Trong Thông u lục do
Trần Thiệu người đời Đường viết, huyện úy[1] huyện Thanh Hà. Khi ấy,
trong thôn có bà lão đến thăm nhà sư ở một ngôi chùa, trên đường đi qua
một nơi hoang dã, thấy người phụ nữ xinh đẹp mặc áo trắng đi giữa đám cỏ cây um tùm, khóc lóc rất thê lương. Dần dần người phụ nữ ấy đi đến một
gò đất nhỏ, ôm lấy gò đất hoang đó mà khóc, sau đó quỳ xuống, dường như
đang làm gì ở đó. Bà lão thấy lạ, liền đến gần để hỏi thăm, đang nhanh
chóng đi về phía đó thì người phụ nữ ấy lập tức đứng dậy, chạy ra xa để
tránh. Bà lão đành phải quay đầu bỏ đi, nhưng khi ngoảnh lại nhìn, người phụ nữ đã quay về chỗ cũ. Cứ như thế mấy lần, bà lão đoán có lẽ không
phải người sống, liền vội vàng bỏ đi. Hơn một tháng sau, vợ Phòng Trắc
là Trịnh Thị chết vì bạo bệnh, linh cữu được chôn trên gò đất hoang ấy.
Mà dung mạo và quần áo khi chị ta chết giống hệt người phụ nữ mà bà lão
đã nhìn thấy.
[1] Huyện úy: Một chức quan, dưới huyện lệnh.
Trịnh Thị lâm bạo bệnh mà chết, chứ không phải là bệnh tật triền miên lâu
năm, nhưng linh hồn của chị ta lại thoát khỏi thể xác trước khi chị ta
lâm bệnh. Hơn nữa, sinh hồn này còn biết trước được rằng mình sẽ chết và nơi mình sẽ được chôn, đến nơi đó trước để viếng chính mình. Điều kỳ lạ là, nhận thức của linh hồn lại không cho bản thân Trịnh Thị biết, hoàn
toàn là hành vi độc lập của linh hồn, thậm chí cũng không báo mộng cho
Trịnh Thị.
Quan niệm này dường như thấy rất nhiều ở đời Đường.
Trong Triều dã thiêm tái[2] do Trương Trạc viết xuất hiện sớm hơn cả
Thông u lục, viết về thời của Võ Tắc Thiên, quan lang trung địa phương
Châu Tử Cung mắc bạo bệnh chết, đến âm gian, bị đưa vào một đại điện mà
“đại đế ngồi trên điện, Bối Tử Nghi đứng hầu ở bên”. Đại đế chính là
chồng của hoàng đế Tắc Thiên, là Đường Cao Tông Lý Trị đã qua đời, còn
Bối Tử Nghi chính là phán quan Tịnh Châu[3] đương nhiệm. Cao Tông nói:
“Người ta cần là Hứa Tử Nho, sao lại bắt Châu Tử Cung đến? Mau thả ông
ta về đi!” Như thế Châu Tử Cung được trả về dương gian. Khi ấy, Hứa Tử
Nho đang làm thiên quan đãi lang, tối hôm ấy đột nhiên chết, chắc chắn
bị gọi đến chỗ của đại đế. Võ Tắc Thiên nghe nói tới chuyện này, thậm
chí còn cảm thấy kỳ lạ, liền sai người về Tịnh Châu, xem xem có phải Bối Tử Nghi đã chết từ lâu rồi không. Không ngờ sứ giả quay về báo cáo, nói rằng Bối Tử Nghi còn đang sống rất khỏe mạnh. Đương nhiên, sau đó Bối
Tử Nghi vẫn phải chết nhưng trước khi ông ta chết, linh hồn đã đến âm
phủ để hầu hạ chủ cũ rồi. Vậy thì người đang ở Tịnh Châu kia sao có thể
“toàn hồn” vì nhân dân phục vụ đây! E rằng không thể dùng thuyết ba hồn
bảy phách để nói quấy quá, bởi vì không thể nói có mấy hồn là có thể hầu hạ mấy chủ nhân được.
[2] Là một tập bút ký, tiểu thuyết đời
Đường, ghi chép những chuyện xảy ra trong triều đình, đặc biệt là chuyện triều chính của Võ Hậu (Võ Tắc Thiên).
[3] Tịnh Châu là tên gọi
ngày xưa của chín châu. Tịnh (hay tính) còn có nghĩa là gộp, ghép, nhập. Tương truyền khi vua Vũ (đời nhà Hạ) trị hồng thủy, đã chia vùng đó ra
làm chín châu.
