Tiểu Thời Đại 3.0

Chương 21: Chương 21




Bên ngoài trời đã đổ mưa. Khi bắt đầu, chỉ là những tia nước mong manh như kim thêu hoa lạnh buốt tinh tế, Thượng Hải được bao trùm trong luồng ánh sáng nê-on, đột nhiên biến thành một vùng mờ ảo, trên trời như có những cơn mưa tuyết màu trắng tinh khôi mịn màng đang tung bay mịt mù, nhưng dần dần, mưa bắt đầu dồn dập, hoàn toàn không giống mưa Thu, mà như những cơn mưa ào ạt đến cùng nhưng cơn bão mùa hạ. Kính chắn cửa sổ bị những giọt mưa đập vào vang lên thứ âm thanh lộp bộp lộp bộp.

Sau khi vào thu, buổi sáng Thượng Hải luôn giăng một màn sương mù. Trời đất mờ ảo trong thứ ánh sáng màu xám xanh luôn hiện lên vẻ thương cảm. Kinh tế Thượng Hải cũng bắt đầu nguội lạnh như tiết trời đầu thu vậy, tuy không đạp gấp thắng xe, nhưng hận không thể đạp thủng chân ga trước đó, cuối cùng cũng phải từ bỏ.

Trời đổ sụp xuống, Diêu Minh[1] gánh; kinh tế sụp xuống, bất động sản gánh trước. Ngoài những cao ốc thương mại cao cấp thuộc hàng “công chúa không lo bị ế” nằm ở vành đai trong vẫn đang đứng sừng sững vững chãi kia ra, thì từ vành đai giữa đến vành đai ngoài, sau đó đến vùng ngoại thành và xung quanh Thượng Hải, mọi cao ốc thương mại đều như chiếc lá gặp sương giá đã ỉu xìu. Vô số nhân viên môi giới bất động sản từng cao ngạo một thời, nay đã lặng lẽ tháo những chiếc đồng hồ bằng vàng 18K ra khỏi cổ tay, cởi bỏ những đôi giày da cá sấu, thay vào đó là đôi giày thể thao đệm khí của NIKE hoặc PUMA, nhao nhao lao ra đường cao tốc, nét mặt xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, quyết một trận tử chiến, chỉ còn thiếu trên đầu quấn một dải khăn trắng, thắt lưng dắt một đoản đao dùng để mổ bụng nữa thôi… Thứ duy nhất không thay đổi ở họ là những bộ vest màu xám mãi ngự trị trên người, bất kể lúc nào họ xuất hiện trong tầm nhìn của mọi người, đều trong bộ dạng mặc một bộ vest size nổi bật có thêm chiếc cà–vạt lụa vừa rộng vừa thô kệch ghi chặt trên cổ. Có lẽ khi họ chơi bóng đá, tắm táp, bơi lội, xông hơi cũng đều phải như vậy, lúc nào cũng sẵn sàng lôi danh thiếp từ trong túi áo vest ra đưa cho bạn. Giống như câu châm ngôn, bạn sẽ chẳng bao giờ biết khi nào gặp được chân mệnh thiên tử của mình, vậy thì, cùng một lẽ, bạn cũng sẽ chẳng biết khi nào gặp được khách hàng tiềm năng của mình. Tôi từng chứng kiến một vị môi giới bất động sản cố sức lôi danh thiếp nhét cho một thằng nhóc cổ đeo khăn quàng đỏ, chân đi giày lưới bên đường – tất nhiên, anh ta còn bồi thêm một câu “nhớ phải đưa danh thiếp này cho bố cháu đấy”, nếu không tôi cũng phải nghi ngờ thế giới này mất.

[1] Diêu Minh (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1980) là một cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp đang chơi cho đội tuyển Houston Rockets của National Basketball Association (NBA). Hiện anh là cầu thủ có chiều cao cao nhất chơi cho NBA, 2.29m.

