Ánh nắng yếu ớt, thời gian đã sắp tới tháng 6 năm Long Vũ thứ hai (năm 1645) rồi.
Sau khi chiếc máy hơi nước của Stephen nghiên cứu và chế tạo đã có bước
đột phá mang tính quyết định. Cuối cùng Vương Phác đã xuất phát, từ Kiến Đức trở về Nam Kinh. Cùng tới Nam Kinh với Vương Phác còn có lô hai
mươi ngàn súng trường đầu tiên và năm triệu đạn vỏ đồng. Lô vũ khí này
đã đủ trang bị cho bốn Hỏa Thương Doanh rồi!
Xưởng công binh Kiến Đức hiện tại đã thiết lập hoàn thiện dây truyền sản xuất súng trường và đạn. Dây truyền sản xuất súng trường đã vượt ba
ngàn chiếc, đạn vượt trên tám trăm ngàn viên! Ngoài ra, công trình kỳ II của Xưởng công binh Kiến Đức đã xây xong rồi. Sau khi công trình kỳ II
được xây xong, tốc độ sản xuất súng trường và đạn cũng cao lên gấp bội
bây giờ. Đến lúc đó, số lượng súng trường sản xuất hàng tháng có lẽ vượt trên mười ngàn chiếc!
Duy có điều khiến Vương Phác cảm thấy có chút tiếc nuối, dây truyền sản
xuất đại pháo kiểu mới vẫn chưa được hoàn thành. Vì vậy, hắn vẫn chưa có cách nào trang bị cho Pháo doanh kiểu mới được. Vương Phác không muốn
tốn nhiều tiền bạc để mua nhiều Hồng Di đại pháo và Phật Lãng cơ pháo từ Châu Âu nữa. Trước mắt cũng chỉ dựa vào Pháo doanh đó để giành chính
quyền.
Cuộc chiến Hồ Quảng sớm đã kết thúc mấy tháng trước rồi, Vương Phác cũng đã biết toàn bộ quá trình.
Có sự hỗ trợ của Trung Ương Quân hùng mạnh, thắng lợi của cả chiến dịch
Hồ Quảng có thể nói là không còn gì lăn tăn nữa. Mặc dù biểu hiện tươi
đẹp của Lý Định Quốc khiến cho tiến trình của chiến tranh đã có chút
trục trặc, nhưng giữa lưu tặc và Trung Ương Quân đã tồn tại khoảng cách
rất lớn về thực lực. Sự nỗ lực của một mình Lý Định Quốc không đủ để
khỏa lấp vào sự chênh lệch quá lớn này.
Kết quả cuối cùng là quân Đại Thuận, quân Đại Tây đã bị thất bại thảm
hại ở Thanh Đồng quan. Trên đường rút lui còn gặp sự truy sát của Kỵ
binh doanh Trung Ương Quân, hai mươi vạn quân Đại Thuận và gần tám vạn
quân Đại Tây đã bị tổn thất thê thảm, chỉ còn chưa tới một trăm ngàn
người trở về Thiểm Tây và Tứ Xuyên. Còn sự tổn thất của Trung Ương Quân
lại rất nhỏ, không ảnh hưởng gì tới việc sản xuất, sinh hoạt của người
dân Hồ Quảng.
Vương Phác trở về kinh, Long Vũ đế đích thân dẫn văn võ bách quan tới cổng Thái Bình nghênh tiếp.
Chuyện cho tới giờ, Long Vũ đế cũng đã nhận rõ hiện thực, cái gọi là lấy trứng chọi đá. Chính như Trương Tử An đã nói, triều chính hiện nay đã
hoàn toàn khống chế trong tay Vương Phác rồi, thiên hạ đại sự hoàn toan
do một mình Vương Phác định đoạt. Long Vũ đế về mặt danh nghĩa dù là
Hoàng đế Đại Minh, nhưng trên thực tế lại chẳng qua là con rối trong tay Vương Phác mà thôi.
Mặc dù Long Vũ đế không cam lòng, nhưng hiện tại y chỉ có thể làm được
một việc duy nhất chính là chấp nhận sự thật, làm tốt vai trò con rối,
chỉ cần như vậy y mới có thể giữ được cái mạng của mình, chỉ có giữ được cái mạng này mới có cơ hội lật đổi Vương Phác thực sự làm bá chủ đế
quốc Đại Minh.
