Ngay trước cổng chùa Pháp Vân, bọn ta gặp Ngô Chân Lưu và Đại Thiên đang đi cùng nhau, sắp sửa bước vào chùa. Nhà sư kia không thay đổi, vẫn
khuôn mặt thanh thoát, vẫn cặp mắt sáng ngời, tính cách dường như có
phần chín chắn thâm trầm hơn. Ngô Chân Lưu đương nhiên không biết ta,
Đại Thiên kia cũng xem như là quen biết. Chúng ta liền chào hỏi hàn
huyên một lúc. Thì ra Ngô Chân Lưu và Đại Thiên gặp nhau trên đường nhà
sư đi tìm hiểu về Phật pháp, sau mấy lần đàm đạo, Chân Lưu nhận ra Đại
Thiên có một hiểu biết rất thâm thúy và sâu sắc về đạo Phật liền ngỏ ý
mời anh ta đi tìm hiểu cùng mình. Sẵn dịp đang bôn ba nên Đại Thiên vui
vẻ đồng ý. Hai người đã đến thành Luy Lâu một thời gian, Chân Lưu ngụ
trong chùa Pháp Vân còn Đại Thiên thuê một phòng trọ ở khách điếm bên
ngoài. Khi ta giới thiệu mình là sứ giả của triều đình, Ngô Chân Lưu lập tức trở nên vui vẻ còn Đại Thiên không tỏ rõ thái độ gì.
Thiền
sư trụ trì chùa Pháp Vân đã tiếp đón ta rất chu đáo, nhưng thiền sư khá
bận rộn nên Chân Lưu đứng ra nhận trách nhiệm sẽ dẫn ta đi thăm các ngôi chùa nằm trong vùng Vũ Ninh này. Ta vui mừng không để đâu cho hết.
Chân Lưu dẫn ta, Đại Thiên và hai hộ vệ đi một vòng chùa Pháp Vân, giới
thiệu về kiến trúc, cách bố trí nhà, chùa, tháp, các bức tượng được đặt
trong chùa. Chúng ta say sưa ngắm nhìn các pho tượng được điêu khắc tỉ
mỉ, ngôi tháp cao và những ao sen trắng, hoa súng tím xen lẫn vào nhau.
Tất cả tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp đặc trưng nhất của một ngôi chùa. Mọi người quyết định nghỉ dừng chân tại bộ bàn ghế gỗ đặt dưới cây đa
cổ thụ khổng lồ. Tại đây Chân Lưu say sưa kể chuyện về thiền sư
Khâu-Đà-La và Phật mẫu Man Nương.
Những ngày sau đó, Chân Lưu dẫn ta cùng Đại Thiên đi khắp hệ thống chùa chiền ở vùng đất trung tâm của
Phật giáo này. Mỗi ngôi chùa có những nét riêng biệt, những câu chuyện
riêng, đều được nhà sư trẻ giới thiệu và kể một cách rất tự hào. Ba
chúng ta cũng từ đó mà trở nên thân thiết, có lúc say sưa luận đàm về
Phật pháp đến nỗi Phùng Tứ phải lên tiếng nhắc nhở, ta mới biết đã qua
giờ Tuất mà chúng ta vẫn chưa dùng cơm tối. Những khi Chân Lưu bận việc
trong chùa, ta lại cùng Đại Thiên rong ruổi trên khắp thành Luy Lâu.
Tiếp xúc với Đại Thiên mới thấy ta và hắn có rất nhiều điểm chung, giống như đã thân quen từ lâu vậy. Hắn và ta có thể ngồi hàng giờ trong một
quán trà đạo, chỉ im lặng ngồi uống trà, nhìn ngắm người qua lại trên
phố, tuyệt nhiên không nói năng gì, vậy mà không hề cảm thấy khó chịu
hay ngượng ngùng. Đôi lúc chúng ta lại cùng say sưa lắng nghe khúc đàn
bầu trong một góc tửu quán. Chiếc đàn chỉ gồm một dây này lại có thể tạo ra những thanh âm rất đặc trưng, khi buồn bã, khi da diết, khi ngọt
ngào.