Lúc này đám người môi giới ấy đang đội nắng nắng gắt cuối thu, mồ hôi ướt đẫm lưng áo đứng dưới cầu vượt chặn đủ hãng taxi cao cấp, tay giơ cao tấm biển quảng cáo được tạo bằng bút lông và giấy bản, bên trên viết đủ thứ khẩu ngữ lạ thường kiểu như “Cao ốc thương mại giá nhảy lầu, chỉ còn một căn”, “Biệt thự độc đáo giá rẻ như rau, thua cả giá rau hiện nay”, “Chủ nhà ngồi tù bị bắt, người nhà di dân bán tháo quyền sở hữu”, “Tiểu Tam bắt gian tại giường, bà xã bán tháo nhà tốt”, “Bán nhà nuôi gái”, nhiều khi tôi thật lòng cảm thấy thứ họ đang cầm trên tay là lời thoại của bộ phim truyền hình nhiều tập kênh 8 giờ của đài TVB. Họ và những người ăn xin trên phố trông cũng chẳng khác nhau là mấy, đều vác bộ mặt tươi cười nhún nhường với những người ngồi trong xe, sau đó cẩn thận dè dặt gõ cửa xe. Nhưng đôi khi, người lái xe cao cấp, thường chỉ là tài xế mà thôi. Họ lúc nào cũng đóng chặt cửa xe, đạp ga chạy thẳng.

Các chính sách kiểm soát điều chỉnh của nhà nước vừa đưa ra đã như một lá bùa của Mao Sơn đạo sỹ, lập tức khiến vô số công ty môi giới từng được dựng lên theo tiêu chuẩn gánh hát lưu động phải hiện nguyên hình. Họ không thể ngồi trong phòng làm việc kê cao gối ngủ, chỉ cần gọi mấy cuộc điện thoại, gửi mấy tin nhắn, tiền tươi sẽ như gà mái uống thuốc mê vỗ cánh bay rào rào vào tài khoản ngân hàng nữa.

Mấy tháng trước, các điểm môi giới bất động sản mọc lên như nấm sau mưa, trên các phố lớn, len lỏi vào tận trong khắp các hang cùng ngõ hẻm của Thượng Hải. Nhưng một trận gió thu quét qua, vô số của hiệu hôm qua còn huyên náo tiếng người, hôm nay đã người đi nhà vắng, phía sau những bức tường kính buông rèm cửa kia, có thể thấy bừa bộn giấy lộn trên mặt đất và thùng rác chỏng chơ.

Không chỉ riêng ngành bất động sản, mọi ngành nghề khác cũng đều dật dờ trong mưa gió. Siêu thị bán lẻ, chuỗi cửa hàng sách, sản phẩm điện tử, cửa hàng bách hóa, rau quả dầu ăn lương thực, thị trường cổ phiếu… ngoại lệ duy nhất chỉ có hàng xa xỉ phẩm. Người ta vẫn xếp hàng dài trước cửa hàng LV, bất kể là phu nhân ông chủ lò than đá ở Sơn Tây, hay thành phần tri thức người bản địa nhịn ăn nhịn tiêu, sẵn sàng tốn ba tháng lương để mua một chiếc túi xách nhỏ về nhà rồi để lên bàn thờ thắp hương sùng bái, nét biểu cảm trên gương mặt họ chẳng khác gì nhau. Các thương hiệu xa xỉ đều liên tục công bố số liệu tài chính ra bên ngoài, quý thứ nhất đã tăng trưởng bao nhiêu, quý thứ ba doanh thu lợi nhuận được hơn bao nhiêu, vô số những quả cầu tuyết khổng lồ từ trên đỉnh núi vẫn đang ầm ầm lăn xuống, chúng càng lăn càng to, nghiền nát giấc mơ của vô số người.

