Đây là một trận chiến không hề có chút giằng co, căng thẳng gì, cuối
cùng đội súng kíp của quân Minh đã toàn thắng với cái giá phải trả rất
nhỏ, chỉ có sáu người chết trận và hơn mười người bị thương. Trong khi
đó, hơn ba trăm kỵ binh Mông Cổ thì thê thảm hơn rất nhiều, với hơn hai
trăm người chết và bị thương, hơn năm mươi người bị nổ chết bởi Long
Vương pháo, chỉ có hơn mười kỵ binh quay ngựa chạy trốn.
Vương Phác bảo Đại Hồ Tử để lại một đội bách nhân thu dọn chiến trường
và chịu trách nhiệm tặng thêm một đao cho những lính Mông Cổ bị thương
chưa chết. Sau đó, hắn dẫn theo bốn đội bách nhân thừa thắng truy kích
quân Mông Cổ chạy trốn, tới tận nơi đóng quân của chúng. Hơn bốn trăm
người vừa vượt qua triền núi phía trước, nơi đóng quân của người Mông Cổ đã hiện ra trước mắt.
Trong thung lũng được bao quanh bởi núi non, hàng trăm mái lều tròn của
người Mông Cổ nằm rải rác, kế cận những túp lều là những chuồng ngựa,
dê, bò. Kỵ binh thua trận đã chạy về báo tin dữ cho doanh trại, nam nữ
già trẻ lớn bé trong doanh trại đang khẩn trương thu dọn hành trang, ra
sức lùa bầy gia súc, cố gắng chạy khỏi nơi này trước khi quân Minh đuổi
tới.
Nhưng họ làm như vậy chỉ phí công, trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, không có cách nào chuyển đi kịp nữa.
Vương Phác nhẹ nhàng rút thanh yêu đao (1) ra, Đại Hồ Tử bên cạnh hắn liền khàn giọng rống to:
- Tấn công...
Hơn bốn trăm tướng sĩ cùng hét lên, mắt đỏ ngầu, rồi cùng Vương Phác,
Đại Hồ Tử ào ào lao xuống sườn núi, thẳng tiến đến nơi đóng quân của
người Mông Cổ.
Nhằm bảo vệ nơi đóng quân cùng với phụ nữ, người già và trẻ em, hơn mười kỵ binh Mông Cổ vừa chạy về, gào to, vung loan đao, thực hiện một cuộc
xung phong cuối cùng trong đời. Đây là một cuộc xung phong đầy bi tráng, kết quả thật bi thảm: chỉ sau một loạt bắn của hơn bốn trăm tay súng
của quân Minh, bọn họ đã trở thành những xác người ngã chồng chất trên
mặt đất.
Những người già, phụ nữ và trẻ em Mông Cổ cũng chẳng thiết gì đến đám
gia súc của mình nữa, vội lên ngựa chạy thục mạng, nhưng không còn kịp
nữa rồi: bất kể là người già hay trẻ con, tất cả đều bỏ mạng dưới những
họng súng vô tình. Chỉ còn mười mấy cô gái Mông Cổ không bị giết, vùng
vẫy giãy dụa, hét lên chói tai vì bị những tướng sĩ đang nổi lên thú
tính của quân Minh kéo vào lều.
Vương Phác không ngăn cản, cũng không muốn ngăn cản, các tướng sĩ vừa
mới trải qua nửa tháng hành quân gian khổ, tinh thần và thể lực đều hao
mòn rất nhiều, nếu không có cách nào giải tỏa sự căng thẳng thần kinh
cho họ, rất có thể họ sẽ mất lý trí, thật sự trở thành dã thú. Đến lúc
đó, ngay cả bảy nội quy chính yếu trong quân đội cũng không trói buộc
được họ.
Sau hơn nửa canh giờ, đội nhân mã kế tiếp cũng chạy tới nơi đóng quân
của người Mông Cổ. Chờ đón họ là những đống lửa trại hừng hực cháy,
những thùng thịt dê, bò, ngựa nóng hổi, những con dê béo quay trên lửa,
mỡ vàng ươm sôi sục văng tung tóe...Những binh sĩ đói khát, đã hơn nửa
tháng gặm lương khô, mồm miệng nhạt thếch, lập tức ồ lên lao tới, điên
cuồng giành nhau những miếng thịt, có một số người thể lực đã cạn, bị xô đẩy ngã xuống đất.
Vương Phác cười khổ lắc đầu, xem ra hắn đã kỳ vọng quá cao vào bọn họ
rồi, ít ra là kỷ luật của bọn họ cũng không hoàn toàn đạt tới yêu cầu
của hắn. Tuy nhiên ngẫm lại, Vương Phác cũng không buồn phiền gì, nếu
muốn đám binh lính vừa đói khát vừa rét lạnh này tỏ vẻ thản nhiên trước
những tảng thịt dê béo ngậy, thì chẳng khác nào bắt một đám lưu manh dâm đãng phải nhịn thèm trước thân thể trần truồng của mỹ nữ vậy.
Trong tình thế đã đi tới tận cùng của sức chịu đựng như vậy, cũng không
thể quá mức ràng buộc các tướng sĩ, nếu không, dây thần kinh vốn đã rất
căng thẳng của họ có thể đứt bất cứ lúc nào. Biện pháp tốt nhất lúc này
là để họ điên cuồng mà ăn uống, điên cuồng mà chơi bời, điên cuồng mà
gào thét, điên cuồng mà giết chóc, đến lúc cần thiết, thậm chí còn phải
đẻ họ điên cuồng kéo bè kéo lũ đánh nhau.
Nói tóm lại, nhất định phải để họ trút hết tất cả cảm xúc tiêu cực trong lòng mình ra, chỉ có như vậy, họ mới xua tan được những ẩn ức trong
lòng, nhân tính của họ mới không bị méo mó và sau khi trở lại Đại Đồng,
họ mới lại có thể khôi phục lý trí, mới có thể trở thành những chiến sĩ
thiết huyết (2) kỷ luật nghiêm minh mà Vương Phác cần có.
...
Kinh thành. Cung Càn Thanh trong Tử Cấm Thành.
Hoàng đế Sùng Trinh vừa đọc xong thư hỏa tốc được gắn xi do Trương Tử An gửi tới từ Đại Đồng cách đó sáu trăm dặm. Ông ta quay đầu lại nói với
Vương Thừa Ân:
- Thật không ngờ, trong tình hình thiếu binh thiếu tướng như vậy, trấn
Đại Đồng lại dám chủ động xuất binh, nhổ tận gốc mối họa người Mông Cổ
uy hiếp biên cương Đại Minh gần trăm năm nay, lại còn bắt được rất nhiều gia súc dê bò, chẳng những bổ khuyết sáu trăm ngàn lượng bạc tiền lương còn đang thiếu, mà còn nộp thêm năm trăm ngàn lượng bạc cho Nội phủ Ty
Thược Khố (3). Ôi, xem ra tên nô tỳ Trương Tử An này cũng có khả năng
đấy chứ!