Đại Thiên vốn không phải người bình thường, ta tuy đã bị
rút đi tiên pháp, không còn nhãn lực nhưng cũng nhìn ra được khí chất
siêu phàm của hắn. Vả lại kiến thức hắn cũng rất sâu rộng, không chỉ về
vấn đề Phật pháp. Bất cứ câu hỏi về lĩnh vực nào đó mà ta đặt ra cũng
được hắn giải đáp một cách kỹ lưỡng và khiến ta tâm phục khẩu phục. Đối
với mọi chuyện hắn dường như đều đã biết rõ nên luôn tỏ ra hờ hững,
không có hứng thú với bất kỳ cái gì. Vậy nhưng từ hắn, ta cảm nhận được
sự ấm áp, đáng tin cậy. Vẻ ngoài hắn tuấn lãng, ưa nhìn, không gọi là
xuất sắc, nhưng đôi lúc ta lại thấy đáng lẽ hắn phải đẹp hơn thế mới
phải.
Đông qua xuân tới, ta dường như mải rong chơi mà quên mất
khái niệm thời gian, thoắt một cái đã sang năm mới Quý Sửu. Lần đầu tiên ta được đón Tết Nguyên Đán dưới dương gian nên không tránh khỏi phấn
khích. Đêm giao thừa, sau khi dự đại lễ đón năm mới trong chùa Pháp Vân, Ngô Chân Lưu tiếp tục ở lại để tụng kinh, ta hăm hở xắn tay áo chạy ra
ngoài phố xá tấp nập. Đại Thiên nhìn vẻ háo hức của ta, tự nhiên mà bật
cười. Ta bỗng dưng ngây ngốc đứng nhìn hắn cười, cảm thấy còn đẹp hơn cả pháo hoa đang nở đầy trời. Đại Thiên không để ý, kéo ống tay áo ta lôi
đi:
- Ta dẫn đệ đến một nơi.
Nơi Đại Thiên dẫn ta đến lại
là một quán ăn bé xíu ở góc phố. Quán ăn này chỉ vẻn vẹn có dăm, sáu cái bàn, quanh mỗi bàn là hai chiếc ghế gỗ tròn thấp tè, hai người ngồi đã
thấy chật, Phùng Tứ và Hải Bình phải ngồi ở chiếc bàn bên cạnh bọn ta.
Ta quay quay người, quán bé nhưng lại tạo cảm giác ấm áp lạ lùng. Đại
Thiên gọi hai bát canh cá to. Đợi một lúc thì hai bát đại nghi ngút khói được bưng ra, mùi thơm ngào ngạt. Trong bát là một con cá chép to đang
ẩn mình giữa đám dưa muối, cà chua, thì là… Ta kiên nhẫn ngồi chờ Đại
Thiên tỉ mỉ dùng đũa xé mình cá trắng phau ra, sau đó múc cho ta một bát đầy. Hắn nói:
- Giao thừa năm ngoái ta may mắn được một người
bạn dẫn đi ăn tại quán này, sau đó rất ấn tượng với món canh cá ở đây.
Năm nay quả thực không thể bỏ lỡ.
Ta cười híp mắt, vốn tưởng hắn
giống như thần tiên thoát tục, thì ra cũng có sở thích ăn uống bình
thường này. Ta húp thử một thìa nước canh, cảm nhận luôn được ngũ vị,
mùi thơm ngậy không hề bị tanh của cá, vị chua vừa phải của dưa muối và
cà chua, mùi cay nồng của ớt, vị mặn ngọt của nước dùng. Tất cả hòa
quyện với nhau xóa tan đi cái lạnh giá của mùa đông, khiến ta cảm thấy
trên đời không thể có món nào hoàn mỹ hơn nó. Đại Thiên chỉ yên lặng
nhìn ta ăn, hắn còn gọi thêm vài món nữa cũng đậm đà hương vị, ta chỉ
nếm sơ qua đã no muốn xỉu.
