Dĩnh Xuyên Tuân thị là một dòng họ lớn của Dự châu, thực lực vô cùng hùng hậu.
Hai đời con cháu có hơn mười người nổi tiếng thiên hạ. Trong đó có tám người tiếng tăm nhất, vì thế gọi là Tuân thị Bát Long. Tên Tuân Úc này chính là một trong số Bát Long.
Tuân Úc rất nhỏ, đã được mọi người cho là có tài vương tá.
Sau khi Đổng Trác vào kinh, hắn liền từ quan về quê, dẫn theo gia quyến tới Ký châu. Sau đó theo thời gian, Tuân Úc cho rằng Viên Thiệu không làm được chuyện lớn. Sau khi chư hầu thảo phạt Đổng Trác, Tào Tháo đặt bản doanh ở quận Đông. Tuân Úc liền đi tới đó, nương nhờ chỗ Tào Tháo. Còn Tào Tháo cũng đặc biệt thích hắn, cho hắn giữ chức Tư mã. Năm đó Tuân Úc chỉ mới hai mươi chín tuổi, là danh sỹ đầu tiên có ý nghĩa thật sự trong doanh trại Tào Tháo. Về sau, Tuân Úc nhiều lần lập công, giới thiệu cho Tào Tháo rất nhiều người. Năm Kiến An thứ nhất, Tào Tháo nghênh phụng thiên tử, chính là do Tuân Úc đưa ra mưu sách. Sau khi rời đô tới Hứa Đô, Tào Tháo liền phong Tuân Úc làm thị trung kiêm chức thượng thư lệnh.
Đặng Tắc lớn như vậy rồi nhưng đây cũng là danh sỹ thật sự ý nghĩa trong số những người hắn tiếp xúc.
Chàng trai bên cạnh Tuân Úc cười nói: “Quách Gia bất tài, chỉ là quân sư tiếp rượu cho Tư Không.”
“Thì ra là quỷ tài Quách Phụng Hiếu?”
“Quỷ tài?”
Quách Giai ngây người, nhìn sang Đặng Tắc.
Tên là do Tào Bằng nhắc đến với Đặng Tắc.
Hai người có lần từng nói đến mưu sỹ trong doanh trại Tào Tháo, Tào Bằng đưa ra bốn người, đó là Tuân Úc, Quách Giai, Trình Dục và Tuân du. Đây cũng là bình luận của hậu thế, nói dưới thời Tào Tháo có năm đại mưu sỹ, ngoài bốn người này ra còn có một người nữa chưa từng quy phục. Đó là Giả Hủ.
Cũng trong cuộc tranh luận này, Tào Bằng đã nói ra tên của quỷ tài.
Tuân Úc không nhịn nổi cười khà khà, “Câu quỷ tài này của Đặng tiên sinh đúng là tuyệt hay. Phụng Hiếu có tầm nhìn xa, nhiều mưu lược, đúng là kỳ tài thiên hạ. Có điều, kỳ tài này lại không bao hàm hết ý bằng câu quỷ tài của tiên sinh… Chủ công nói, nếu Phụng Hiếu sinh ở đời Sở Hán, chưa chắc đã thua Trần Bình.”
Câu này khiến cho Quách Gia đỏ mặt xấu hổ.
Đặng Tắc thấy kỳ lạ: Không nghe nói Điển quân và hai người này có giao tình, sao lại…
Trong lúc đang nghi ngờ thì lại nghe Tuân Úc nói: “Ta nghe nói Quân Minh được kỳ nhân tương trọ, vì thế cùng Phụng Hiếu tới gặp ngài. Tiên sinh đừng trách, bọn ta không phải tìm Quân Minh, thực ra là tới vì tiên sinh.
“Vì ta mà tới?” Đặng Tắc vội xua tay, “hai vị tiên sinh khách khí rồi, Đặng Tắc chỉ là kẻ vô danh tiểu tốt, sao xứng được nhị vị xem trọng.”