Việc này có xung đột lớn với quan niệm hồn khí thể phách nhưng lại được nhân gian chứng nhận, nên không ai nghi ngờ tính
khả năng của tình tiết trên. Và những câu chuyện có nội dung tương tự
như thế xuất hiện rất nhiều ở các đời sau, nhưng đa phần là cảnh cáo về
tai nạn hoặc chuyện gì đó. Trong Tục huyền quái lục do Lý Phục Ngôn
viết. Câu chuyện truyền kỳ này bắt đầu từ việc Trần Dần Khác[4] chú ý
đến những lời bóng gió xa xôi về lịch sử thâm cung, sau đó được Chương
Sĩ Chiêu và Biện Hiếu Huyên nghiên cứu, chân tướng đại khái cũng được hé lộ, ám chỉ việc Đường Thuận Tông lên ngôi chưa được một năm không phải
bị bệnh chết mà là bị ám sát. Câu chuyện rất dài và cũng ngoắt ngoéo,
trắc trở, ly kỳ, được giao cho Mai Lý Mỹ, một cây bút lớn, đủ để viết
thành một tác phẩm nổi tiếng. Người bị ám sát rốt cuộc là Hiến Tông hay
Thuận Tông, Thuận Tông trong lịch sử có phải bị ám sát mà chết hay
không, không liên quan đến vấn đề này, ở đây chỉ muốn chỉ ra rằng, cho
dù câu chuyện đó ám chỉ vị hoàng đế nào bị đầu độc, đều đã ở một nơi
khác, hay nói cách khác là ở một “không gian đa chiều” khác “dự đoán” về huyết án giết vua, nhưng âm mưu giết vua này không tiện “diễn tập” nên
mà “dự đoán” về cái chết của vua này đã thật sự “xảy ra”. Nhưng khi
hoàng đế ở đó bị giết rồi thì hoàng đế thân ở dương thế vẫn sống, thậm
chí hoàn toàn không biết đến vai diễn của mình ở không gian đa chiều
kia. (Những tình tiết cụ thể của câu chuyện này chúng ta sẽ nói trong
phần sau: “Bắt hồn trên đường mòn rừng núi”.)
[4] Trần Dần Khác (1890-1969): Nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc.
Quyển ba trong tập Bắc mộng tỏa ngôn của Tôn Quang Hiến sống ở thời Ngũ
Đại[5], có ghi lại cuộc đời của Mã Hy Thanh - đế vương nước Sở, một
trong mười nước thời bấy giờ, trước khi vị hôn quân tàn bạo đoản mệnh
này chết, đại tướng Chu Đạt từ Nam Nhạc Hành Sơn trở về, chưa đến Trường Sa thì “thấy đám mây mù trên sông ôm Hy Thanh đi”. Mặc dù ông ta không
nhìn thấy ma quỷ gì, nhưng biết rằng linh hồn Sở Vương đã bị bắt đi rồi. Nhưng ông ta “im lặng không dám nói”. Tại sao lại thế? Bởi vì lúc này
Mã Hy Thanh vẫn đang sống rất khỏe mạnh. Nhưng đến tối, nghe nói chỉ
thấy “có một vật gì đó đen sì đột nhập vào điện”, sau đó Mã Hy Thanh
băng hà. Mã Hy Thanh mới lên kế vị được hai năm thì đột ngột qua đời,
trong chính sử không ghi lại bất kỳ điều gì, nguyên nhân cái chết lại
đáng ngờ, vì vậy, trong Bắc mộng tỏa ngôn đã ghi lại những lời bóng gió
thời đó, cái chết của Sở Vương nghe nói là do trượt chân trên thềm mà
ngã, đầu đập vào vật cứng, nứt toác, gần như là bị thần vật đánh chết,
thực ra muốn ám chỉ rằng Sở Vương bị mưu sát. Đây chính là trường hợp
trước khi chết một ngày, linh hồn đã bị bắt đi.
[5] Ngũ Đại: tức
Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Năm triều đại này kế
tiếp nhau nắm chính quyền ở Trung Nguyên, Trung Quốc từ năm 907-960.