Mùa thu này, tình hình kinh tế của Thượng Hải như đang trải qua một trận động đất yếu ớt nhưng âm ỉ và dai dẳng, nó không hề khiến trời long đất lở, máu chảy đầu rơi, nhưng mọi người đều phải trải qua những ngày tháng đầy hoảng sợ trong tiếng nổ ầm vang âm ỉ ấy. Bàn chân họ không thể bám chắc trên mặt đất được, cảm giác da đầu săn lại khiến họ lo lắng lúc nào cũng có thể bị ném vào không trung.

Công ty chúng tôi cũng vậy.

Tổng doanh thu quảng cáo của “M.E” đã giảm 27%, lượt phát hành giảm 18%, đây là tình thế nghiêm trọng chưa từng xảy ra trong lịch sử công ty. Tất nhiên, bạn cũng không thể trông mong những người cùng lúc đang lo ngày mai chẳng biết có được lĩnh lương hay không, ngày mốt cà chua trong siêu thị có đắt hơn thịt lợn hay không, nhưng vẫn có đủ tâm trạng để dành thời gian quý giá ngồi nhàn nhã vừa uống cà phê vừa xem tạp chí văn nghệ – triển lãm của bảo tàng nghệ thuật Ngoại Than liên quan quái gì đến tôi, có một nhà văn nào đó của châu Âu mấy trăm năm trước từng viết du kí về Trung Quốc liên quan quái gì đến tôi, môn nghệ thuật thủ công dân gian truyền thống nào đó sắp biến mất liên quan quái gì đến tôi, một nhà điêu khắc nào đó đã mở triển lãm trong cung Lô Phù liên quan quái gì đến tôi, một nhà thiết kế nào đó sau khi ra hàng đã lập tức bị lạc lối liên quan quái gì đến tôi.

Người ta đang cố để sống, còn tâm tư đâu mà lo chuyện khác.

Tôi tình cờ đi ngang qua một sạp báo bên đường, phát hiện ra không chỉ có tạp chí của chúng tôi, hơn nữa ngoài ra còn có vô số tạp chí thời trang chất đống chẳng bán được đang nằm trên đất, bụi bặm mà xe hơi và giày dép cuộn lên đã đem những khuôn mặt giả tạo của các minh tinh nhờ vào PS[2] chỉnh sửa đến mức như vỏ trứng gà hoàn mỹ không tì vết trên các trang bìa tạp chí kia, làm cho ngập ngụa trong bụi đất, trông vô cùng thảm hại.

[2] Viết tắt của photoshop, một phần mềm đồ họa với các ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh được dùng phổ biến hiện nay.

Gương mặt Cung Minh cũng chẳng phải quá đẹp. Sắc mặt ngày càng trắng bệch, anh tay luôn căng mày nhíu mắt, nhân trung cũng kéo dài đến mức trông còn hơn cả chúa tể Voldemort. Nếu không phải nhờ đôi chân mày dày rậm đen láy, sống mũi cao anh tuấn, trông có vẻ khác với tạo hình của chúa tể Voldemort, thì có lẽ tôi phải nghi ngờ lúc nào anh ta cũng có thể móc từ trong túi áo vest ra một cây gậy thần niệm một câu thần chú “Avada Kedavra” với đám công nhân viên đang ngủ gà ngủ gật.

Anh ta không còn nhiều thời gian nhàn rỗi nghiên cứu những món đồ gốm mới nhất đến từ Tây Ban Nha để sai cấp dưới đi sưu tầm một bộ, cũng không còn tâm trạng chỉ thị cho tôi và Kitty đi khắp Thượng Hải tìm kiếm những loại cà phê với đủ hương vị khác nhau. Ngày nào anh ta cũng có những cuộc họp không có hồi kết, gọi những cuộc điện thoại không có điểm dừng, xem những tài liệu số lượng không giới hạn. Di động chỉ cần ngơi một chút, là phải cắm ngay vào nguồn sạc, nếu không thì trong trạng thái tiêu hao năng lượng cao với mỗi cuộc gọi bình quân đến bốn mươi lăm phút, đừng nói là iPhone, cho dù là đổi thành di động Sơn Trại do Trung Quốc sản xuất có nguồn điện chẳng khác nào pin hạt nhân, tôi tin rằng cũng không chịu nổi.