Tuân Úc nói: “Tiên sinh đừng khách sáo, thực ra ta tới gặp tiên sinh là có một chuyện muốn hỏi.”
Trong lòng Đặng Tắc không khỏi băn khoăn…
Không có việc sẽ không tới, Tuân Úc và Quách Gia đột nhiên tới, khiến Đặng Tắc thấy băn khoăn.
Hắn không rõ hai người này rốt cuộc có mục đích gì, nhưng thầm cảm thấy, bọn họ có ý thăm dò. Thế nhưng thăm dò cái gì? Tại sao lại thăm dò? Đặng Tắc đoán không ra. Hắn vốn không phải là người nhanh trí, đối mặt với tình huống bất ngờ này, đương nhiên hơi chút hoảng loạn.
“Tiên sinh đại tài, Đặng Tắc đâu có tài có đức gì, không xứng được thị trung đại nhân hậu đãi thế.”
Đặng Tắc xuất thân bần hàn, mặc dù là người thôn Đặng ở Nam Dương nhưng lại chỉ là một nhánh nhỏ. Còn Tuân Úc xuất thân từ địa tộc Dĩnh Xuyên, từ nhỏ thân phận hiển hách, tài hoa, là danh sỹ khi đó. Nếu luận trong cửu phẩm của thời kỳ Ngụy Tấn, Đặng Tắc chắc chắn dưới tứ phẩm, thậm chí có thể là ngũ phẩm, lục phẩm; Còn Tuân Úc ở vị trí nhất phẩm, hai người khác biệt một trời một vực.
Tuân Úc vừa cười vừa nói: “Đặng tiên sinh đừng khách khí, xin hỏi tiên sinh đọc sách gì thế?”
Đây là cuốn sách ghi chép lời hỏi đáp giữa thầy và trò.
Đặng Tắc không dám cao ngạo, vội trả lời: “Tại hạ đọc Tiểu đỗ luật.”
Tiểu đỗ luật chính là hán luật mà Đỗ Diên Niên trong số mười một công thần của Kỳ Lân các nổi tiếng đã giải thích. Đỗ Diên Niên là con trai út của ngự sử đại phu Đỗ Chu thời Vũ Đế. Còn Đỗ Chu cũng là khốc lại có tiếng khi đó, cũng từng biên soạn hán luật. Để phân biệt hai cha con, mọi người gọi hán luật mà Đỗ Chu biên soạn là đại đỗ luật, còn hán luật mà Đỗ Diên Niên biên soạn cũng chính là tiểu đỗ luật.
Từ thời Đông hán đến nay, đa phần lấy tiểu đỗ luật làm chuẩn, hơn nữa còn kéo dài tới hiện nay.
Quách Gia hỏi: “Tiên sinh đang đọc tiểu đỗ luật nào vậy?”
Tiểu đỗ luật kéo dài hai trăm năm, đương nhiên xuất hiện nhiều thay đổi. Ví dụ Diên Úy Ngô Bình đời Thuận Đế, ba đời nghiên cứu tiểu đỗ luật; Năm Vĩnh Bình, Quách Cung tương tự cũng nổi tiếng vì truyền dạy tiểu đỗ luật, ông xử án ba mươi năm, môn đồ đông hơn mấy trăm người…
Người nghiên cứu cái này nhiều, ắt sẽ có nhiều chia rẽ.
Có cách nói Ngô môn đỗ luật, Quách Thị Đỗ Luật vẫn tồn tại song song tranh chấp lẫn nhau.
Cái gọi là Trọng Tôn hán luật chính là tiểu đỗ luật mà Quách Cung sửa chữa. Quách Cung, tự Trọng Tôn, người Dĩnh Xuyên.
Tuân Úc nhìn sang phía Quách Gia, cười nói: “Phụng Hiếu, không ngờ con cháu Quách Thị như ngươi lại bỏ không đọc tiểu đỗ luật vốn vẫn được mọi người xem trọng.”