Vương Thừa Ân uốn lưỡi cẩn thận, nịnh bợ nói:
- Nô tỳ hiểu rất rõ về Trương Tử An, tuy rằng hám tiền, nhưng lá gan
cũng khá lớn, rất có năng lực. Tuy nhiên, nói đi phải nói lại, nếu
Trương Tử An không lớn gan, hắn cũng không dám chủ động xuất kích trong
tình hình thiếu hụt binh tướng như vậy. Cho nên, nô tỳ cho là, thánh
thượng vô cùng anh minh, biết người biết của, đã phái Trương Tử An đến
trấn thủ Đại Đồng, đây gọi là nhìn xa trông rộng, lo liệu chu đáo trước
sau, hay cũng có thể gọi là ngồi trong cung bày mưu lập kế mà quyết định thắng bại ở biên cương xa xôi ngàn dặm.
- Ha ha ha!
Sùng Trinh hoàng đế cười ha hả, lắc đầu nói:
- Tuy vậy, nếu chỉ một mình nô tỳ Trương Tử An kia, cho dù lá gan có lớn hơn nữa, nhất định cũng không dám mạnh tay như vậy, trẫm nghĩ rằng sau
lưng hắn còn có cao nhân nào đó chỉ vẽ. Thừa Ân, khanh thử nói xem, cao
nhân vẽ đường chỉ lối cho Trương Tử An là ai đây?
- Chuyện này...
Vương Thừa Ân lắc đầu nói:
- Nô tỳ ngu dốt, thật sự là không nghĩ ra được.
- Trẫm biết ngươi đoán ra được, chẳng qua là không muốn nói ra thôi.
Sùng Trinh đế buồn bực hừ một tiếng:
- Ngươi đã không muốn nói, vậy thì để trẫm nói thay ngươi, người đó không phải ai khác, mà chính là Vương Phác!
- Vạn tuế gia minh giám!
Vương Thừa Ân vội quỳ xuống, dập đầu xuống đất, nói:
- Thật sự là nô tỳ không nghĩ được tới mức này.
- Được rồi, đứng lên đi.
Sùng Trinh đế khoát tay áo, nói:
- Thái Tổ gia có lời dạy rất sáng suốt, hoàng thân quốc thích và triều
thần có công lao không được dính líu với biên trấn, nhưng Vương Phác và
nô tỳ Trương Tử An kia cũng không chú ý tới điều này. Tuy Vương Phác
đúng là hoàng thân quốc thích có công lao, Trương Tử An cũng đúng là
người cầm đầu biên trấn, nhưng dù sao hắn cũng là người trong cung,
không thật sự là đại tướng nơi biên cương, cho nên, dù cho bọn họ có
dính líu với nhau, coi như cũng không phạm vào điều kiêng kỵ. Trẫm biết
khanh muốn bảo vệ nô tỳ và thủ hạ của mình, cũng không muốn vì chuyện
này mà đắc tội với Phò mã. Trẫm biết nỗi khó xử của khanh, cho nên cũng
không trách vừa rồi khanh giấu diếm trẫm. Thế nhưng, khanh hãy nói thật
cho trẫm nghe, lần này Đại Đồng đại thắng, có phải là do Vương Phác chỉ
vẽ cho Trương Tử An hay không?
Vương Thừa Ân dập đầu binh binh xuống đất, nghẹn ngào nói:
- Vạn tuế gia minh giám, nô tỳ thật sự không biết.
Hoàng đế Sùng Trinh gật gật đầu, thở dài nói:
- Xem ra là ngươi thật sự không biết rõ tình hình, tên nô tỳ Trương Tử An này thật là, ngay cả khanh mà cũng một mực giấu diếm!
Lẽ ra nghe tin trấn Đại Đồng thắng trận, số nợ lương của biên quân cũng
đã giải quyết xong, Sùng Trinh phải hết sức vui vẻ mới phải, nhưng làm
cho người ta hoang mang khó hiểu là, dường như Sùng Trinh không mảy may
vui mừng, thậm chí còn có vẻ hơi lo lắng. Trong nhất thời, Vương Thừa Ân không đoán được ý nghĩ của Sùng Trinh đế, liền hết sức cẩn thận nói:
- Vạn tuế gia, lát nữa nô tỳ sẽ phái người đến Đại Đồng điều tra rõ ràng.
- Có thể phái người đi thăm dò.
Sùng Trinh nói:
- Nhưng phải âm thầm mà làm, việc trấn thủ Đại Đồng vẫn cứ để cho Trương Tử An đảm nhiệm.
Vương Thừa Ân vội vã nói:
- Vạn tuế gia thánh minh.
...
Chân núi phía bắc núi Âm Sơn.
Giờ đây, nơi trú quân mùa đông của người Mông Cổ đã thành doanh trại của quân Đại Minh. Đoàn quân của Vương Phác đã trú đóng ở đây suốt hai ngày rồi. Trải qua hai ngày nghỉ ngơi và chỉnh đốn, được hưởng thụ thịt dê
béo, rượu ngon, lại có cả sữa dê tươi, đoàn quân sắp sụp đổ rốt cuộc đã
khôi phục được sức lực và tinh thần.
Tuy nhiên, dù sao nơi đây cũng không phải là chỗ có thể ở lâu, vẫn phải nghĩ cách rời đi càng sớm càng tốt.
Bộ lạc Mông Cổ phía bắc chân núi Âm Sơn này tuy không nhỏ, nhưng rất
nghèo, cừu, dê mặc dù không ít, nhưng số lượng bò ngựa rất ít, trực giác nói cho Vương Phác biết, bộ lạc này hẳn là người Sát Cáp Nhĩ, cũng
chính là bộ lạc cuối cùng thuộc dòng dõi của Khả hãn Lâm Đan Hãn thời
Bắc Nguyên, có thể nói là bộ lạc có địa vị tối cao thời Bắc Nguyên!
Đáng tiếc là, từ sau khi Hoàng Thái Cực chinh phục Mông Cổ, bộ lạc Sát
Cáp Nhĩ trở thành bộ lạc có địa vị thấp nhất trong tất cả các bộ lạc
Mông Cổ, phụ nữ, bò dê, bãi chăn nuôi lần lượt bị các bộ lạc khác chiếm
đoạt, Hoàng Thái Cực còn cưỡng ép đại đa số người Sát Cáp Nhĩ di chuyển
về phía đông, tiến vào đồng bằng Tùng Nộn và khuỷu sông Liêu Hà, cuối
cùng trở thành nô lệ cho người Khoa Nhĩ Thấm và người Mãn Châu.
Bộ lạc nhỏ này không đi về hướng đông, mà ở lại dãy Âm Sơn kiên cường
bám trụ để sinh tồn, nhưng môi trường sinh tồn của họ rất khắc nghiệt,
còn thường xuyên bị bộ lạc khác bóc lột, cho nên mới nghèo như vậy, đàn
bò mới ít như vậy, ngựa thì chỉ có khoảng bốn, năm trăm con.
Bởi vì không đủ ngựa, Vương Phác nảy ra một ý: trượt tuyết!
Xe trượt tuyết xuất hiện sớm nhất ở Thụy Sĩ, còn lâu mới truyền tới Đại
Minh, bất luận là người Đại Minh, người Mông Cổ hoặc người Nữ Chân, cũng không biết trượt tuyết là cái thứ gì.
Nhưng Vương Phác thì biết điều đó. Hơn nữa, hắn biết rằng cấu tạo của đồ trượt tuyết hết sức đơn giản, rất dễ dàng chế tạo ra, và quan trọng
nhất là...hắn biết thứ này trượt trên mặt tuyết rất nhanh, tốn ít sức,
chỉ cần mấy con chó là có thể kéo được khối lượng bốn, năm trăm cân
người hoặc hàng hóa. Tuy không có chó trượt tuyết, nhưng ngựa thì có
sẵn, bốn năm trăm con ngựa kéo xe trượt tuyết cũng đủ kéo được hơn hai
ngàn người và cả những đồ cấp dưỡng cần thiết. Hơn nữa, tốc độ hành quân cũng không chậm hơn so với cưỡi ngựa.