Vì vậy, Long Vũ đế liền dùng nghi thức nghênh tiếp vô cùng long trọng, bố trí mở tiệc đón gió tẩy trần Vương Phác.
Trong buổi tiệc, Long Vũ đế đọc chiếu thư khen ngợi trước mặt văn võ bá
quan, chính thức sắc phong Vương Phác làm Tĩnh Nam Vương!
Đối với triều Đại Minh mà nói, đây có lẽ là điều ân sủng vô cùng. Trước
sau Đại Minh mười mấy triều đại gần 300 năm, cũng chỉ có thời Hồng Vũ đế khai quốc đã sắc phong mấy vị vương khác họ, sau này không còn sắc
phong bất kỳ một vị vương khác họ nào nữa. Nhưng trong lòng Vương Phác
lại chẳng vui vẻ gì, bởi vì vương tước đối với hắn mà nói cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Thật vật vả ứng phó cho xong buổi tiệc, Vương Phác mới có thể trở về phủ Tĩnh Nam Vương đoàn tụ với người nhà.
Tiểu Vương Phác đã 4 tuổi rồi, đã có thể chạy loạn khắp nơi rồi, nhưng
khi nhìn thấy Vương Phác lại có chút e dè, thậm chí còn sợ hãi, bám lấy
ống tay áo của Trần Viên Viên núp ra phía sau mẹ, đôi mắt to đen lúng
liếng nhìn, vừa không dám chạy tới bên Vương Phác, mà cũng không dám gọi một tiếng cha.
Mặt Vương Phác bất giác không khỏi hiện lên nụ cười chua xót, cảnh tượng này vốn đã nằm trong dự liệu của hắn.
Quanh năm suốt tháng, thời gian Vương Phác ở Nam Kinh đã ít lại càng
thêm ít, thời gian ở nhà chăm sóc con cái thì lại càng ít. Tiểu Vương
Phác căn bản không có ấn tượng gì về người cha này. Tuy nhiên, Vương
Phác cũng chỉ có thể thầm thở dài trong lòng, hắn không thể dừng lại,
hắn có quá nhiều việc phải làm, không những vì bản thân mình, càng vì
Vương Pháp, vì tất cả thế hệ sau của nhà họ Vương.
Tôn Thừa Tổ cũng đã tròn một tuổi rồi, bây giờ đã tập tễnh tập đi rồi.
Thằng ranh con này cũng không sợ người lạ. Đổng Tiểu Uyển dạy vài câu là dám ôm chầm lấy đùi Vương Phác gọi loạn lên “mẹ sợ mẹ sợ” rồi. Nhưng
Tôn Truyền Đình vừa đi vào, sự chú ý của tên tiểu tử lập tức chuyển sang người ông.
Tôn Truyền Đình dang tay ra, Tôn Thừa Tổ liền buông tay khỏi đùi Vương
Phác ra, cười khanh khách chạy vào lòng ôm lấy Tôn Truyền Đình. Hai ông
cháu ôm nhau cười khanh khách, xem ra Tôn Truyền Đình thân với Tôn Thừa
Tổ hơn. Mặc dù Vương Phác là cha ruột của cậu, nhưng ai bảo để Tôn lão
đầu hàng ngày ở bên cạnh Tôn Thừa Tổ chứ.
Nhìn bộ dạng vui vẻ của Tôn Thừa Tổ và Tôn Truyền Đình chơi đùa, thậm chí Vương Phác còn có chút ghen tỵ.
- Được rồi được rồi.
Vương Phác tức giận nói.
- Đứa nhỏ cần ngủ trưa rồi, Tiểu Uyển, mau bế nó đi.
- Vội gì, nào, để ông nội thơm một cái.
Tôn Truyền Đình không vui nói một câu, hôn lên vẻ mặt non nớt của Tôn
Thừa Tổ. Lúc này mới lưu luyến giao nó lại cho Đổng Tiểu Uyển. Đổng Tiểu Uyển và Trần Viên Viên rất hiểu đưa Vương Pháp và Tôn Thừa Tổ đi. Không gian còn lại hai cha con Tôn Truyền Đình, Vương Phác, hơn nửa năm rồi
không gặp nhau, hai cha con có rất nhiều việc phải bàn bạc với nhau.