Đặng Tắc ngây người, “Quách Tế Tửu, phải chăng là con cháu của Đông Hải Công?”
Đông Hải Công là chỉ cha của Quách Cung tên là Quách Hoằng. Nghe nói Quách Hoằng xử án ba mươi năm, chưa từng xuất hiện một vụ án oan sai nào, được ví với cái tên Đông Hải nên mới có tôn hiệu Đông Hải Công. Tiểu đỗ luật mà Quách Cung học đều lấy dựa vào việc xử án của cha mình là Quách Hoằng, năm Nguyên Hòa thứ ba đã sửa đổi điều thứ bốn mươi mốt trong luật lệnh, sửa trọng hình thành hình phạt nhẹ, chủ trương định án nên từ khoan dung tới nhẹ nhàng, được người đời ca tụng.
Mặt Quách Gia đỏ bừng, ấp úng nói: “Gia mặc dù là con cháu của Quách Thị nhưng lại không nghiên cứu sâu về hình luật.”
Đặng Tắc nghe thấy thế có đôi chút thất vọng.
Đồ đệ của cha con Quách Hoằng và Quách Cung lên tới hàng trăm người, cái Đặng Tắc học chỉ là một nhánh trong số hàng trăm người. Có thể nói, so với Trọng Tôn hán luật ban đầu đã có rất nhiều khác biệt lớn, vì thế luôn muốn nghiên cứu chuyên sâu hơn. Tuy nhiên Đặng Tắc cũng biết, Quách Gia không học hình luật, cũng có thể tha thứ được. Suy cho cùng xuất thân đại tộc, thêm nữa luật pháp cuối đời Đông Hán bại hoại, con cháu thế gia rất ít người tiếp xúc với điều này.
Đặng Tắc học hình luật cũng là bất đắc dĩ.
Hắn không tiếp xúc được tới học vấn cao sâu gì, chỉ là học luật pháp để mưu sinh.
Tuân Úc cười nói: “Nói thế tức là tiên sinh và Phụng Hiếu còn có tình đồng môn.”
“Không xứng, không xứng…”
Đặng Tắc luôn miệng khách sáo.
“Thị trung đại nhân đừng gọi ta là tiên sinh. Đặng Tắc tự là Thúc Tôn, đại nhân kêu tên tự của ta là được.”
“Đã thế ta cũng không khách khí” Tuân Úc trầm ngâm giây lát, nhìn sang Quách Gia. Trong khi đó Quách Gia lại gật đầu, cất lời nói: “Thúc Tôn hiền đệ, ta và Văn Nhược hôm nay tới, thực ra có một việc muốn thỉnh giáo. Chắc Thúc Tôn hiền đệ cũng biết, hiện Viên Thiệu dẫn đầu vùng Hà Sóc, lớn mạnh trong thiên hạ. Tư Không đại nhân dù chiếm giữ vùng Dự, Duyện nhưng đông có Lã Bố, nam có Trương Tú, không tránh khỏi có chút khó xử. Mấy hôm nay, động tĩnh của Tư Không đại nhân rất thất thường, mọi người đều cho rằng là vì lý do mất đi lợi ích ở chỗ Trương Tú. Hôm qua ta dò hỏi mới biết là vì một bức thư của Viên Thiệu… Tư Không đại nhân muốn thảo phạt Viên Bản Sơ nhưng lại lo không thể địch nổi, vì thế mà…”
“Hiền đệ, có cao kiến gì không?”
Tuân Úc nhìn Đặng Tắc chăm chú.
Đặng Tắc biết, đấy có thể là một cơ hội quan trọng nhất trong cuộc đời hắn.
Trước đây, dù được Mãn Sủng xem trọng nhưng suy cho cùng hắn ta chỉ là ngoại thần. Xét về địa vị, không thể nào sánh nổi với hai người đang đứng trước mặt.