Với sự trợ giúp của Lã Lục và mấy thân binh, rốt cuộc Vương Phác cũng làm ra được một chiếc xe trượt tuyết đầu tiên.
Bộ phận chính của chiếc xe trượt tuyết là một cái khung hình hộp được
ghép bởi mười hai tấm gỗ, dài chừng một trượng hai (khoảng bốn mét),
ngang chừng sáu xích (khoảng hai mét), cao hai xích (khoảng sáu mươi bảy mươi cm). Hai thanh gỗ phía dưới đáy của cái khung này to hơn hẳn, nhô
ra phía trước là một tấm gỗ lớn, phần nhô ra này được hơ lửa để uốn cong lên thành hình cung, trên mép gỗ của khung đóng nhiều thanh gỗ nhỏ như
những thanh gỗ hàng rào, để người có thể ngồi lên hoặc buộc đồ vật lên
đó.
Bọn Đao Ba Kiểm và Đại Hồ Tử vây lại xem, đều không biết Vương Phác làm cái thứ gì.
(1) Yêu đao: đao đeo ở bên hông, dài chừng ba xích (khoảng 1 mét), thân đao hẹp, lưỡi dao dài, chuôi ngắn.
(2) Thiết huyết: kiên cường và sẵn sàng hy sinh.
(3) Ty Thược Khố: Tổ chức hoạn quan thời Minh, chuyên đúc tiền, quản lý và trữ tiền đồng để chi dụng
Vương Phác phủi tay, nhìn Đại Hồ Tử đang trố mắt đứng xem, nói:
- Hồ Tử, dắt ngựa lại đây.
- Dạ!
Đại Hồ Tử lên tiếng, dắt một con ngựa màu đỏ thẫm đã chuẩn bị sẵn tới.
Vương Phác cầm hai sợ dây thừng, cột xe trượt tuyết vào yên ngựa, rồi
cầm roi bước ra phía trước đầu xe ngồi xuống, quay lại bảo đám Đại Hồ
Tử:
- Hồ Tử, hòa thượng, năm người lên một lượt đi.
Năm người Đại Hồ Tử, Đao Ba Kiểm, Đường Thắng, Triệu Tín và Trương hòa
thượng đang đứng gần đó xem, liền leo lên xe trượt tuyết, Vương Phác nhẹ nhàng vung chiếc roi dài trên tay lên, quát lớn:
- Hây!
Con ngựa sắc lông đỏ thẫm ngẩng đầu hí dài một tiếng, tung vó chạy về
phía trước, chiếc xe trượt tuyết – sáng chế đầu tiên của Vương Phác,
liền nhẹ nhàng trượt trên mặt tuyết, bọn Đại Hồ Tử thấy mặt tuyết dưới
chân đang nhanh chóng lui về phía sau, đều sững sờ, ngẩn người ra, tấm
tắc khen hay.
- Quái, thật là kỳ lạ!
Vẻ mặt không tin nổi, Đại Hồ Tử nói:
- Đây là cái quái gì vậy? Một con ngựa lại có thể kéo được sáu người chúng ta?
- Lại chạy rất nhanh nữa.
Đao Ba Kiểm cũng vò đầu:
- So với cưỡi ngựa cũng không chậm hơn bao nhiêu.
- Không hổ là tướng quân.
Đường Thắng và Trương hòa thượng thì nhìn Vương Phác bằng ánh mắt sùng bái:
- Biết nhiều thứ hơn chúng ta rất nhiều.
Vương Phác cho chiếc xe trượt tuyết do ngựa kéo chạy nhanh trên tuyết
một đoạn, rồi điều khiển cương ngựa vòng một vòng quay lại nơi trú quân. Hắn nhảy xuống xe, nói với bọn Đại Hồ Tử:
- Các ngươi nghe cho kỹ, hãy dẫn theo người của các ngươi, lập tức lên
núi chặt cây, tranh thủ thời gian làm năm trăm chiếc xe như vậy, sau đó
chúng ta có thể ngồi lên những chiếc xe đó trở về Đại Đồng.
...
Đại Đồng, đại viện của Vương gia.
Vương Cử và Chân Hữu Tài vừa mới xuống xe ngựa, Trụ Tử liền từ trong phòng ở sát cổng chạy ra nghênh đón, lắp bắp nói:
- Đại gia, Chân tiên sinh. Hơn nửa tháng nay, ngày nào Trương công công
cũng nóng nảy đến tìm, nếu hai người vẫn chưa trở lại, thật sự là tiểu
nhân không biết phải nói sao với Trương công công.
Vương Cử quay đầu lại nhìn Chân Hữu Tài, hai người cùng cười, trên khuôn mặt đồng thời lộ ra vẻ ngầm hiểu lẫn nhau.
Xem ra lão thái giám Trương Tử An này thật sự là đã sốt ruột lắm rồi, cả Sơn Tây, trừ Vương gia ra, chỉ còn Ngũ gia gồm Triệu gia, Lý gia, Dương gia, Diệp gia và Hà gia là có tiền. Nhưng hơn tháng trước đây, Ngũ gia
đã thỏa thuận chung vốn với tất cả vụ mua bán của Vương gia ở Sơn Tây,
bây giờ tìm khắp Sơn Tây, cũng chỉ có Vương gia mới có đủ bạc để mua số
gia súc kia.
Nhưng Vương Phác đã dặn, chỉ mua số gia súc này với mức cao nhất là nửa
giá, Vương Cử và Chân Hữu Tài thấy khó mà trả lời thẳng theo kiểu không
nể mặt Trương Tử An như vậy, cho nên phải hoãn binh bằng cách đi một
chuyến tới Bắc Thông Châu, trước hết là để tránh mặt Trương Tử An, thứ
nữa là mua số lương thực mà Vương Phác đã dặn.
Năm thứ mười lăm niên hiệu Sùng Trinh, giá lương thực so với thời Vạn
Lịch đã tăng gần gấp đôi, có thể nói là với giá này ở năm tỉnh phía bắc, muốn mua cũng không có hàng. Kết quả là, dù Vương Cử và Chân Hữu Tài
thu mua gần như toàn bộ lương thực ở mấy chục cửa hàng ở Bắc Thông Châu, cũng chỉ mua được năm mươi ngàn thạch lương thực, tốn tổng cộng một
trăm ngàn lượng bạc.
Vừa rồi, Vương Cử và Chân Hữu Tài đã chuyển năm ngàn thạch lương thực đầu tiên trở về Đại Đồng.
Vương Cử vừa về đến nhà, còn ngồi chưa ấm chỗ, Trương Tử An nghe tin đã
lập tức tới trước cửa rồi. Vương Cử không dám chậm trễ, vội bảo Trụ Tử
dẫn Trương Tử An tới phòng khách. Vương Cử rửa mặt xong, liền vội vàng
chạy tới phòng khách, ôm quyền cười nói:
- Ôi, Trương công công giá lâm tệ xá, thật là vinh hạnh cho tại hạ!
- Vương lão gia.
Trương Tử An muốn cầu cạnh Vương Cử, ôm quyền đáp lễ:
- Ta xin đáp lễ (1).