Cùng trong quyển đó có ghi chép về cái chết của thế tử Tần Vương - Lý Tùng
Vinh xảy ra muộn vài năm sau thời Đường Minh Tông, linh hồn của người
này đã bị bắt đi trước mười hôm. Năm đó, có một vị hòa thượng tinh thông chữ thảo là Văn Anh Đại Sư Ngạn Tiêu, những năm trước khi ở Lạc Dương
được Tần Vương hậu đãi, sau đó ông ta từ Nam Thiên chuyển đến Giang
Lăng, tu tại chùa Tằng Khẩu. Hôm ấy, ông ta hoảng hốt khi thấy Tần Vương mang theo hơn hai mươi tên lính tới thăm. Ngạn Tiêu liền hỏi: “Đại
vương sao lại đến đây?”, nhưng Tần Vương không trả lời, sau đó đột nhiên biến mất như làn khói giữa đám binh lính. Ngạn Tiêu cảm thấy chuyện này thật không bình thường, liền sai người dò la tin tức ở Lạc Dương, quả
nhiên, vài ngày sau Tần Vương bị giết trong nội loạn.
Tương tự
như chuyện của Lý Tùng Vinh nhưng lại ly kỳ hơn là chuyện về Trương Trấn ở những năm đầu thời Nam Tống. Chuyện này có thể đọc trong Trương Trấn
Phủ Cán ở quyển Di kiên chi giáp. Trương Trấn là người có xuất thân hiển hách, tổ tiên Trương Đảo làm tể tướng đương triều, cha Trương Duyên đã
từng làm quan ở Thông Châu, giờ đang ở quê Đức Hưng, Giang Tây, còn bản
thân anh ta cũng đang làm quan ở ty An Phủ, Triều Bắc. Mùa đông năm
Thiệu Hưng thứ bốn, Trương Trấn lâm bạo bệnh rồi chết, trước khi chết
không có bất kỳ triệu chứng hay dự cảm nào, vẫn đến nhiệm sở tiếp khách
như thường, nhưng thực ra mười ngày trước đó, linh hồn của anh ta đã rời khỏi thể xác rồi. Ngày hôm ấy, Trương Trấn sai một tên lính[6] (chính
là loại người bị mắng là “tặc phối quân” trong ‘Thủy hử’) mang một phong thư và một cái hòm vuông đan bằng trúc đến Đức Hưng. Tên lính này đi
được nửa đường cảm thấy đồ đang vác trên vai đột nhiên nặng hơn, sau đó
càng ngày càng thêm nặng, đè xuống khiến hắn ta không thể đứng thẳng
được, liền ném nó xuống đất, mắng rằng: “Cứ như bên trong đựng đầu người chết vậy, sao lại không thể vác được thế này?!”, nhưng đồ của trưởng
quan không thể vứt đi, đành phải cõng nó đến Đức Hưng. Đến gia phủ nhà
họ Trương, tên lính giao cái hòm cho cha của Trương Trấn là Trương
Duyên, mở hòm ra trước mặt hắn ta, thì bên trong chỉ là phổi hươu mà
thôi, không có vật gì khác. Nhưng tên lính vừa quay trở người đi ra,
liền cảm thấy như có thứ gì đó gõ mạnh vào đầu mình một cái, trong không trung có tiếng nói: “Sao ngươi dám mắng ta trên đường đi!” Đúng là
giọng nói của Trương Trấn. Tên lính vội vàng nói liên hồi: “Tiểu nhân
không dám!”, rồi quay đầu chạy vào trong phủ, đến gặp bố mẹ của Trương
Trấn, khóc lóc nói rằng: “Ngày chết đã định, không có gì phải hối hận.
Trấn chưa có con trai, vợ mới cưới khó lòng ở vậy, sau khi cử hành tang
lễ hãy để nàng được về nhà…” Đó chính là giọng nói của Trương Trấn. Hồn
Trương Trấn mượn thân thể tên lính sắp xếp việc hậu sự của mình xong,
tên lính bèn ngã vật xuống đất, phải nửa ngày sau mới tỉnh lại. Thì ra
khi tên lính rời khỏi phủ của Trương Trấn ở Triều Bắc, hồn của Trương
Trấn đã ẩn vào trong cái hòm. Linh hồn này đã đoán biết được cái chết
của mình, nó liền rời khỏi thể xác, đi theo tên lính về quê, đó là ý chí của linh hồn hay “bản thân” Trương Trấn? Linh hồn này sau khi thăm bố
mẹ xong có quay lại thể xác của mình hay không? Lẽ nào không cần tên
lính cõng anh ta quay về sao? Tất cả những khúc mắc đó đều không có cách nào giải thích rõ ràng được. Ngoài ra, linh hồn này không những có
trọng lượng mà còn ngày càng nặng hơn, đó cũng là một điều kỳ lạ.
