Mặt khác, đế quốc Đại Minh đang xây dựng pháo đài quân sự kiên cố ở mũi
Hảo Vọng, khởi công xây dựng kênh đào Xuy-ê và kênh đào Pa-na-ma, phái
Trung Ương quân tinh nhuệ đóng giữ, do đó hoàn toàn khống chế hệ thống
huyết mạch của nền kinh tế thế giới, thương thuyền của các quốc gia châu Âu càng phải nộp phí thông hành cao hơn nhiều.
Bộ binh của đế quốc Đại Minh đã mở rộng tới năm mươi vạn, trong đó ba
mươi vạn đóng ở đại doanh ở Nam Kinh, Bắc Kinh, hai mươi vạn còn lại
chia ra đóng ở các tỉnh phía bắc, các tỉnh phía đông, các tỉnh Trung Á,
các tỉnh Đông Nam Á, cùng với các thuộc địa châu Úc, châu Mỹ La Tinh,
Bắc Mỹ, Trung Đông, Đông Phi, Nam Phi...(!)
Về hải quân, đế quốc Đại Minh đã có hạm đội Thái Bình Dương và hạm đội
Đại Tây Dương. Bộ tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương đóng ở Hawai, có bảy
phân hạm đội trực thuộc, có hơn hai trăm chiếc thiếp giáp hạm lớn nhỏ.
Bộ tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương đặt tại Tân Nam Kinh (New York), có bốn phân hạm đội trực thuộc, có hơn năm mươi chiếc thiết giáp hạm lớn nhỏ.
Xét trên phạm vi thế giới, châu Phi vẫn ở vào thời kỳ bộ lạc nguyên
thủy, lạc hậu và ngu dốt, nền văn minh Nam Á rực rỡ của người Ấn Độ đã
trở thành lịch sử, chỉ có Anh, Pháp, Hà Lan, Tấy Ban Nha, Bồ Đào Nha còn có thể tạm thời chống đỡ được với Đại Minh về mặt quân sự, đó là do sự
xa xôi cách trở cả một đại dương giữa đế quốc Đại Minh và châu Âu.
Nếu không vì cách nhau quá xa, với thực lực mạnh mẽ của mình, Trung Ương quân đã bình định được toàn bộ châu Âu từ lâu rồi.
Tuy nhiên, cho dù đại dương cách trở, sớm muộn gì đế quốc Đại Minh cũng
phải đối mặt để giải quyết vấn đề châu Âu, bởi vì chỉ riêng sự khống chế về mặt kinh tế không đủ để châu Âu bị khuất phục, muốn cho các nước ở
châu Âu mai một trong dòng chảy của lịch sử như Nhật Bản, Ấn Độ, còn có
rất nhiều việc phải làm.
Cuối cùng, vấn đề trọng điểm cần nói tới là phát triển lĩnh vực nhân văn trong năm mươi năm qua. Đây cũng là điều mà Vương Phác coi trọng nhất,
vũ lực có thể chinh phục thế giới, nhưng không cách nào thống trị thế
giới, rốt cuộc, thống trị thế giới vẫn phải dựa vào văn hóa mềm, chứ
không phải sức mạnh quân sự. (?)
Về dân số, trong năm mươi năm này, quốc sách mà Vương Phác, hoặc có thể
nói là nội các đế quốc Đại Minh, ra sức tiến hành, là sách lược thực dân “một bên tăng, một bên giảm”, một mặt cổ động việc bắt người cướp của ở thuộc địa, nam giới sau khi thiến đi (!) thì làm lao công, phụ nữ thì
bán cho người Hán trong nước, thúc đẩy tăng trưởng dân số người Hán, sau đó lại xuất khẩu người Hán sang thuộc địa!
Được khuyến khích bởi quốc sách này, trong năm mươi năm, số nhân khẩu
không phải dân tộc Hán ở chính quốc và thuộc địa giảm rất nhanh, chẳng
hạn như người Nhật Bản, hiện nay hầu như tìm không ra, người dân Đông
Nam Á đã bị tuyệt diệt cách đây hai mươi năm (???), chẳng hạn người Ấn
Độ, lúc mới bị Đại Minh chinh phục, ở Ấn Độ có hơn tám mươi triệu nhân
khẩu, nhưng hiện giờ chỉ còn không tới ba triệu người.
Ngược lại, cách đây năm mươi năm, đế quốc Đại Minh chỉ có một trăm năm
mươi triệu người, nhưng sau năm mươi năm, dân số của Đại Minh đã tăng
trưởng bùng nổ lên tới hơn 960 triệu người! Hơn nữa, 960 triệu người này đều là thuần người Hán!
960 triệu người, con số này có ý nghĩa như thế nào?
Phải biết rằng lúc ấy dân số trên toàn thế giới chỉ hơn một tỷ người, nó cách khác, lúc ấy số nhân khẩu của các dân tộc không phải người Hán chỉ còn chưa tới 100 triệu, trong đó châu Âu có chừng hơn năm mươi triệu,
châu Phi có chừng hơn ba mươi triệu, mười triệu còn lại phân bố ở các
châu lực còn lại!