- Ái chà, không dám!
Vương Cử vội nói.
- Thảo dân nào dám xưng “lão gia” trước mặt công công? Người đâu! Mau pha trà!
- Vương lão gia là nhà giàu có nhất Sơn Tây, lại là huynh trưởng của Phò mã gia.
Trương Tử An cười nói:
- Xưng được, xưng được mà.
Vương Cử vội hỏi:
- Vương gia chúng ta nào dám tự xưng “nhà giàu nhất” gì chứ, không phải
đều nhờ vào công công và các quan phụ mẫu phủ Đại Đồng ban cho, chúng ta mới có miếng ăn sao?
- Ha ha!
Trương Tử An hơi lúng túng cười cười, vờ như thuận miệng hỏi han:
- Dạo này hình như Vương lão gia không có ở nhà?
- Không dám giấu công công.
Vương Cử vội đáp:
- Gần đây đúng là thảo dân có một vụ buôn bán lớn, cho nên không ở Đại Đồng.
- Ồ.
Trương Tử An thuận miệng hỏi:
- Không biết là mua bán cái gì, mà phải phiền đến Vương lão gia đích thân đi làm?
Vương Cử nói:
- Công công cũng biết đấy, năm nay năm tỉnh phía bắc liên tiếp xảy ra
thiên tai nhân họa, Vương gia chúng ta mấy đời kinh doanh tơ, lụa, trà,
sứ, nhận thấy sắp không chống đỡ nổi nữa, nếu không tìm được đường ra,
sẽ phải chịu cảnh miệng ăn núi lở. Bất đắc dĩ thảo dân đành phải bán
sạch sản nghiệp không sinh lãi, gom bạc đến Bắc Thông Châu một chuyến,
thu mua một chút lương thực. Thảo dân phỏng đoán, mấy năm nay mùa màng
không tốt, lương thực ở năm tỉnh phía bắc nhất định sẽ bán chạy.
- Một chút lương thực?
Trương Tử An thầm giật mình, vội hỏi:
- Xin hỏi Vương lão gia là bao nhiêu thạch?
Vương Cử giơ ra năm ngón tay quơ quơ trước mặt.
Trương Tử An thở phảo một cái, hỏi;
- Là năm nghìn thạch?
Vương Cử cười, lắc lắc đầu.
Thoáng cái, tim của Trương Tử An nhảy vọt lên cổ họng, hỏi:
- Năm chục nghìn thạch?
Vương Cử vẫn lắc đầu.
Trương Tử An cả kinh nhảy lên, la to:
- Là năm trăm ngìn thạch ư?
Lúc này Vương Cử mới gật đầu cười.
- Ôi chao!
Trương Tử An hung hăng giậm chân, mặt lộ vẻ hết sức áo não, lần này
Vương Cử đi Bắc Thông Châu mua tới năm trăm ngàn thạch lương thực, theo
giá thị trường chẳng phải là bay mất hơn triệu lạng bạc sao? Như vậy,
bây giờ cũng không chắc Vương gia còn đủ bạc để mua tất cả số gia súc
kia, thế thì phải làm sao đây?
Vương Cử vờ ngạc nhiên, hỏi:
- Công công, ngài sao vậy?
Trương Tử An đã gấp như lửa cháy ngang mày, cũng không muốn quanh co nữa, liền đi thẳng vào vấn đề:
- Vương lão gia, chúng ta lập tức nói thẳng đi. Một tháng trước, tướng
sĩ biên quân bắt về rất nhiều gia súc của người Thổ Mặc Đặc, bởi vì số
lượng quá lớn, trong lúc nhất thời ta cũng không xử lý hết được, cho nên muốn làm phiền Vương lão gia mua lại chúng theo giá thị trường, coi như là ra sức vì triều đình, giúp ta giải quyết chuyện khẩn cấp này.
Vương Cử dễ dài nói:
- Chuyện này đương nhiên nên ra sức, nhưng không biết thảo dân phải chuẩn bị bao nhiêu ngân lượng?
Trương Tử An hơi khựng lại, rồi nói:
- Hai triệu lượng!
- Hả?
Vương Cử giật mình, kêu lên:
- Hai...hai triệu lượng?!
Vừa thấy vẻ mặt này của Vương Cử, khuôn mặt Trương Tử An lập tức trở nên u ám, giọng chùng xuống:
- Vương lão gia, Vương gia các vị là nhà giàu có nhất Sơn Tây, chẳng lẽ không có được số bạc đó?
Vương Cử kêu khổ:
- Trương công công, cách đây không lâu, thảo dân vừa bán sạch tất cả sản nghiệp, cũng miễn cưỡng thu được hai triệu lượng bạc, nhưng vừa rồi đi
Bắc Thông Châu mua lương thực, đã dùng hết gần một triệu hai trăm ngàn
lượng, hiện giờ thật sự là thảo dân không thể lấy đâu ra nhiều bạc như
vậy được.
Trương Tử An vội kêu lên:
- Thế bây giờ lão gia có thể gom được bao nhiêu bạc?
Vương Cử đáp:
- Hiện giờ trong kho chỉ còn sáu trăm ngàn lượng.
- Thiếu nhiều lắm.
Trương Tử An giậm chân nói;
- Còn thiếu nhiều lắm.
Vương Cử nhỏ giọng nói:
- Công công, có câu này, thảo dân không biết có nên nói hay không?
Trương Tử An cau mày nói:
- Cứ nói.
Vương Cử nói:
- Theo giá thị trường, phải có hai triệu lượng mới mua được số gia súc
của công công, như vậy số gia súc hẳn phải là cả triệu con? Không dám
dối công công, gia súc nhiều như vậy, sẽ không có ai sẵn lòng mua một
lúc cả! Nếu người nào dám mua sớ lớn như vậy, thì nhất định hắn sẽ nhanh chóng lỗ sạt nghiệp! Số lượng lớn gia súc như vậy, bao lâu mới bán hết
được? Mà trước khi đem bán chúng đi, cần phải mua cỏ khô nuôi chúng nữa
chứ? Nếu cỏ khô bị bọn thương nhân ác độc nhân cơ hội nâng giá, hoặc giá bán gia súc không được cao, chỉ riêng tiền mua cỏ khô đã vượt cả giá
mua gia súc, thế thì không phải lỗ chết luôn sao?
Vẻ mặt u ám, Trương Tử An không đáp, vấn đề này y cũng vừa mới biết không lâu.
Việc cướp được hơn tám trăm ngàn gia súc từ người Thổ Mặc Đặc khiến y
vui vẻ không được bao nhiêu ngày, trở ngại đã tới lập tức. Ở thảo
nguyên, số gia súc đó có thể ăn cỏ mọc tự nhiên, nhưng ở Đại Đồng, làm
gì có nhiều cỏ như vậy cho chúng ăn? Cũng không thể đưa chúng tới thảo
nguyên chăn thả. Để nuôi số gia súc này, mỗi ngày cần một lượng cỏ khô
lớn kinh người! Hơn một tháng qua, chẳng những không thu được lượng bạc
nào, ngược lại, Trương Tử An còn thiếu nợ thương nhân mấy chục ngàn
lượng bạc mua cỏ khô!