Mặc dù không rõ, Tuân Úc và Quách Gia tại sao tới thỉnh giáo hắn nhưng trong lòng cũng thêm hưng phấn.
Đặng Tắc hít một hơi thật sâu, lấy lại tinh thần, lát sau mới đáp: “Thời cổ thành bại cuối cùng phải xem tài cán, vì thế người có tài năng có thể lấy yếu thắng mạnh, còn người bất tài thì từ mạnh biến thành yếu. Ví dụ về Cao Tổ và Tây Sở bá vương đã đủ chế chứng minh vấn đề… Viên Thiệu bên ngoài thì tỏ ra khoan dung nhưng là người đa nghi không quyết đoán. Xu thế dù mạnh nhưng lại khó duy trì lâu. Nước chảy tuy yếu, nước chảy đá mòn… Nay Tào Công như nước chảy, Viên Thiệu như dòng nước xiết. Dòng nước xiết không được lâu, còn nước chảy lại làm mòn đá. Tào Công muốn chinh phạt Viên Thiệu, cần phải từ từ. Trương Tú bất định, tranh đấu với Viên Thiệu, không tránh khỏi hậu phương bị xáo động, đây không phải là kế sách an toàn.”
Khuôn mặt Tuân Úc chợt nở nụ cười.
Hắn nhìn sang Quách Gia, đồng thời đứng dậy chắp tay: “Hôm nay được nghe lời Thúc Tôn, bỗng thấy trong lòng sáng ra.”
Đặng Tắc vội đứng dậy đáp lễ, mặt đỏ bừng…
Nói thực, hắn còn không rõ tình trạng giữa Viên và Tào. Hơn nữa với năng lực của hắn, cũng rất khó nhìn được đầu mối trong đó. May mà trước đây khi Tào Bằng tới nhờ cậy hắn, Đặng Tắc nghe Vương Mãnh nói, Tào Bằng từng đàm luận đại thế thiên hạ với Tư mã Huy và Bàng Quý, vì thế cũng có dò hỏi qua.
Khi đó Tào Bằng lặp đi lặp lại câu “thập thắng thập bại.”
Vì vậy mà nó đã để lại ấn tượng của Đặng Tắc rất sâu sắc.
Chỉ là ban nãy Tuân Úc hỏi hắn, hắn không nhớ ra nội dung cụ thể của thập thắng thập bại.
May sao Đặng Tắc cũng có lý giải riêng của mình về thập thắng thập bại, vậy nên sau vài phút suy ngẫm đã trình bày được quan điểm riêng.
Tuân Úc nói: “Hiện Quan Trung bất ổn, Khương Hồ và Lưu Quý Ngọc uy hiếp mọi lúc. Tư Không đại nhân chiếm giữ Dự, Duyện nhưng khó để bình ổn Quan Trung. Mạo muội hỏi Thúc Tôn hiền đệ, có cao kiến gì về chuyện này không?”
Nếu nói, câu hỏi của Quách Gia lúc trước là đại cục; Vậy thì câu hỏi hiện giờ của Tuân Úc lại đi vào chi tiết.
Đặng Tắc trầm ngâm không nói, “Quan Trung có rất nhiều tướng, chỉ là không thống nhất được với nhau. Thực ra muốn ổn định Quan Trung cũng không khó. Đầu tiên phải nhanh chóng loại bỏ Lý Thôi và Quách Dĩ; Thứ hai, sai người tới Hoài Nhu liên hòa với cao thủ. Như thế, dù không thể yên ổn lâu nhưng đã khiến chúng cân bằng với nhau, duy trì trung lập. Có điều, dùng cách này cần có một ứng cử viên thích hợp, tiếc rằng tại hạ hiểu biết nông cạn, khó nói ra tên người phù hợp.”
Tuân Úc mắt lim dim, trầm ngâm không nói.