Ta vác cái bụng no căng, lấy lại vẻ
háo hức ban đầu, đi đón lễ giao thừa. Ta sà vào các nhà đốt pháo, hỉ hả
lắng nghe tiếng pháo đì đùng bên tai. Sau đó lại ghé qua những nơi đang
gói và nấu bánh chưng, bánh dày, ngắm nghía những chiếc bánh căng mọng
đẹp đẽ và đặc trưng nét truyền thống này. Người đi lại rộn ràng trên
phố, quán xá tấp nập khách vào ra. Ta chen giữa dòng người, tận hưởng
từng trò chơi, từng khoảnh khắc, từng hoạt động đang diễn ra. Phùng Tứ
và Hải Bình theo ta muốn hụt hơi, trong khi đó Đại Thiên luôn bắt kịp ta mà vẫn giữ được dáng vẻ thong dong, tự tại. Lúc ta và hai người hộ vệ
đang say sưa đứng xem người ta biểu diễn trò múa rối nước. Đại Thiên
biến đi đâu mất một lúc, lát sau quay lại dúi vào tay ta một chiếc đèn
trời. Phùng Tứ và Hải Bình hì hục thắp đèn, sau đó đưa cho ta ước. Đúng
vào thời khắc giao thừa, năm mới Quý Sửu đến, tiếng pháo tét nổ inh tai, pháo hoa bay rợp trời, ta thả nhẹ chiếc thiên đăng trên tay, cùng với
hàng trăm, hàng nghìn chiếc đèn khác, theo gió bay lên trời. Đêm đó rất
vui, ta cứ cười mãi không ngậm miệng lại được, chỉ ước thời gian có thể
dừng lại.
Sau ba ngày Tết chè chén và chơi bời no say, ta chợt
giật mình nhận ra năm tử của mình đã đến, việc cần làm phải làm gấp,
không thể trì hoãn thêm được nữa. Ta liền dành một ngày để thảo luận với Đại Thiên và Chân Lưu những việc cần thiết phải ghi lại để gửi lên hai
vị Vương về tình hình chùa chiền và Phật giáo ở thành Luy Lâu.
Hôm sau, Đại Thiên có việc bận, ta cũng kiếm việc để sai Phùng Tứ và Hải
Bình rời khỏi chùa. Cuối cùng thì cũng có cơ hội được gặp riêng Ngô Chân Lưu. Ta dạm hỏi:
- Đại sư Chân Lưu, thầy có ý định trở về Cổ Loa cùng với tại hạ để tiếp tục luận bàn việc xây dựng chùa chiền hay không?
Chân Lưu khiêm tốn nói:
- Bần tăng tự cảm thấy hổ thẹn, kiến thức về Phật pháp vẫn chưa gọi là
nhiều, nếu có thể thì còn muốn đi về phía biển sau đó vòng lại vùng núi, không dám đi theo để làm lỡ mất hành trình của thí chủ.
Ta cũng thẳng thắn mà thổ lộ:
- Không giấu gì đại sư, Thiên Sách Vương vẫn luôn có ý định mời thầy ghé
qua thành Cổ Loa một lần, chẳng hay thầy có thể dành thời gian hay
không?
Chân Lưu có chút ngỡ ngàng, hỏi lại:
- Là Thiên Sách Vương sao?
- Phải! - Ta khẳng định.
Chân Lưu suy nghĩ một lúc rồi kiên quyết lắc đầu:
- Bần tăng đã thề một lòng hướng Phật, cũng chẳng còn gì để vấn vương với chốn ấy. Cảm phiền thí chủ nhắn lại với ông ấy rằng: Bần tăng đã được
cảm hóa Phật pháp, cả đời này không có điều gì phải nuối tiếc.
Ta lại nói:
- Đại sư Chân Lưu, mong thầy suy nghĩ cho kỹ càng. Nếu ta nói đó là lời nguyện ước của một người cha thì sao?
Chân Lưu mở lớn cặp mắt nhìn ta, tay phải nắm lấy chuỗi tràng hạt đeo trên cổ, tay trái chụm lại để trước ngực:
- Xin hỏi thí chủ, ngài là…?