(1) Ta xin đáp lễ: tạm dịch, nguyên văn là: “Giá sương hữu lễ”. Thời xưa ở Trung Quốc, người giàu có thường ở sương phòng, hoặc đông sương phòng hoặc tây sương phòng (văn học có truyện Tây Sương Ký), con gái chưa lấy chồng thì không được ra khỏi phòng gặp người ngoài, cho nên lúc có
khách đến, cô gái phải nói câu “Giá sương hữu lễ”, nhiều đời truyền
xuống, dần dần địa trở thành câu nói phổ biến. Tuy nhiên, hiện nay người Trung Quốc cũng không ai nói như vậy nữa, giờ đây “giá sương” chỉ có
nghĩa là “bên này”.
- Công công.
Vương Cử hạ giọng nói:
- Thảo dân khuyên ngài một câu, tốt nhất là phải giải quyết sớm số gia
súc này, bằng không, sẽ đến lúc ngay cả bạc mua cỏ khô cũng không còn!
Trương Tử An nhíu mày hỏi:
- Vậy theo như ý Vương lão gia, ngài có thể mua với giá bao nhiêu?
Vương Cử đáp:
- Công công, vừa rồi thảo dân tính đi tính lại kỹ càng, nếu mua tất cả
số gia súc của công công, giá không thể cao hơn tám trăm ngàn, nếu không sẽ lỗ vốn.
- Cái gì?
Mặt Trương Tử An sạm đen, hỏi lại:
- Tám trăm ngàn!?
Con số này chênh lệch quá xa so với con số mà Trương Tử An mong muốn.
Vương Cử đồng ý trả tám trăm ngàn, Ngũ gia đồng ý trả hai trăm ngàn,
cộng lại cũng chỉ mới được một triệu, nhưng nợ quân lương của Đại Đồng
và số bạc biếu tặng trong cung cộng lại đã lên tới một triệu một trăm
ngàn lượng, cộng đi trừ lại, rốt cuộc y còn phải xuất tiền túi ra để bù
vào?
Nghĩ đến đây, Trương Tử An thầm hối hận, nếu biết trước tình thế này,
cần gì phải vội vã hướng thánh thượng và lão tổ tông mà tranh công?
- Công công.
Vương Cử đưa ra một bộ mặt hết sức khổ sở, nói:
- Thảo dân cũng có khó xử của mình, ngài cũng không nỡ để thảo dân đem hết sản nghiệp tổ tiên làm thua lỗ sạch sẽ chứ?
- Tám trăm ngàn thì quá ít.
Trương Tử An hít vào một hơi, nói:
- Một triệu rưỡi lượng, được chứ?
Vương Cử lắc đầu:
- Tối đa là tám trăm ngàn lượng!
Trương Tử An cắn răng, nói:
- Một triệu ba trăm ngàn!
Vương Cử đau lòng nói:
- Tám trăm năm mươi ngàn!
Mặt Trương Tử An co rúm lại, đành nói:
- Một triệu hai trăm ngàn!
- Trương công công, không phải thảo dân muốn ép giá, thật sự là ngay cả
bạc giấu để phòng xa, thảo dân cũng đã lấy ra rồi, cho nên mới được tám
trăm năm mươi ngàn lượng.
Vương Cử nói tới đây thì dừng lại, đột nhiên như nhớ ra điều gì, lại nói;
- Tuy nhiên nếu ngài có thể thuyết phục Tam đệ cho thảo dân mượn bạc,
thì với cái giá một triệu hai trăm ngàn lượng, thảo dân vẫn có thể mua
số gia súc kia được.
- Phò mã ư?
Trương Tử An kinh ngạc nói:
- Lần trước hắn nói với ta, trong tay hắn không có lượng bạc nào mà?
- Đúng là như vậy.
Vương Cử vội vàng giải thích:
- Lúc công công hỏi Tam đệ lần trước, thật sự là trong tay hắn không có
bạc, tuy nhiên hắn còn giữ trong tay một lượng lớn nhân sâm và đông châu lấy được từ Liêu Đông. Lần này tiện thể đến kinh sư, thảo dân giúp hắn
bán hết số hàng đó, được bốn trăm ngàn lượng bạc.
- Hóa ra là như vậy.
Trương Tử An gật gật đầu, lại nói:
- Nhưng Phò mã gia là em ruột của Vương lão gia, hắn không cho ngài mượn bạc sao?
- Đừng nói chuyện đó nữa.
Vương Cử lắc đầu thở dài, nói:
- Nếu lão Tam sẵn lòng cho thảo dân mượn bạc đi Bắc Thông Châu mua lương thực, thì thảo dân cần gì phải bán sản nghiệp của tổ tiên truyền lại
đi? Không dám dối gạt công công, trước khi đi, lão Tam cứ luôn căn dặn
thảo dân, rằng số bạc kia là do các huynh đệ thuộc hạ lấy mạng đổi về từ Liêu Đông, chỉ có thể dùng để phát lương và cấp tiền tử, tuyệt đối
không thể tiêu xài riêng. Việc này muốn thành công, chỉ có thể do công
công ra mặt, còn phải nói là vì triều đình, nếu không, nhất định hắn sẽ
không cho mượn đâu.
Trương Tử An khó xử nói:
- Nhưng Phò mã vẫn chưa về.
Vương Cử nói:
- Nhưng Chân tiên sinh đã trở lại, công công có thể gọi hắn tới.
- Chân tiên sinh ở đâu vậy?
Trương Tử An hỏi:
- Ta muốn gặp hắn.
- Xin công công chờ một chút.
Vương Cử nói:
- Thảo dân sẽ cho người mời Chân tiên sinh tới.
Vương Cử sai bảo, Trụ Tử đang đứng bên cạnh hầu hạ, nhận lệnh rời đi,
một lúc sau liền dẫn Chân Hữu Tài vào phòng khách. Chân Hữu Tài giả vờ
giả vịt ôm quyền vái chào, cao giọng nói:
- Tiểu nhân Chân Hữu Tài, bái kiến Trương công công.
Trương Tử An vội đáp:
- Tiên sinh không cần đa lễ.
Vương Cử đưa tay mời:
- Mời Chân tiên sinh ngồi.
- Đa tạ.
Chân Hữu Tài cám ơn, rồi ngồi xuống gần Trương Tử An.
Vương Cử nhìn Trương Tử An, nói;
- Chân tiên sinh, hôm nay mời ngài tới là muốn thương lượng với ngài một việc.
Chân Hữu Tài cung kính nói:
- Tiểu nhân xin nghe ạ.
Vương Cử nói:
- Chuyện là thế này, như tiên sinh đã biết, công công đem biên quân Đại
Đồng đánh bại người Thổ Mặc Đặc ở Mạc Nam, còn thuận tay bắt về một dàn
gia súc lớn. Bây giờ ta muốn mua số gia súc đó, nhưng trong thời gian
ngắn không thể xoay đâu ra nhiều bạc như vậy, cho nên, ta muốn mượn đỡ
ba trăm mươi lăm ngàn lượng trong kho của lão Tam, không biết có được
không?
Chân Hữu Tài nói:
- Theo lý, ngài là đại ca của tướng quân, hơn nữa chuyện này cũng là
chuyện của công công, mà chuyện của công công thì chính là chuyện của
triều đình, về công, về tư tiểu nhân đều phải đáp ứng mới đúng. Thế
nhưng, trước khi tiểu nhân trở về, tướng quân từng luôn căn dặn, khoản
bạc kia là do các huynh đệ đã đổi lấy bằng tính mạng của mình, không
được tướng quân cho phép thì không được tự tiện sử dụng. Đại gia, công
công, việc này tiểu nhân cũng rất khó xử.