[6] Những người bị quan phủ đóng ấn trên mặt
Điều kỳ lạ nhất là trước một năm khi người đó chết, linh hồn của người đó đã đến nơi mình sẽ được chôn để khóc lóc, rất hợp với câu thơ của Tô Đông
Pha: “Chưa chết hồn đã khóc.” Trương Soái Chính người đời Tống có ghi
chép trong quyển bốn, Lục Long đồ thuộc cuốn Quát dị chí rằng: “Năm Tống Yến Ninh thứ sáu, trong nội thành, binh lính đi tuần tra ban đêm thường “nghe thấy tiếng khóc rấm rứt vang lên, tìm khắp nơi, nhưng không thấy
ai”. Đến năm thứ bảy, thứ tám, người chết đói đầy đường, tiếp theo đó là bệnh dịch, người chết không kể xiết, khiến vụ lúa thu không có người
gặt hái. Lần “thiên tai” có ảnh hưởng rất lớn đến chính cục thời ấy, một lượng lớn người dân gặp nạn đều kéo về kinh sư, khiến Ảo Tướng Công[7]
là người đưa ra “biến pháp” phải mất mặt, bất đắc dĩ từ chức. Trương
Soái Chính cho rằng đây là “phách triệu chi tiên kiến”, phách triệu
chính là dự đoán, vẫn là cách nói cũ trong Hồng Phạm ngũ hành của Nho
học, nghĩa là chẳng có gì để nói.”
[7] Ảo Tướng Công ở đây chính
là Vương An Thạch (1021-1086): một trong Đường Tống bát đại gia, tám tác giả thi ca nổi tiếng nhất Trung Quốc trong hơn sáu trăm năm, từ nhà Đại Đường đến Bắc Tống. Ông còn chủ trương cải cách Trung Quốc với những tư tưởng đi ngược trào lưu thịnh hành. Nhưng việc “biến pháp” của ông
không cứu được sự suy sụp của nhà Tống, bản thân ông gặp một thất bại
khác: Cuộc chiến với Đại Việt năm 1075.
Những câu chuyện kiểu này tàn khốc mà khiến người cảm thấy kỳ quái nhất, phải kể đến câu chuyện
trong quyển bảy của cuốn Động linh tục chí của Quách Tắc Vân: “Thành Bắc Kinh năm canh Tí (năm 1900), bắt đầu từ mùa hè, đầu tiên là ồn ào
chuyện Nghĩa hòa đoàn[8] sau đó là tám nước liên quân, cả hai vấn đề này đều khiến rất nhiều người chết. Nhưng ngay mùa xuân năm đó đã xảy ra
rất nhiều chuyện kỳ lạ. Khi ấy đang có bão cát liên miên không dứt, có
quan viên bộ sử là Vương Mỗ đi xe ngựa ra bên ngoài Tuyên Vũ Môn thì bị
bạn bè kéo đi uống rượu đêm, đến tận canh bốn mới tan. Khi xe ngựa sắp
đi đến cổng chợ, đột nhiên thấy thấp thoáng có ánh lửa, tiếng người xôn
xao, dường như phía trước đang xảy ra chuyện gì rất lớn vậy. Khi xe đến
gần, đột nhiên một cơn gió mạnh thốc tới, thổi tắt đèn trong xe, con
ngựa kéo xe kinh hãi hí vang, phu xe bị hất ngã xuống đất. Vương Mỗ nhìn qua khe cửa xe, chỉ thấy rất nhiều bóng đen lởn vởn, không đếm được bao nhiêu, giống như chim trên trời, bay lượn vòng quanh, rất kỳ lạ. Cuối
cùng có một người to lớn, thân cao hơn trượng, lướt qua xe mà đi, đám
đông kỳ quái khi ấy cũng đi về hướng tây. Trong nháy mắt, mọi thứ lại
yên tĩnh như cũ và cơn gió lớn kia cũng ngừng thổi. Vương Mỗ lay phu xe
tỉnh dậy, cho xe chạy về nhà, trên đường đi phu xe kể lại những gì mà
ông ta trông thấy, đều là những con ma mất tay mất chân, thủng lỗ chỗ
trên người, nên sợ quá mà ngất xỉu. Cổng chợ là pháp trường xử tử tù,
những người “đứt đầu thủng chân, cụt tay thiếu chân” kia chính là những
hồn ma chết thảm trong vài tháng sau.