Ta mỉm cười:
- Tại hạ họ Ngô, tên thật là Ngô Nam Hưng, là tam đệ của Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương.
Chân Lưu cúi đầu, một lúc lâu sau mới ngẩng lên nói với ta:
- Thí chủ, có thể để bần tăng suy nghĩ thêm không? Ngày mai bần tăng sẽ có câu trả lời.
Ta gật đầu. Sau đó Chân Lưu rời đi, còn ta trở về khách điếm sai Phùng Tứ
và Hải Bình thu dọn đồ đạc, tầm một vài ngày nữa là lên đường trở về
kinh thành.
Hai ngày sau, chúng ta năm người năm ngựa thong dong
tiến về phía thành Cổ Loa. Ngô Chân Lưu cuối cùng cũng đồng ý gặp Thiên
Sách Vương. Đại Thiên nói có việc cần làm ở kinh thành nên đồng hành
cùng bọn ta luôn.
Năm người chúng ta trở về kinh thành trong sự
chào đón hân hoan của mọi người. Ta giới thiệu Ngô Chân Lưu và Đại Thiên là những vị khách am hiểu về Phật pháp, có góp phần to lớn trong chuyến đi vừa rồi của ta, Nam Tấn Vương tiếp đón hai người rất nhiệt tình,
Thiên Sách Vương không bộc lộ nhiều, trong đáy mắt có hàng vạn điều muốn nói. Ngô Chân Lưu khiêm nhường, chỉ xin ở trong một gian phòng nhỏ
trong cung của Thiên Sách Vương, bên cạnh chỗ ở của ta. Đại Thiên dường
như cũng rất rảnh rỗi, vui vẻ chấp nhận một căn phòng nhỏ khác bên kia
phòng Chân Lưu, chẳng hiểu sao ta lại lấy làm vui mừng vì điều đó. Mấy
ngày sau ta giải quyết các bản báo cáo đã gửi về kinh trước đó, Chân Lưu và Đại Thiên có tham gia hỗ trợ. Hai người bọn họ còn dành thời gian
giúp ta phân tích và nghiên cứu những ngôi chùa, ngôi miếu, am tự cần
thiết phải tu bổ, lượng kinh phí cần thiết… Công việc kể ra cũng nhiều,
mất hai tuần mọi kế hoạch bắt đầu trở nên có quy củ và rõ ràng hơn, lúc
này mọi người mới có thời gian để làm những việc khác. Đại Thiên ngỏ ý
muốn nhờ ta cùng huynh ấy đi thăm thú và xem xét việc giao thương ở kinh thành. Ta tuy không có kinh nghiệm thực tế nhưng trước đây cũng đã đọc
nhiều sách về nghệ thuật buôn bán, vả lại không hiểu sao không thể mở
lời từ chối. Vậy nên Đại Thiên và ta cùng Phùng Tứ, Hải Bình đi theo bảo vệ lại cùng nhau rong ruổi trên khắp kinh thành Cổ Loa. Ngày hôm sau,
Ngô Chân Lưu đến gặp ta và từ biệt lên đường. Đại Thiên vẫn còn việc ở
kinh thành chưa xong nên không đi cùng nhà sư. Chân Lưu vái chào hai vị
vương, sau đó ta và Đại Thiên tiễn nhà sư một đoạn. Chẳng biết cha con
họ đã nói với nhau những gì, chỉ thấy đôi mày của Chân Lưu luôn chau
lại, bước chân cũng trở nên nặng nề hơn.
Càn Hưng háo hức thông
báo cuối tháng giêng đệ ấy sẽ tổ chức yến tiệc mừng ngày sinh của ta,
cũng coi như chúc mừng ta lập công trở về. Ta vui vẻ đồng ý, trong lòng
ngầm hiểu đây là ý của thái hậu. Ngay từ ngày ta về kinh và bái kiến
người, mẫu hậu đã vội vàng bóng gió xa gần chuyện chọn vợ cho ta. Lúc
này chắc là không thể né tránh và trì hoãn được nữa.