Trương Tử An nghe Chân Hữu Tài nói nửa câu đầu, vừa định cười, nhưng khi nghe tiếp nửa câu sau, liền lập tức nghiêm mặt lại.
Vương Cử nhỏ giọng:
- Chân tiên sinh, không thể thu xếp được sao?
Chân Hữu Tài đắn đo suy nghĩ một lát rồi nói:
- Cũng không phải là tuyệt đối không thể thu xếp, nhưng việc này tiểu nhân thật sự không biết phải nói như thế nào?
Vương Cử đáp:
- Chân tiên sinh cứ việc nói ra.
Chân Hữu Tài nói:
- Hiện giờ trong kho của tướng quân có một số bạc. Số bạc này vốn định
dùng để cấp tiền tử cho người nhà các huynh đệ tử trận, nếu lấy số bạc
đó cho đại gia mượn, vậy thì phải có sự đền bù cho người nhà của những
huynh đệ tử trận, tiểu nhân cho rằng biện pháp tốt nhất là tìm cho họ
một công việc, như vậy, xem như cho họ có một nơi chốn để trông cậy về
lâu về dài.
Vương Cử nói:
- Không biết biện pháp đền bù đó là gì?
Chân Hữu Tài nói:
- Về tình hình thành Đại Đồng, tiểu nhân cũng biết được một chút, nơi
khác cũng chẳng sắp xếp được bao nhiêu người, chỉ có ở ba xưởng binh khí của công công có hai cục hỏa dược (thuốc súng) là còn chỗ trống, có thể bố trí công việc cho không ít người. Cho nên, theo tiểu nhân thấy, nếu
để tiểu nhân đứng ra, đưa người nhà của những huynh đệ tử trận vào làm
việc ở ba xưởng binh khí và hai cục hỏa dược, thì số bạc tiền tử kia,
cho dù tạm thời sử dụng vào việc khác, cũng sẽ không có người nói này
nói nọ sau lưng tiểu nhân, sau khi tướng quân trở về cũng không trách cứ tiểu nhân.
- Chuyện này...
Vương Cử giả vờ làm ra vẻ khó xử, nhìn Trương Tử An.
- Ta còn tưởng là việc khó khăn gì, hóa ra là việc này.
Trương Tử An xem thường:
- Chuyện này có khó gì, ngày mai ta sẽ bảo mấy quản sự đến gặp Chân tiên sinh, bắt đầu từ ngày mai, Chân tiên sinh chính là người thực tế quản
lý ba xưởng binh khí và hai cục hỏa dược. Tuy nhiên, ta phải nói trước,
chuyện này tốt nhất là đừng để quá nhiều người biết, sổ sách cũng phải
ghi chép rõ ràng, tránh khi cấp trên phái người tới điều tra, chúng ta
lại nói không rành mạch, còn phải căn cứ vào sổ sách để giao nộp định
mức vũ khí hàng năm đấy.
Việc này quả thật Trương Tử An có thể làm chủ được.
Tuy ba xưởng binh khí và hai cục hỏa dược đều là xưởng quan doanh (quan
phụ trách kinh doanh) nhưng thời buổi này, ai còn phân chia quan doanh
với tư doanh? Các trấn, các vệ thời Minh ngầm giao các xưởng quan doanh
cho tư nhân rất nhiều. Trên thực tế, đây cũng là điều bất đắc dĩ, nếu
không làm như vậy, mà chỉ trông cậy vào chút bạc do bộ Công cấp cho, các trấn, các vệ không thể nào duy trì được sự vận hành các xưởng quan
doanh.
Chẳng qua là do Trương Tử An chưa tìm được người thích hợp, bằng không y đã sớm giao ba xưởng binh khí và hai cục hỏa dược cho tư nhân kinh
doanh rồi, trước mắt Chân Hữu Tài tự đưa tới cửa, đồng thời còn thuận
tiện giải quyết được vấn đề giá mua gia súc vốn đang gặp khó, lẽ nào
Trương Tử An còn không đồng ý?
...
Sau năm ngày nghỉ ngơi và chỉnh đốn quân ngũ ở phía bắc núi Âm Sơn, Vương Phác dẫn quân bắt đầu tiến về Đại Đồng.
Cuộc hành quân này rất thuận lợi, thứ nhất là người Mông Cổ sống du mục
trên đại thảo nguyên đã tránh hết vào những doanh trại mùa đông của họ. Ở đây, vào mùa giá lạnh, nước đóng băng, cho dù người Mông Cổ biết có một đội quân Đại Minh đang ở Mạc Nam, bọn họ cũng khó triệu tập quân đội
với quy mô lớn, mà những kỵ binh Mông Cổ nhỏ lẻ thì không dám đụng chạm
tới bọn hắn; thứ hai là, từ nơi đóng quân của người Sát Cáp Nhĩ với đầy
đủ đồ cấp dưỡng cướp được, Vương Phác chế tạo xe trượt tuyết giúp cho
các tướng sĩ khỏi khổ sở vì hành quân trên tuyết, toàn bộ tướng sĩ ngồi
trên xe trượt tuyết nhàn nhã trở về biên giới Đại Minh.
...
Cửa ải Ma Bàn Sơn, biên quân Đại Đồng, một bách hộ sở đóng quân ở đây.
Sáng hôm nay, trong lúc hai binh sĩ biên quân ôm trường thương co ro
trong phiên trực như thường lệ, từ cánh đồng mênh mông tuyết phủ trắng
xóa ở phía bắc, chợt vang lên những tiếng động kỳ lạ. Tuy tiếng động đó ở rất xa, nhưng nghe rất có khí thế, hình như là tiếng rất nhiều người
đồng thời rống to.
- Không ổn, đó quân Mông Cổ!
Một tên lính canh biến sắc, vội cầm lấy một cây gậy sắc đặc biệt, dùng
hết sức gõ mạnh vào miếng sắt treo trên lỗ châu mai, “choang choang
choang”, chỉ trong thoáng chốc, tiếng sắt thép lanh lảnh liền vang dội
khắp cả cửa ải. Các tướng sĩ biên quân đang ngủ say trong cửa ải, vội
vàng mặc quần áo rời giường, giật lấy binh khí, hò hét loạn xạ lao tới
cửa ải.
- Chuyện gì xảy ra?
Một viên bả tổng của Bách hộ sở, đầu đội nón sắt, lớn tiếng quát hỏi:
- Có phải quân Mông Cổ không?
Tên lính canh nghênh tiếp, nhỏ giọng nói:
- Có lẽ như vậy.
- Cái gì mà “có lẽ”?
Viên bả tổng giận dữ, vung tay tát tên lính gác một bạt tai:
- Phải thì nói là phải, không phải thì nói không phải chứ!
Tên lính gác ôm mặt, chỉ tay về phía bắc, kêu lên:
- Bả gia, ngài có nghe tiếng đó không?
Không cần tên lính canh nhắc nhở, viên bả tổng và các tướng sĩ biên quân cũng đã nghe được tiếng động kia, hơn nữa lúc này còn rõ ràng hơn trước nhiều. Viên bả tổng nghiêng tai lắng nghe trong chốc lát, trên khuôn
mặt đột nhiên hiện lên vẻ lạ lùng, đọc to:
- Cờ xí phất phới, vó ngựa rền vang, súng trên vai, đao ngang lưng...
- Không phải quân Mông Cổ!