[8] Nghĩa hòa đoàn: đoàn thể chống đế quốc xâm lược của nhân dân miền Bắc Trung Quốc tự phát hồi cuối thế kỷ 19.
Câu chuyện này nghe thật kinh khủng, nhưng còn có những chuyện còn đáng sợ
hơn. Trong truyện Thân Mỗ ở quyển hai trong Túy trà chí quái của Lý
Khánh Thần, có kể về Thân Mỗ, người nước Yên làm người phò tá trong mạc
phủ, một đêm cùng ba người bạn thân trong nha môn đánh bài, chơi xong,
ai về phòng người nấy. Thân Mỗ về đến phòng của mình, thấy cửa đóng
chặt, trong phòng lại có ánh đèn sáng rực. Ông ta cảm thấy kỳ lạ, liền
nhìn vào phòng qua cửa sổ, thấy một vị phu nhân không có đầu, đầu đang
đặt trên án sách, và hai tay bà ta đang chải tóc. Thân Mỗ sợ tới mức vội vàng quay lại nơi vừa chơi bài thì thấy ba người bạn đang ngồi chơi
dưới ánh đèn. Thân Mỗ kể một mạch những gì mình vừa nhìn thấy, bảo họ
cùng mình đi xem. Ba người kia cười nói: “Thế thì có gì mà lạ, chúng tôi cũng làm được như thế”, sau đó cả ba người cùng đặt tay lên đầu, ngắt
đầu mình ra, đặt lên bàn. Thân Mỗ kinh hãi, hồn bay phách tán, chạy một
mạch ra khỏi nha môn, tìm một nhà dân ở nhờ qua đêm. Sau khi trời sáng,
có cướp đến nha môn, tất cả người trong nha môn bị giết sạch, chỉ có
Thân Mỗ là thoát được kiếp nạn đó. Ba người bạn kia không may mắn bị
giết chết, vì đêm đó họ đều đã quay về phòng ngủ, vậy ba người ngồi chơi bài dưới ánh đèn kia là ai? Tôi nghĩ có lẽ chính là linh hồn của họ đã
thoát khỏi thể xác trước khi bị giết.
Giữa thế giới u minh và thế giới thực trong con mắt của cổ nhân không chỉ khác nhau về mặt không
gian mà về mặt thời gian cũng có sự khác biệt. Thuyết tương đối của
Einstein đến đây cũng chính là phù thủy nhỏ gặp phù thủy lớn, chỉ có sự
so sánh giữa tiểu thuyết giả tưởng và truyền hình bây giờ, sau này chúng ta sẽ còn nói đến sự tồn tại giữa hai thế giới âm và dương có thể chồng chéo lên nhau, Thâm La điện của Diêm Vương còn có thể xuất hiện ở bất
kỳ nơi nào. Một đời vinh hoa không đủ để đáp ứng giấc mộng, sự đảo lộn
của thời gian càng dễ gặp ở bất kỳ đâu. Vì vậy, những câu chuyện có tư
duy về việc thoát xác như “chưa chết hồn đã khóc” này chưa bao giờ bị
đặt nghi vấn, thậm chí, nếu truy ngược lại thì có lẽ từ trước thời Tấn,
thậm chí là thời Hán đã có những tư duy kiểu này rồi. Trong Sưu thần ký
của Can Bảo có ghi chép lại truyền thuyết về việc bị chết đuối ở trường
thủy thời Tần Thủy Hoàng. Thời ấy, đại hồng thủy dâng lên tận tường
thành. Tri huyện sai nha dịch nhanh chóng báo cáo lên huyện lệnh, huyện
lệnh nhìn thấy nha dịch thì thất kinh hỏi: “Sao ngươi lại biến thành cá
thế này?” (Một bản khác của câu chuyện này là, chỉ có đầu là đầu cá, còn thân vẫn là thân người, có vẻ hợp lý hơn.) Tên nha dịch cũng sợ hãi
nói: “Minh phủ cũng biến thành cá rồi!” Lúc này thành trì còn chưa bị
cơn hồng thủy nhấn chìm, người cũng chưa “hóa thành cá”, nhưng đã hóa
thành hình cá, cũng chính là muốn nói khi sắp chết thì hiện hình báo
trước.