Ta vẫn thản
nhiên đi tìm hiểu việc buôn bán cùng Đại Thiên, yến tiệc giao hết cho
Càn Hưng chuẩn bị. Nam Tấn Vương dường như cũng rất quý Đại Thiên, luôn
miệng khen hắn tài giỏi trước mặt mọi người, còn thường xuyên cho vời
hắn vào cung để luận bàn chuyện phát triển giao thương của đất nước.
Bên cạnh đó, từ ngày Ngô Chân Lưu rời khỏi kinh, Thiên Sách Vương ngày càng trở nên xuống dốc. Không những chuyên quyền, công khai muốn gạt hẳn Nam Tấn Vương khỏi việc triều chính, còn làm những chuyện khiến muôn dân
oán thán. Mắt nhắm mắt mở để mặc cho đám quan tham vơ vét hết của dân,
liên tục mở đợt tuyển chọn các mỹ nhân trên khắp đất nước để nạp vào hậu cung, tham dự những buổi tiệc rượu của bè lũ nịnh thần diễn ra ngày này qua ngày khác. Thái hậu buồn lòng, Nam Tấn Vương can ngăn không đặng.
Ta dù sao cũng đã hoàn thành nguyện ước với Ngô Xương Ngập, chuyện triều chính thì càng không muốn can dự vào. Nhưng cũng không thể nhắm mắt làm ngơ, để mặc Xương Ngập như vậy.
Đêm trăng rằm đầu xuân, Đại
Thiên được Nam Tấn Vương gọi sang cung của hắn, ta tạm thời rảnh rỗi nên lại bày rượu giải sầu dưới trăng. Ta dặn cung nữ làm nhiều món nhắm một chút. Bầu rượu chưa hết quá nửa mà đồ ăn trên bàn đã vơi đi không ít,
quả nhiên một bóng người quen thuộc lại xuất hiện, ngồi xuống đối diện
ta. Ta không nói gì, chỉ lấy thêm chén, rót đầy rượu sau đó đặt trước
mặt người kia. Người đó cũng không nói gì, đưa chén rượu lên uống cạn
một hơi rồi lại đặt chén xuống. Hai chúng ta chỉ ngồi uống rượu, tuyệt
nhiên không nói chuyện, giống như ngày đầu thời xưa. Chén sóng sánh đầy
rượu, bánh trôi nước tròn lẳn, đĩa lạc rang vàng ươm, tất cả đều được
tắm trong ánh trăng. Thiên Sách Vương ngồi trước mặt ta, trăng vàng
chiếu lên bộ quần áo lụa là gấm vóc, làm cho nỗi cô độc của hắn dường
như càng trở nên rõ nét hơn. Ta có một chút cảm thông với hắn, dù sao
thời gian ta sống ở đây cũng không còn nhiều nữa, liền nói:
- Đại sư đã sớm một lòng hướng Phật, không màng danh lợi vinh hoa, đó cũng là điều tốt. Thiên Sách Vương đừng lấy làm phiền muộn, muôn dân bá tánh
thật sự đang rất cần sự anh minh và sáng suốt của người.
Ngô Xương Ngập đặt mạnh chén rượu xuống, hắn cũng như ta, đã uống khá nhiều. Hắn hỏi, không liên quan đến việc ta vừa nói:
- Nếu ta hỏi ngươi một lần nữa câu hỏi trước đây, ngươi vẫn giữ nguyên câu trả lời?
Ta biết hắn đang nói đến chuyện gì, khẽ thở dài, nhìn thẳng vào mắt hắn. Ta nhắc lại câu đã từng nói:
- Thần đã thề trung thành với ai ngay từ đầu thì há gì cái mạng bé nhỏ này!