Viên bả tổng cau mày nói:
- Họ nói tiếng của Đại Minh chúng ta!
- Bả gia nhìn kìa, đúng là quân Đại Minh chúng ta rồi!
Một tên lính biên quân tinh mắt chợt chỉ tay về phía ngoài cửa khẩu, kêu to.
Viên bả tổng và tướng sĩ biên quân nhìn theo hướng chỉ của tên lính, quả nhiên thấy một đội quân Đại Minh từ sau sườn núi xông ra. Những binh
lính này quần áo tả tơi, tóc rối như ổ quạ, râu như chổi xể, tuy nhiên
tinh thần vẫn hăng hái, ngẩng đầu ưỡn ngực, nện bước chỉnh tề, như vừa
đánh thắng một trận đánh lớn.
Phía trước đoàn quân là một lá cờ lớn màu trắng và vàng đất, trông vừa
bẩn vừa rách, không còn viền cũng không còn tua, trên mặt lá cờ chỉ vẽ
một gạch chéo màu đỏ sẫm, gạch chéo này khiến người ta nghi hoặc, rõ
ràng không phải là quốc kỳ Đại Minh, nhưng cũng không giống cờ của các
tướng lĩnh khác, dù thế nào cũng làm người ta nhìn mà không hiểu gì cả.
Đội quân này đương nhiên là đội quân của Vương Phác. Cửa ải Ma Bàn Sơn
nằm giữa một dãy núi, muốn đi qua cửa ải phải vượt qua mấy sườn núi, lúc chạy trên đất bằng, xe trượt tuyết ngựa kéo có thể trượt nhanh như bay, nhưng tới đoạn đường dốc, một con ngựa không thể nào kéo nổi mấy thanh
niên trai tráng, cho nên Vương Phác đành phải bất đắc dĩ hạ lệnh xếp
hàng đi bộ.
Nhìn về cửa ải sừng sững phía trước, trong lòng Vương Phác hết sức xúc động.
Từ đầu tháng giêng đến biên cương xa xôi, đến hôm nay đã một tháng trôi
qua. Một tháng này đối với Vương Phác và đội quân dưới tay hắn mà nói,
là một cuộc thử thách khắc nghiệt xưa nay chưa từng có. Tuy nhiên điều
khiến hắn vui mừng là đội quân này đã vượt qua được thử thách, bọn họ đã trở lại!
Tuy phải trả giá bằng thương vong to lớn, nhưng cái giá này hoàn toàn xứng đáng.
Lúc ở biên cương xa xôi, trong tay Vương Phác có tổng cộng hơn bốn ngàn
người, nếu tính luôn đội quân trợ chiến ngàn người do Triệu Tín dẫn tới, tổng binh lực thật ra có hơn năm ngàn người, nhưng hiện giờ chỉ còn hai ngàn bốn trăm người, thương vong tới hơn một nửa, có thể nói là tổn
thất vô cùng nghiêm trọng.
Nhưng Vương Phác lại không hề hối hận, trên thực tế, kết quả này còn tốt hơn Vương Phác nghĩ nhiều.
Vương Phác dẫn theo bốn ngàn biên quân, vốn là để luyện binh, để biến
một đám binh lính vô lại đã quen với việc bại trận, thành một đội quân
thật sự tinh nhuệ, hơn nữa là trung thành cống hiến sức lực cho Vương
Phác. Theo suy tính của Vương Phác, từ hơn bốn ngàn binh lính như đám
lưu manh và cướp đường này, cuối cùng có thể còn lại một ngàn người, hắn cũng hài lòng lắm rồi! Bởi vì cái gọi là binh quý tinh không quý nhiều, Vương Phác thà có một ngàn tinh binh được huấn luyện nghiêm chỉnh,
trang bị đầy đủ, hơn nữa tuyệt đối nghe lệnh hắn, chứ không muốn có năm
ngàn tên lính lưu manh, tinh thần suy sụp, trang bị tồi tàn, hơn nữa còn lỏng lẻo vô kỷ luật, không phục tùng chỉ huy.
Chuyến xuất binh tới Tái ngoại (vùng phía Bắc Trường Thành Trung Quốc)
lần này, giống như một vòng đấu loại tàn nhẫn và máu lạnh, những binh sĩ có thể chất gầy yếu, hằng ngày rèn luyện chiến đấu không tốt, đều bị
đào thải bởi cuộc chiến tàn khốc. Hơn hai ngàn bốn trăm binh sĩ còn lại
đều có thân thể cường tráng, rèn luyện chiến đấu hàng ngày vô cùng xuất
sắc, có thể nói là những chiến sĩ tinh nhuệ nhất trong những chiến sĩ
tinh nhuệ! Vương Phác tin rằng, trên chiến trường, một tinh binh như vậy hoàn toàn có thể đánh bại mười binh lính bình thường.
Một tiếng quát lớn kéo Vương Phác ra khỏi dòng suy nghĩ.
- Đứng lại!
Một viên bả tổng của biên quân trên cửa ải quát to:
- Không được tiến lại gần, nếu cứ tiếp tục, chúng ta sẽ bắn tên đấy!
Dứt lời, viên bả tổng liền ra lệnh, hơn một trăm tướng sĩ chen chúc trên cửa ải lập tức giương cung cài tên, nhắm ngay về phía đám binh lính
trông như ăn mày dưới cửa ải.
Đao Ba Kiểm không thèm để ý tới sự uy hiếp của biên quân trên cửa ải, sải bước tới trước cửa ải, quát to:
- Mau mở cửa ải ra! Còn nữa, bảo người của ngươi bỏ cung tên xuống, còn
dám chĩa cung tên vào lão tử, có tin là lão tử ngắt đầu tất cả các ngươi như ngắt đầu dế không?
Tất cả tướng sĩ biên quân trên cửa ải đều sửng sốt, họ chưa bao giờ thấy một người ngang tàng như vậy, bèn quay lại nhìn người chỉ huy của mình. Viên bả tổng kia cũng bối rối, vội phất tay ra hiệu cho cấp dưới bỏ
cung tên xuống, rồi hỏi với giọng dịu đi nhiều:
- Xin hỏi các ngươi thuộc vệ, sở nào?
- Vệ sở nào à?
Đao Ba Kiểm hung dữ dọa nạt:
- Lão tử thuộc Kinh doanh! (Đội quân ở Kinh thành).
- Cái gì?
Viên bả tổng nghe xong, đầu óc mờ mịt, không tin hỏi lại:
- Sao Kinh doanh lại chạy tới Tái ngoại?
- Bây giờ có mở cửa không?
Đao Ba Kiểm không kiên nhẫn nổi nữa, hét lớn:
- Nếu không mở cửa, lão tử sẽ dẫn người đánh vào!
Lúc đó, một tên lính quèn trên ải chạy tới trước mặt viên bả tổng, hạ giọng nhắc:
- Bả gia, không phải nhà Kinh doanh Đề đốc, cũng chính là Phò mã gia, có đại tang sao? Sợ là những người này là người của Phò mã gia đấy.
- Đúng đúng, sao ta lại quên mất chuyện này nhỉ!
Viên bả tổng tự bạt tai mình một cái thật mạnh, vội kêu lên:
- Mau, mau ra mở cửa!
...
Đại Đồng, phủ đệ của Trấn thủ Thái giám Trương Tử An.