Sau khi đưa mắt sang nhìn Quách Gia, hắn gật đầu, đột nhiên đứng dậy chắp tay nói: “Hôm nay mạo muội tới làm phiền, khiến Thúc Tôn lỡ không ít việc. Ta và Phụng Hiếu xin cáo từ trước, khi nào rảnh rỗi, Thúc Tôn đừng ngại tới chỗ bọn ta, đôi bên gần gũi hơn mới được.”
Quách Gia cũng nói: “Đúng, thế, dù ta chưa học hình luật nhưng gia tổ cũng để lại sử sách ghi chép. Nếu Thúc Tôn có hứng thú, ta sẽ về mang tới những cuốn sách này… Kha kha, chúng ta cũng coi như là đồng môn, sau này nên gặp gỡ nhiều hơn nữa.”
Đặng Tắc mừng ra mặt, chắp tay cảm tạ.
Tuân Úc và Quách Gia sánh vai bước ra khỏi phủ Hổ Bì, nhưng lại không về phủ Xa Kỵ.
Hai người vừa đi vừa thầm thì.
“Văn Nhược, Đặng Tắc thế nào?”
“Có kiến thức, hơn nữa có tài.” Tuân Úc đáp:
“như đã nói, ý kiến hai ta đồng nhất, đáng để tiến cử. Có điều, suy cho cùng hắn từ quận Nam Dương tới, tốt nhất vẫn nên quan sát đã. Chi bằng thế này, ta cho người tới Cức Dương dò hỏi đã?”
“Cách này hay, người này dù không có tài vương tá nhưng có khả năng cơ biến… ban nãy ta nhớ ra, trước đây lúc xay ra loạn Lang Lăng, Mãn Bá Ninh từng cử một người họ Tào làm đốc bưu, sự việc sau đó được giải quyết dễ dàng. Người đó hình như tên là Đặng Tắc.”
“Sao?”
“Vì việc này, Tuân Tập còn cử hắn người tới dò hỏi, Công Đạt còn từng hỏi ta một lần, chỉ là khi đó ta không để ý.”
Tuân Úc xoa má nhè nhẹ, “nói thế, Đặng Thúc Tôn này quả là có bản lĩnh.”
“Ừ, có điều như ngươi nói, quan sát thêm đã.”
Chuyến viếng thăm bất ngờ của Tuân Úc và Quách Gia khiến Đặng Tắc rất căng thẳng.
Hắn cũng không biết, rốt cuộc hắn ứng phó ra sao, có hợp với suy nghĩ của Tuân Úc và Quách Gia không. Mang tâm trạng thấp thỏm, hắn đợi hai ngày. Trong hai hôm đó, Tuân Úc không hề xuất hiện. Còn Quách Gia nói được là làm được, hắn cử người mang đến rất nhiều quyển sách và tài liệu ghi chép mà Quách Cung để lại. Trong lòng Đặng Tắc có chút thất vọng nhưng rất nhanh đã bị thu hút bởi những quyển sách đó và dẹp chuyện này sang một bên.
Còn Tào Bằng không rõ lắm về chuyện này.
Đặng Tắc là người rất cẩn thận, chuyến viếng thăm của Tuân Úc và Quách Gia, trước khi hắn chưa làm rõ ý đồ của họ thì cũng không muốn nói cho người khác.
Bản thân Tào Bằng lại rơi vào một chuyện rắc rối.
Điển Mãn sau khi thất bại trong cuộc thách đấu, hình như trở nên cứng đầu hơn.
Mỗi sáng đều chạy tới Ô Bảo, trước tiên là xem Tào Cấp rèn đao, sau đó lại kéo Tào Bằng ra tập.
Ban đầu, Điển Mãn lao vào ầm ầm, nhưng thường kiên trì không được bao lâu đã bị đập cho mặt mũi sưng húp…
Tuy nhiên cùng với sự quen thuộc của Điển Mãn đối với trận cát, và sau khi hắn ngầm quan sát cách xông vào của Tào Bằng đã nghĩ ra được một số môn đạo.
