rắn múa lượn. Ý chỉ phong cách thư pháp phóng khoáng và sống động, hoặc cũng có thể hiểu là nét bút vừa nhanh vừa mạnh, mạnh mẽ mà duyên dáng.
[4]Nhất tưởng đảo, nhị kiến đảo, tam tâm đảo, tứ vu vô thường khởi thường đảo, ngũ vu khởi lạc đảo, lục vu bất tịnh khởi tịnh đảo, thất vu vô ngã khởi ngã đảo: là Thất điên đảo – bảy trạng thái sai lệch đảo điên của tâm thức. “Điên đảo”, nói tắt là “đảo”, có nghĩa là đảo lộn sự thật, trái ngược với sự thật. Người phàm phu vì không có trí tuệ nên đối với mọi sự lí ở đời, luôn luôn có bảy tư tưởng điên đảo. Theo Du Già luận quyển tám, Thất Điên Đảo bao gồm như sau:
1.Tưởng đảo: tư tưởng điên đảo, ví dụ, vạn pháp do duyên sinh mà cho là do một vị thượng đế sáng tạo, v.v…
2.Kiến đảo: tức là tà kiến, như không tin nhân quả nghiệp báo, mà tin vào quyền năng của ông thần này, bà chúa kia, v.v…
3.Tâm đảo: tức vọng tâm, đối với sự việc gì cũng nghĩ quấy, thấy biết sai lạc, rồi khởi niệm tham lam, ganh tị, sân hận, oán thù, v.v…
4.Thường đảo: vạn pháp ở thế gian là vô thường mà cho là thường hằng, sinh tâm bám chặt không rời.
5.Lạc đảo: Thế gian là một biển khổ mênh mông, nhưng cứ cho là vui sướng, cho nên luôn luôn tham đắm, đeo đuổi, để rồi gây bao tội lỗi mà không biết hồi tâm.
6.Tịnh đảo: Thế gian đầy dẫy phiền não cấu uế, mọi sự đều bất tịnh, nhưng cứ cho là tịnh, rồi mải mê tham cầu bám giữ, gây bao điều ác, ưu phiền cho mình và mọi người, mà không biết hướng thiện.
7.Ngã đảo: Tự thân và vạn pháp ở thế gian đều là vô ngã, nhưng cứ cho là có ngã chân thật, cho nên tham cầu, giữ chặt, ích kỉ, ngạo mạn, không biết buông xả, không biết vì người làm điều lợi ích, v.v…