Xương Ngập không nói gì, đứng dậy rời khỏi bàn rượu. Ta cũng tự hiểu, đây là
lần cuối cùng uống rượu của hai người chúng ta. Trăng treo trên đầu, hoa đào đầu xuân chớm nở trên cành cây khẽ rung rung trong gió. Ta nhớ Bạch Vân Sơn, nhớ những cánh đỗ quyên vàng của mùa xuân, nên quay về thôi…
Yến tiệc linh đình, cung nữ chuẩn bị cho ta một bộ đồ trắng điểm thêm vài
chiếc lá cây bằng ngọc dưới tà áo, đơn giản nhưng cũng rất tinh tế. Ta
vui vẻ ngồi xuống chỗ Càn Hưng đã bố trí trước, ngay phía dưới chỗ của
thái hậu và hai vị vương. Yến tiệc ồn ào, đàn sáo tưng bừng, vũ nữ say
sưa biểu diễn các điệu múa mê người, đồ ăn thức uống không thiếu thứ gì. Bá quan văn võ đua nhau đến chúc rượu thái hậu, hai vị vương và ta. Các vị tiểu thư con nhà đại quan được mẫu hậu mời đến, tập trung đông đủ ở
dãy ngay bên tay phải ta, quả nhiên toàn là các mỹ nhân hoa nhường
nguyệt thẹn. Đại Thiên ngồi dưới ta mấy dãy ghế, hắn chưa đến chúc rượu
nhưng vẫn luôn dõi về phía này. Thái hậu thấy ta không để ý gì đám mỹ
nhân mà người đã cất công chuẩn bị đã bực mình rời khỏi tiệc sớm. Rượu
ngà ngà say, các bá quan lần lượt cáo việc về trước. Chỉ còn lại Xương
Văn và Càn Hưng đang vui vẻ chúc rượu nhau, Xương Ngập uống rượu rất cầm chừng, Đại Thiên đang được một vị tiểu thư bắt chuyện. Ta không còn
người đến chúc rượu, đang định kiếm cớ rời khỏi đây thì thấy Càn Hưng
cười cười tiến lại phía mình:
- Nam huynh, đệ biết huynh đã rượu
no say mà vẫn chưa có món gì trong bụng. Đệ đã chuẩn bị trước món mà
huynh thích nhất. Đợi lúc thích hợp mới mang ra.
Nói rồi Càn Hưng đưa mắt cho một cung nữ gần đó, một lúc sau cười bí hiềm, đích thân đặt trước mặt ta một bát nhỏ. Ta tò mò nhìn hắn chỉ thấy hắn cười hì hì,
những người còn lại của buổi tiệc cũng đang chú ý lại đây. Ta mở nắp bát ra một cách từ tốn, mùi gừng xông lên mũi, những chiếc bánh trôi to
tròn, trắng trẻo chen chúc nhau trong bát nước xâm xấp. Ta mỉm cười với
Càn Hưng, vui vẻ nói:
- Cảm ơn Càn đệ!
Càn Hưng cười tít
mắt. Ta nhớ không có mấy người biết ta thích ăn bánh trôi nước, Càn Hưng cũng không biết. Ta nhìn lên cao, Xương Văn và Xương Ngập đều đang cười nhìn về phía này, trong ánh nhìn không có gì kỳ lạ. Ta liếc về phía Đại Thiên, hắn đã rời khỏi chỗ ngồi, đang tiến về hướng này. Ta lấy muỗng
múc một chiếc bánh to nhất, đưa lên miệng, cảm thấy mùi vị này quả nhiên hoàn hảo. Vài giây sau, muỗng bánh trôi trong tay ta rơi xuống, miệng
nôn ra một ngụm máu, sau đó toàn thân ngã xuống đất. Hình ảnh cuối cùng
nhìn thấy là vạt áo thiên thanh của Đại Thiên bay đến trước mặt, đôi tay hắn kịp đỡ lấy thi thể của Nam Hưng.
Mùa Xuân năm Quý Sửu, Ngô
Nam Hưng bị trúng độc ngay trong bữa tiệc mừng ngày sinh, toàn bộ thái y được truyền đến đều không thể cứu chữa. Ngô Càn Hưng bị buộc tội đầu
độc anh trai mình, nhất định không chịu nhận tội, bị giam vào đại lao và đã tự sát trong đó. Bi kịch bi thảm sớm bị chôn vùi theo thời gian.