Sau ba ngày tập, Điền Mãn đã có thể trụ được một tuần trà.
Suy cho cùng, hắn được người chỉ bảo và cũng có tinh thần cầu tiến, tốc độ lao vào trận cát rất nhanh đã đuổi kịp được Vương Mãi và Đặng Phạm. Mặc dù không đạt được trình độ như Tào Bằng nhưng quả thực tiến bộ rất nhanh, võ công của hắn vốn không kém, sau khi luyện tập với các túi cát, cơ thể khéo léo hơn và linh hoạt hơn trước nhiều. Hiệu quả trông thấy rõ rệt, đương nhiên Điển Mãn cực kỳ hưng phấn.
Đồng thời lúc này, tên của Tào Cấp ngày càng nổi tiếng trong đô thành.
Trong giới làm ăn đã lưu truyền rất nhiều phiên bản liên quan đến Tào Cấp. Có chuyện kể, hắn là lưỡi câu của Mạc gia, có người nói ông là hậu duệ của tôn sư nghề rèn... Thậm chí còn có lời đồn, nói Tào Cấp biết phép thần tiên, có được bí pháp thần tiên nên rèn đao dễ như trở bàn tay. Các tin đồn càng ngày càng lan rộng đến nỗi về sau không thể dập tắt được, từ Hứa Đô lan truyền ra bên ngoài.
Ngay cả Tào Tháo cũng bắt đầu chú ý tới chuyện này.
Có điều hắn không đi dò hỏi Điển Vi, chỉ muốn xem cuối cùng chuyện này sẽ kết thúc ra sao…
Như vậy, bất giác thời gian đã vào giữa hạ.
Xuân đi hạ tới, thời tiết dần nóng lên. Mặt trời gay gắt chiếu xuống. Cho dù ngồi trong bóng râm cũng khiến người ta có cảm giác như ngồi trong lò lửa.
Tháng năm năm Kiến An thứ hai, Lưu Biểu cử Đặng Tế tiến đánh Lang Lăng.
Người đứng đầu Lang Lăng là Tuân Tập vội vã ứng chiến, trong lúc bất cẩn bị Đặng Tế mai phục, chết trận ở dưới chân núi Quả Sơn.
Tin tức truyền tới Hứa Đô, Tào Tháo vô cùng giận dữ. Hắn vốn định chinh phạt Lã Bố, nhưng vì chuyện này đành phải thay đổi kế hoạch.
Trong tháng năm, Tào Tháo hạ lệnh cho Thái thú quận Nhữ Nam là Mãn Sùng đưa quân tới Quả Sơn.
Sau đó hắn đích thân giám sát, lấy Mãn Sùng làm tiên phong, tấn công mạnh vào quận Nam Dương, chỉ trong mấy ngày đã công phá được Phục Dương. Sau khi Đặng Tế đại thắng ở Lang Lăng, không tránh khỏi sự đắc ý. Nhưng lập tức, hắn đã bị Mãn Sủng đánh bại, thất thểu trở về, cuối cùng rút lui trấn giữ huyện Hồ Dương, phòng thủ nghiêm ngặt…
Tào Tháo thâm nhập sâu vào Nam Dương, tuyên chiến với Lưu Biểu.
Lưu Biểu nổi trận lôi đình, nhưng trước xu thế xuất binh mạnh mẽ lần này của Tào Tháo, hắn cũng phải thận trọng…
“A Phúc”
Sáng ra, Điển Mãn đã tới Ô Bảo tìm Tào Bằng.