Nhưng từ sau khi Phật giáo được truyền nhập vào, rõ
ràng khái niệm này lại có thêm một bước phát triển mới. Bởi vì có một
thể loại còn cực đoan hơn cả câu chuyện trên ở chỗ, mặc dù người chưa
chết, nhưng linh hồn của anh ta đã làm ma ở âm phủ. Trong Minh báo ký do Đường Lâm người đời Sơ Đường viết, Tạ Hồng Sưởng bị bệnh chết được bốn
ngày lại sống lại, kể về những gì mình đã nhìn thấy ở âm phủ: “Phàm họ
hàng thân thích, có người sắp chết, ba năm trước đều gặp ở âm gian rồi.” Còn trong Kỷ vấn của Ngưu Túc kể về Lưu Tử Cống đến thăm địa ngục:
“Những người đang sống đều là ma cả.” Chi tiết cụ thể hơn không nói,
nhưng ý thì đã rất rõ ràng, tức là linh hồn của những người sống này
đang ở dưới địa ngục chịu trừng phạt cho những tội lỗi của họ.
Những câu chuyện về linh hồn của người sống đang ở địa ngục chịu phạt đã xuất hiện từ đời Đường rồi, khái quát lại chính là nói: “m hình dương thụ.”
Đại khái chia làm hai loại, một là người ác nào đó làm những việc nhẫn
tâm, thất đức mà không chịu cảnh tỉnh sẽ bị Diêm Vương bắt hồn đi, đánh
cho năm trăm thiết trượng, khi anh ta trở về dương gian, mông đít nứt
toác hết cả. Những câu chuyện kể về hiện tượng xuống địa ngục chịu phạt, sau đó vẫn còn được quay về dương gian này tạm gác lại ở đây để sau khi bàn đến vấn đề địa ngục, chúng ta sẽ nói kỹ hơn. Ở đây chúng ta chỉ bàn đến một loại hình “âm hình dương thụ” khác liên quan đến vấn đề chính,
đó chính là linh hồn của những kẻ thất đức này “thường xuyên” ở lại âm
tào, chịu hình phạt dưới âm phủ, còn bản thân anh ta sắp phải chịu cảnh
đau đớn nhưng anh ta lại không hề biết đến chuyện ở âm giới. Loại thứ
hai có thể đọc Tăng nghiệt[9] trong Liêu trai chí dị để biết thêm. Tác
phẩm Liêu trai đã quá quen thuộc với độc giả rồi, không nói kỹ nữa, ở
đây tôi chỉ kể câu chuyện trong Thông u ký do Trần Thiệu đời Đường viết.
[9] Tăng nghiệt: tội lỗi của nhà sư.
Câu chuyện kể rằng Hoàng Phủ Tuân bị âm phủ bắt nhầm, lẽ đương nhiên là sẽ
được thả về ngay, nhưng thím của anh ta cũng là một nhân vật ở âm gian,
không muốn để anh ta mất công đến đây rồi lại phải về tay không, bèn
lệnh cho một vị hòa thượng đưa anh ta đi thăm quan địa ngục, giấu ý định ban đầu, cũng là muốn qua vui chơi để dạy dỗ. Không ngờ vào trong một
tòa thành đen sì, lửa cháy đùng đùng, chỉ thấy vô số tội hồn đang bị cắt lọc da, hút máu, chặt đâm, nghiền nát, tiếng kêu ai oán, đau khổ vang
khắp không trung, âm thanh đó xé trời xé đất. Đột nhiên nhìn về phía bắc thấy có một cánh cửa, lửa bùng bùng phóng ra từ đó, là một trong những
cánh cửa tàn khốc nhất nơi vô gian địa ngục. Lúc này, Hoàng Phủ Tuân
chẳng còn tâm trạng lĩnh ngộ, sợ tới mức muốn rời khỏi đây ngay. Đột
nhiên nghe thấy trong ngọn lửa có tiếng người gọi tên anh ta, là một
tăng nhân ngồi trên chiếc giường sắt bị ngọn lửa nung đỏ, trên đầu, từng chiếc đinh lớn đâm xuyên qua não, máu chảy lên láng dưới đất. Nhìn kỹ
lại một lần nữa, lại chính là “môn đồ tăng” của Hoàng Phủ Tuân - Hồ Biện (Những gia đình giàu có thường có tăng sư, đạo sĩ hành lễ tụng kinh sám hối cho, những tăng ni đạo sĩ này bị coi là “môn đồ” của thí chủ mình.) Kinh ngạc hỏi tại sao ông ta lại ở đây, Hồ Biện đáp: “Đều là kết quả