Tôn Truyền Đình nói:
- Con trai, có chuyện cha muốn hỏi con.
Vương Phác đáp:
- Có phải chuyện Cục đóng tàu Trấn Hải không?
Tôn Truyền Đình gật đầu, nhíu mày nói:
- Bây giờ mới chưa tới nửa năm, Hộ bộ đã đầu tư hai triệu lạng bạc vào
Cục đóng tàu Trấn Hải rồi. Nhưng tàu bọc thép con nói ngay cả hình dáng
cũng không thấy, gần đây nghị luận giữa triều đình và người dân rất lớn. Mặc dù nói bây giờ đã không có Đô sát viện và Khoa đạo ngôn quan, nhưng cứ tiếp tục như vậy e là không phải biện pháp.
Vương Phác nói:
- Triều đình và dân có nghị luận rất bình thường, chỉ cần sự việc không bị mất kiểm soát là được rồi.
- Cũng không thể thế được.
Tôn Truyền Đình nói.
- Mặc dù triều đình và dân có tranh luận về việc này, nhưng sự việc
không nghiêm trọng tới mức mất kiểm soát, cha chỉ lo không lấp được chố
trống, cuối cùng sẽ kéo theo suy sụp tài chính.
- Đúng rồi.
Vương Phác bỗng nói.
- Nói tới tài chính, con quên không hỏi, sau khi bán đấu giá sản nghiệp
quan doanh và xưởng sản xuất, thu nhập từ thuế của triều đình giảm đi
hay tăng lên? Thuế hải quan thì thế nào?
Tôn Truyền Đình nói:
- Sau khi quan doanh chuyển sang tư doanh, thuế nguồn của các ngành nghề đã tăng lên một chút so với triều Sùng Trinh, nhưng thuế hải quan mới
là lớn! Theo tính toán sơ bộ của Hộ bộ, từ sau khi thành lập hải quan,
thuế quan trưng thu trong hơn một năm chỉ có hơn mười triệu hai mươi vạn lượng. Đặc biệt là nửa năm đầu năm nay, thuế quan đã tăng trưởng rất
nhanh!
Vương Phác hỏi:
- Tình hình thu chí của triều đình thế nào?
Tôn Truyền Đình nói:
- Có chút lợi nhuận.
Vương Phác mỉm cười nói:
- Cha, cha nhất định không nghĩ tới đâu?
- Quả thực đã nghĩ tới rồi.
Tôn Truyền Đình thật thà gật đầu.
- Cha vốn nghĩ là sau khi quan doanh chuyển sang tư doanh, chí ít trong
vòng 5 năm thu nhập thuế không thể có khởi sắc gì, lại không ngờ năm đó
đã thực hiện được cân bằng thu chi!
- Càng huống hồ đầu năm và cuối năm năm ngoái đã trải qua hai cuộc đại
chiến, chỉ riêng chi tiền quân lương, tiền thưởng cũng đã lên tới con số khổng lồ bốn, năm triệu lượng rồi! Đồng thời ủng hộ hàng loạt công
trình lớn như nghiên cứu và chế tạo máy hơi nước, xây dựng ãiưởng công
binh Kiến Đức, xây dựng Cục đóng tàu Trấn Hải, xây dựng trường đại học
Dương Minh. Trong bối cảnh như vậy còn có thể cân bằng thu chi, quả thực không dễ chút nào. Khi Hộ bộ báo công nợ lên Nội các, Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí đều không dám tin.
Vương Phác có thể tưởng tượng được sự kinh ngạc của Tiền Khiêm Ích và Lã Đại Khí khi đó, nhưng trong lòng Vương Phác lại chẳng có gì là ngạc
nhiên.
Kỳ thực tất cả những điều này sớm đã nằm trong dự liệu của Vương Phác
rồi. Quốc sách thừa hành đời Minh là giàu ở dân. Mặc dù tài chính quốc
gia cực kỳ túng quẫn, nhưng tài phú dân gian lại tương đối khả quan! Có
tài liệu cho thấy, trong 10 năm cuối đời Minh, 3/4 bạc trắng của các
nước phương tây từ các lụa địa đã đổ vào Đại Minh!