Tiếp xúc hơn một tháng khiến cho Điển Mãn thân mật với Tào Bằng hơn. Lúc đầu, hắn cũng hơi coi thường Tào Bằng, nghĩ hắn không lợi hại như cha mình đã nói. Tuy nhiên theo thời gian, thời gian tiếp xúc với Tào Bằng nhiều hơn đã dần thay đổi thái độ của hắn. Đừng thấy Tào Bằng nhỏ tuổi, hơn nữa gày yếu hơn hắn. Nhưng hiểu biết lại hơn Điển Mãn rất nhiều.
Thêm vào đó Đặng Tắc và Quách Gia qua lại vài lần khiến Điển Vi càng coi trọng người này.
Điển Mãn đối với Tào Bằng bắt đầu có sự khâm phục…
Tào Bằng vừa kết thúc buổi tập sáng, đang chuẩn bị tới lò rèn giúp đỡ.
“A Mãn, việc gì thế?”
“Ngươi có thể giúp ta không?”
Điển Mãn nay cũng không để ý tới việc Tào Bằng gọi tên hồi nhỏ của hắn, mà nhìn Tào Bằng với ánh mắt khẩn cầu.
Tào Bằng ngạc nhiên: “Giúp ngươi? Ngươi làm sao?”
“À… vẫn là cha ta” Điển Mãn thở dài, “ngươi cũng biết, lần này chủ công xuất binh tới Nam Dương lại không mang cha ta theo, mà chọn Hứa Chử. Hai ngày nay cha ta không vui, luôn mồm nói chủ công không tin tưởng ông, xuất binh không dẫn ông đi cùng. Ở nhà uống say mèm… Ta thấy tâm trạng ông u uất nhưng lại không biết khuyên nhủ thế nào. Ngươi thông minh hơn ta, giúp ta nghĩ cách đi?”
Tào Bằng nghe thế chợt hoảng hốt.
Lần này Tào Tháo chinh phạt huyện Hồ Dương, không dẫn Điển Vi theo mà chọn Hứa Chử.
Vì thế Điển Vi khó chịu, bản tính cáu giận bùng lên, không thể kiềm chế nổi.
Tào Bằng nghĩ một lát bèn gật đầu đáp: “Ta cũng định vào thành một chuyến. Có ngày không bái kiến Điển thúc phụ, đúng lúc có thể thăm dò một chút.”
“Biến… đi về luyện công” Tào Bằng không khách khí nói: “Nếu ngươi không thể trụ được một tuần hương trong trận cát, đừng nghĩ đến chuyện đi.”
“Hả?”
Vương Mãi xị mặt.
“A Phúc, ta đã gần bốn mươi ngày không ra ngoài rồi, để ta đi một chuyến đi.”
“Đừng nằm mơ” Tào Bằng nói, hét về phía Hạ Hầu Lan: “Hạ Hầu, trông chừng hắn, nếu dám trốn đi, cẩn thận ta tính với ngươi.”
Vương Mãi xị mặt, đành phải từ bỏ.
Tào Bằng thay một chiếc áo trắng, cùng Điển Vi ra khỏi Ô Bảo.
Hai người lên ngựa, lao thẳng về Hứa Đô. Không lâu sau đã tới ngoài thành Hứa Đô…
Điển Mãn cũng khá nổi tiếng ở Hứa Đô, vì thế môn bá không cản lại. Hai người rất nhanh đã tới ngoài cửa phủ Hổ Bôn, lại thấy Đặng Tắc đang rảo bước ra khỏi phủ.
“Anh rể, anh sắp đi sao?”
Đặng Tắc cười, “A Phúc, sao đệ lại tới đây? Ta đã hẹn bạn, đang chuẩn bị đi.”
“Điển thúc phụ ở nhà không?”
Đặng Tắc nhăn mũi, “luyện công trong sân. Tình hình hôm nay rất tốt, từ sáng tới giờ chưa uống rượu… đệ tới đúng lúc lắm, đi thăm ông ấy đi.”
Tào Bằng cũng không hỏi Đặng Tắc đi đâu, chắp tay cùng Điển Mãn đi vào phủ.