của việc hằng ngày cùng thí chủ và những người khác ăn thịt, uống rượu
mà ra, việc ngày hôm nay hối hận không kịp nữa rồi!” Hỏi: “Có cách nào
cứu ông không?” Tăng nhân đáp: “Chép bộ Quang Minh kinh, xây cột đá khắc kinh trong thành, sẽ được đầu thai làm súc vật.” Hoàng Phủ Tuân buồn bã hứa với tăng nhân. Được trở về dương gian, khoảng hơn một tháng sau,
đột nhiên sư Hồ Biện từ kinh thành đến, như chưa xảy ra chuyện gì, Hoàng Phủ Tuân vô cùng kinh ngạc, nhưng cũng không dám mời ông ta uống rượu
nữa. Vị hòa thượng này không được uống rượu thì trong lòng không vui,
Hoàng Phủ Tuân liền kể lại với ông ta những gì mình nhìn thấy ở địa
ngục, Hồ Biện nghe rồi cười phá lên, đương nhiên là không tin. Không lâu sau Hồ Biện đến Tín Châu, ở đó trên đầu ông ta mọc một cái mụn đầu đinh rất to, nó vỡ rất nhanh và mấy ngày sau thì ông ta chết. Hoàng Phủ Tuân lập tức giữ lời hứa nơi địa ngục, xây một cột đá chép kinh Phật ở trong thành. Cột vừa xây xong, trong thành liền có con lợn đẻ ra sáu con,
trong đó có một con màu trắng, tự đến dưới cột đá, đi vòng quanh đấy mấy ngày liền, mệt quá mà chết. Cột đá có khắc kinh Phật này đã giúp linh
hồn của Hồ Biện được giải cứu khỏi vô gian địa ngục nhưng vẫn không
tránh khỏi kiếp đầu thai làm súc vật.
m hình và dương thụ trong
câu chuyện này có sự chênh lệch về thời gian, sự tàn khốc nơi âm gian là dự báo cho người sống nơi dương gian, đứng ở góc độ của Hoàng Phủ,
dường như còn có ý răn bảo, nếu sửa chữa sai lầm thì chuyện đó có thể sẽ không xảy ra.
Nhưng những câu chuyện tương tự như Trương Tam
tiêu tiền, Lý Tứ thanh toán thật quá sức bí ẩn, vì vậy nhiều hơn cả là
những câu chuyện như kiểu, cùng lúc với linh hồn nào đang phải ở âm gian chịu nhục hình thì trên dương thế cũng đang hoán gọi. Những câu chuyện
kiểu này ban đầu thường thấy các vị hòa thượng là nhân vật chính, đa
phần cũng là do hòa thượng hoặc những tín đồ Phật giáo thêu dệt, có thể
thấy từ đó cho tới nay, hòa thượng không giữ giới luật đã là một vấn đề
vô cùng nghiêm trọng. Khi họ xây dựng những câu chuyện kiểu này, chỉ là
muốn hiện thực hóa thuyết báo ứng, ứng nghiệm càng nhanh càng tốt. Dùng
sổ ghi chép thiện ác, còn phải đợi đến sau khi chết mới có thể tính sổ,
những chuyện như thế này ai có kiên nhẫn để chờ đợi, để tranh thủ, có
tội lỗi gì, tốt nhất là thể hiện ngay để cho người phạm tội biết, hiện
thế báo không bằng hiện thực báo trước. Đương nhiên, đây cũng là xuất
phát từ ý tốt muốn cảnh giới. Hồ Biện trong câu chuyện không chịu tin,
những tăng đồ ngoài câu chuyện liệu có tin không? Hơn nữa, một mặt tuyên truyền rằng những hòa thượng bình thường chỉ cần uống một chút “mễ
trấp” (rượu) thì ngay lập tức phải xuống vô gian địa ngục làm xiên thịt
để đưa lên bếp nướng, một mặt lại tuyên truyền rằng những hòa thượng cấp cao có thể ăn thịt ăn cá thoải mái, ăn càng nhiều càng chứng minh rằng
họ là La Hán chuyển thế, liệu có phải điều này đã linh hoạt quá mức
thành tùy tiện rồi không?