Hết sức rõ ràng, trình độ sản xuất nâng cao cùng với chính sách khuyến
khích sinh đẻ của chính phủ Đại Minh đã có tác dụng mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng dân số, nhưng cũng không thể phủ nhận, những phụ nữ không phải người Hán, như người Nhật, người Đông Nam Á, người Ấn,
người Úc...đã góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng bùng nổ của dân tộc
Hán. (Xin lỗi, nhưng tới đây thì không chịu nổi nữa rồi, tên này có
những ý tưởng vô cùng tàn độc mà cũng vừa rất ấu trĩ về diệt chủng và
đồng hóa dân tộc)
Về văn hóa, đế quốc Đại Minh cũng thực hiện chính sách diệt sạch một cách tàn khốc.
Một khi trở thành thuộc địa của đế quốc Đại Minh, tất cả văn bản, tài
liệu không phải chữ Hán sẽ đồng loạt bị tiêu hủy, tất cả ngôn ngữ trừ
tiếng Hán sẽ bị chính phủ nghiêm khắc loại bỏ. Trên thực tế, chính sách
này hơi thừa, bởi vì với chính sách diệt chủng tàn khốc, thì chính sách
diệt sạch về văn hóa đã không còn quan trọng nữa.
Nếu một chủng tộc đã bị diệt sạch, thì ngôn ngữ, văn hóa, tập tục... của họ cũng mất đi nền tảng để tiếp tục sống còn!
Dân tộc thay họ chiếm lĩnh thuộc địa là người Hán, mà là người Hán đương nhiên nói tiếng Hán, viết chữ Hán, có ai lại đi lưu truyền chữ viết và
tiếng nói khó hiểu của dân tộc khác?
Dĩ nhiên, những nhà khảo cổ và nhà sử học là ngoại lệ, nghề nghiệp của
họ là phải khai quật những chữ viết, tiếng nói đã biến mất trong dòng
chảy dằng dặc của lịch sử và những nền văn minh cổ đại đã một thời xán
lạn.
Nói tóm lại, trải qua năm mươi năm phát triển mạnh mẽ, đến năm 333 lịch
Đại Minh, đế quốc Đại Minh đã thành một siêu cường quốc trên thế giới
lúc ấy, khi đứng trước mặt đế quốc Đại Minh, cái gọi là cường quốc
phương Tây, chỉ nhỏ bé như con kiến so với con voi, nếu không vì đường
xá xa xôi, việc chuyển quân và tiếp tế hậu cần khó khăn, thì chỉ cần vài phút đồng hồ là đế quốc Đại Minh có thể bình định xong châu Âu!
Nếu như cứ tiếp tục phát triển với tốc độ như vậy, đế quốc Đại Minh sẽ
càng trở nên hùng mạnh, mà các quốc gia châu Âu chỉ càng thêm suy yếu,
tối đa mà mười năm nữa, đế quốc Đại Minh có thể dễ dàng chinh phục châu
Âu mà không tốn hơi sức, tuy nhiên có người không đợi được lâu như vậy,
người đó chính là Vương Phác!
Vương Phác đã hơn tám mươi tuổi, hắn không biết lúc nào mình sẽ nhắm
mắt, cho nên nhất định phải tranh thủ bình định châu Âu lúc còn sống,
giải quyết mối lo “Người da trắng châu Âu” sau cùng trong lòng mình. Chỉ cần giải quyết vấn đề “Người da trắng châu Âu”, đế quốc Đại Minh sẽ
không còn kẻ địch, dân tộc Đại Hán sẽ không phải đối mặt với sự uy hiếp
lớn nữa.
Từ nay về sau, trên thế giới chỉ còn một dân tộc duy nhất, đó là dân tộc Đại Hán, từ nay về sau, cho dù đế quốc Đại Minh có thể không tránh khỏi suy bại, phân liệt, thì điều đó chỉ bất quá là sự phân tranh trong cùng một dân tộc, là sự tranh đấu giữa cùng một nền văn hóa, giống như hai
huynh đệ đánh nhau, mà như thế thì ông ta cũng không lo được nhiều đến
mức đó, cũng không muốn lo.
Nam Kinh, Thấm viên.
Vương Phác nằm trên ghế xích đu, đang nghe chắt gái là Vương Tư Ý đọc
báo, năm nay ông đã tám mươi chín tuổi, răng đã rụng sạch, tuy nhiên tai vẫn thính, mắt vẫn tinh, ăn uống rất ngon miệng, ít nhất là không giống người gần đất xa trời.
- Ông cố.
Vương Tư Ý cầm tờ báo, khẽ đọc bằng giọng non nớt:
- Tờ báo này nói, lưỡng viện quốc hội sắp chính thức thông nghị quyết
quan trọng, giao cho Bộ Đường sắt sửa chữa đường sắt băng qua Tây Bá Lợi Á, từ Bắc Kinh chạy thẳng đến Cù Thành ở chân núi phía tây dãy Ô Lạp
Nhĩ.
- Cù Thành sao?
Đôi mắt già nua vẩn đục của Vương Phác sáng lên, ông ta biết Cù Thành
này, đó chính là thành Ekaterina trong lịch sử, tuy nhiên ở thế giới
này, thành này không liên quan gì tới vị nữ hoàng Nga kia, mà vì để
tưởng niệm cống hiến kiệt xuất của Tổng đốc tỉnh bắc bộ Cù Thức Tỷ lúc
còn tại nhiệm, đế quốc Đại Minh đã đặt tên cho tòa thành mới này là Cù
Thành.