Trương Tử An đang ở trong phòng lò sưởi, ngây người ngắm nghía một hàng
mười hai rương đựng bạc mở nắp trước mặt, rốt cuộc số gia súc bắt được
từ chỗ của người Thổ Mặc Đặc đã bán xong, tuyệt đại bộ phận trong đó bán cho Vương gia, một phần nhỏ bán cho Ngũ gia, tổng cộng thu được một
triệu bốn trăm ngàn lượng bạc. Là một triệu bốn trăm ngàn lượng bạc
ròng! Cả đời này, Trương Tử An cũng chưa bao giờ thấy nhiều bạc như vậy!
Tuy nhiên, vừa nghĩ tới sẽ phải khấu trừ tiền ban thưởng cho tướng sĩ
biên quân, tiền nợ quân lương và tiền tử, lại trừ đi tiền tặng quà biếu
trong cung là năm trăm ngàn lượng, số bạc còn lại cũng không bao nhiêu,
trong lòng Trương Tử An lập tức quặn đau. Nhiều bạc như vậy, chớp mắt
một cái, liền biến thành của người khác rồi, làm sao y không đau lòng
cho được?
Trong lúc Trương Tử An đang đau lòng không dứt, bỗng bên ngoài có tiếng của một tiểu thái giám:
- Cha nuôi, con tìm ngài có việc gấp.
- Ngươi chờ ở phòng ngoài, ta lập tức ra ngay.
Trương Tử An vội vàng đậy nắp mười hai rương bạc, rồi bước ra phòng ngoài, hỏi:
- Đã muộn thế này, có chuyện gì?
Tiểu thái giám nói:
- Cha nuôi, con vừa nghe được một tin, hình như có người trong cung đến đại vương phủ.
- Người trong cung?
Vẻ mặt Trương Tử An biến đổi, cau mày hỏi:
- Người trong cung tới, không đến tìm ta, mà lại đến đại vương phủ ư?
- Cha nuôi.
Tên tiểu thái giám kia đáp;
- Con thấy tám phần là có người bí mật tố cáo, đem chuyện Phò mã gia
xuất binh trợ giúp cha nuôi báo cho thánh thượng và lão tổ tông, cho nên trong cung mới phái người đến truy xét chuyện này.
- Cứ để cho họ điều tra đi.
Trương Tử An lãnh đạm nói:
- Chúng ta cũng không khi quân, việc đi đánh người Thổ Mặc Đặc cũng
không phải bịa ra, đầu và bội đao của đại hãn Thổ Mặc Đặc cũng trình lên trong cung, đúng là Phò mã gia đã xuất binh, xuất lực, nhưng chẳng qua
là hắn chỉ phối hợp tác chiến; hơn nữa, hắn chỉ dẫn theo gia đinh, không phải là biên quân trấn Đại Đồng! Theo luật Đại Minh, võ quan nhà có đại tang không được lãnh binh xuất chinh, nhưng luật Đại Minh cũng không
quy định võ quan nhà có đại tang thì không thể dẫn gia đinh bảo vệ gia
đình!
Đối với việc này, Trương Tử An thật sự không lo sợ, trước đó y đã bàn
bạc kỹ càng với Vương Phác, đi theo Vương Phác tập kích Quy Hóa chỉ có
hai trăm người, hơn nữa đều là gia đinh của Vương gia. Về số ba ngàn
tinh binh do Đường Thắng chọn ra từ biên quân Đại Đồng, đúng là họ cũng
tham gia trận chiến với người Thổ Mặc Đặc, nhưng do quá khinh địch liều
lĩnh, toàn bộ ba ngàn tinh binh đó đã chết trận cả rồi!
Việc này chỉ cần Vương Phác kín miệng, đồng thời những người trước đó
được phép trở về, trốn đi không lộ diện, thì sẽ không ai có thể nắm thóp được Trương Tử An. Đối với những người khác, cho dù có người biết trong chuyện này có điều ám muội, nhưng không nắm được chứng cớ, thì có thể
làm gì được y? Về phần Vương Phác, đương nhiên là hắn không thể vạch
trần chuyện này ra, chuyện này mà bị lộ ra, người đầu tiên lãnh đủ hậu
quả là hắn!
- Dạ dạ dạ.
Tiểu thái giám vội đáp:
- Việc đánh người Thổ Mặc Đặc đều do cha nuôi lập kế hoạch, Phò mã gia
chỉ dẫn theo gia đinh phối hợp tác chiến mà thôi, hơn nữa, cha nuôi dùng binh với người Thổ Mặc Đặc, cũng vì bảo vệ dân chúng phủ Đại Đồng,
Vương gia là nhà giàu nhất Sơn Tây, lại nuôi mấy ngàn gia đinh, có dốc
sức vì triều đình cũng là chuyện phải làm mà.
Trương Tử An nói:
- Theo lý thì đúng là như vậy.
- À.
Tiểu thái giám bỗng nói:
- Con nghe nói Phò mã gia đã trở lại.
- Phò mã gia đã trở lại?
Trương Tử An kêu lên:
- Sao ngươi không nói sớm?
Tiểu thái giám đáp:
- Con cũng chỉ vừa biết tin, liền vội vàng đến bẩm báo với cha nuôi.
- Mau đi chuẩn bị kiệu có lò sưởi...
Trương Tử An vừa đứng dậy, chợt nhớ ra điều gì đó, lại ngồi xuống, nói:
- Thôi, Phò mã gia vừa mới về, nhất định còn mệt mỏi lắm, tối nay không cần đến quấy rầy hắn.
...
Đại viện của Vương gia, phòng lò sưởi.
Đã quá nửa đêm rồi, Trần Viên Viên và Nộn Nương vẫn chưa ngủ, hai người
đang ngồi bên bàn cắt giấy. Trần Viên Viên vừa cắt xong một tấm “Uyên
ương giỡn nước”, Nộn Nương nhìn nàng bằng ánh mắt hâm mộ, nhẹ nhàng nói:
- Phu nhân, tay của người thật khéo, cắt ra bức tranh giấy thật đẹp.
Trần Viên Viên mỉm cười nói:
- Nộn Nương, ngươi có muốn học không?
- Dạ có.
Nộn Nương gật đầu lia lịa, đáp:
- Em rất muốn học.
Trần Viên Viên cầm lấy giấy và kéo, đang muốn cắt làm mẫu cho Nộn Nương
xem, cửa chính phòng lò sưởi chợt mở ra, một giọng nói nồng nàn và tràn
đầy vui mừng vang lên trong phòng:
- Nương tử!
Ban tay thon nhỏ đang cầm kéo của Trần Viên Viên hơi run lên, suýt nữa
mũi kéo đâm trúng tay nàng. Nàng quay lại ngước nhìn, người mà nàng biết bao nhung nhớ đang thong dong đứng trước mặt, nhưng khi Trần Viên Viên
nhìn kỹ hình dạng của Vương Phác, suýt nữa nàng không nhận ra: quần áo
hắn tả tơi, tóc tai bù xù, râu ria xồm xoàm, chỉ có đôi mắt vẫn sáng
ngời, đang rạng rỡ nhìn nàng.
- Tướng công!
Trần Viên Viên kêu lên một tiếng, không để ý đến sự dơ bẩn và mùi hôi
thối trên người Vương Phác, đột nhiên nhào vào lòng hắn, lòng nàng đau
như cắt, nước mắt rơi lả chã như mưa, thầm nghĩ hình dáng Vương Phác đến nông nỗi này, nhất định đã phải chịu biết bao cực khổ.