Sau khi giới thiệu rộng rãi câu chuyện
này đến với tầng lớp nhân dân lao động, tính chất của nó lại ngày càng
biến điệu. Truyện Mộng Lang trong Liêu trai chí dị, “linh hồn” tên ác
quan Bái Giáp vừa tham lam vừa tàn bạo, bị lực sĩ dưới âm gian “dùng búa đập răng, răng rơi đầy dưới đất”, còn bản thân người này trên dương
gian cũng “răng cửa rụng hết”, nhưng nguyên nhân lại là “bị ngã ngựa
trong lúc say rượu”. Trong quyển năm của Hữu đài tiên quán bút ký do Du
Việt viết có kể về một tên ác bá trong làng, khi người khác nhìn thấy
linh hồn của hắn ta đang phải chịu đòn dưới địa ngục thì bản thân tên ác bá lúc này đang nằm trên giường bệnh rên khe khẽ, dưới âm phủ dùng dây
sắt xuyên qua mũi của linh hồn hắn, thì hắn ở dương thế “đột nhiên hai
dòng máu tươi phụt ra từ hai lỗ mũi, tắt thở mà chết!”. Trong quyển một
của Động linh tục chí ghi lại câu chuyện Tằng Thị Nữ ngao du âm gian,
gặp sư huynh của mình dưới địa ngục đang bị treo ngược trên tường, một
chiếc đinh lớn đâm xuyên qua não, quỷ sứ cắt từng miếng thịt, máu chảy
lênh láng, thảm không kể xiết. Tằng Nữ hỏi: “Huynh tôi còn chưa chết sao lại chạy đến đây?” Người dưới âm gian đáp: “Diêm Vương thấy người này
lòng dạ độc ác, hẹp hòi, coi thường luật pháp nên đã trừng phạt dưới âm
gian để giày vò người này trên dương thế. Mặc dù chưa chết nhưng hồn đã ở địa ngục rồi.” Thì ra sư huynh của Tằng Nữ trên dương gian, chỉ có treo ngược chân lên mới dễ chịu đôi chút, dần dần dẫn đến tứ chi thối rữa,
khẽ cử động là đau như bị dao cắt, đúng như những gì Tằng Nữ nhìn thấy.
Những kẻ ác bá này hành động bừa bãi, lộng hành, quan phủ trên dương thế không những không quản, thậm chí còn chống lưng cho chúng, nên đã bị
báo ứng ở địa ngục, nghe cũng thấy thật sự là giận. Từ đó suy ra, mỗi
khi đám quan phủ địa chủ xảy ra chuyện liên quan tới sức khỏe, chúng ta
có thể tưởng tượng rằng bọn họ đang phải chịu sự trừng phạt dưới địa
ngục, thế là hào hứng nói: “Ông trời có mắt.”
Nhưng cũng từ đây
chúng ta đặt ra một câu hỏi lớn rằng, nếu ông quan nào đó mắc bệnh hoa
liễu, âm phủ liền nói là do họ cắt mũi, tên nhà giàu nào đó mắc bệnh gan nhiễm mỡ thì dưới âm phủ liền nói là do họ bỏ người ta vào vạc dầu,…
Dường như bọn họ chuyện gì cũng biết, không thấy lũ người đó gặp báo ứng thì không vui vậy, ai biết liệu có phải những quan viên dưới âm phủ này do muốn tăng công, nên khai láo hay không? Mà điều khiến người ta không thể không nghĩ là: “Nếu những người “cơ thể bất an” là bách tính của
chúng ta thì sao đây?” Gặp họa gặp nạn, có bệnh không có tiền chữa chạy
đa phần đều rơi vào dân thường. Hoặc có lẽ vị tiên sinh đại nhân nghĩ ra câu chuyện này đang muốn bách tính trăm họ hiểu một điều rằng, nếu ở
trên nhân thế mà ngươi đi đâu đụng đấy là vì linh hồn của ngươi đang bị
nung trong vạc dầu dưới địa ngục, ngươi chỉ cần hắt xì một cái, cũng có
nghĩa là linh hồn của ngươi đang bị phạt đứng trong địa ngục lạnh lẽo.
Cái gọi là “chưa biết đến hình phạt nơi âm phủ thì đã phải chịu đựng sự
trừng phạt nơi dương gian rồi”, người tốt nhất vẫn nên “trông coi” linh
hồn của bản thân mình cho tốt!