Càng gay hơn nữa là, công ty đang dốc toàn lực chuẩn bị khởi động một tạp chí thuộc loại hình nghệ thuật ra đời trong năm tới. Vốn khi lên kế hoạch lộ trình sản phẩm, cũng đúng vào thời kỳ tăng trưởng tốc độ cao của “M.E”, hồi đó nguồn khách hàng và độc giả tăng vọt từng ngày, khiến công ty có đủ niềm tin với tạp chí mới, trước đó tại tiệc chiêu đãi nội bộ dành cho khách hàng quảng cáo, những người đứng đầu bộ phận kinh doanh của rất nhiều thương hiệu còn chen chúc nhau muốn xem tạp chí mới thuộc “M.E” là mặt trận kinh doanh quảng cáo mới của họ. Nhưng chỉ trong thời gian vài ba tháng, cả đất trời đều như đã đổi màu, ánh hồng rực rỡ trước đó soạt một cái đã biến thành màu xanh dưa chuột. Trước đây, những nhà kinh doanh quảng cáo thương hiệu tài chính hùng mạnh, chỉ hận không thể trực tiếp cầm từng súc hiện kim màu hồng phấn nặng đến mấy cân ném thẳng vào mặt chúng tôi, giờ đều như bánh xe xì hơi, chẳng ngọ nguậy được nữa. Những câu nói với tần suất cao trong miệng họ cũng chuyển từ “không thành vấn đề, bao nhiêu tiền, chúng tôi trả”, thành “không chắc nữa, rẻ tí đi, để xem đã.”

Vì vậy, trong khi cả Thượng Hải đều chìm trong mưa gió, mọi công ty đều cắt giảm chi tiêu, thu hẹp chiến tuyến, chúng tôi lại bận rộn hơn ai hết. Thậm chí công ty không những không cắt giảm nhân viên, mà trái lại còn xây dựng đội ngũ nhân viên mới để phục vụ cho ấn phẩm mới toanh sắp tới. Người khác thèm thuồng hâm mộ chúng tôi, nhưng chuyện nóng lạnh bên trong chúng tôi tự biết. Đây rốt cuộc là uống rượu độc giải khát trước ngày tận thế, hay cuộc tử chiến giải quyết tận gốc mọi vấn đề, chẳng ai nói rõ được. Mọi người đều giống những chú hề đột nhiên bị ép buộc phải trèo lên dây thép, chẳng ai dám manh động để tránh cảnh đắm hết cả thuyền. Tổ rơi xuống đất lẽ nào trứng còn nguyên vẹn, cho dù công ty vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh, chưa cắt giảm tiền lương và nhân sự, nhưng trong thời đại mà chỉ số CPI nhảy vọt không ngừng giống như nhiệt kế trong nách của người béo lên cơn sốt, thì không tăng lương cũng chẳng khác nào bị giảm tiền.

Ngay cả Kitty dạo gần đây cũng không còn điên cuồng mua sắm giày cao gót nữa. Phải biết rằng, trước đây con vật mà chị ta yêu thích nhất là con nhện, từng có thời chị còn muốn xăm hình con nhện lên vai, trước sự nghi ngờ của tôi, chị ta nói: “Vì nó có tám chân! Ngày ngày có thể đi bốn đôi giày cao gót khác nhau!” Tôi châm chọc lại: “Vậy chị nên thích con rết thì đúng hơn!” Chị ta đã nghiêm túc từ chối lời đề nghị của tôi: “Không được, thế thì tôi phá sản mất.” Thậm chí ở công ty đã bắt đầu có người đem cơm đi làm – phải biết rằng trước đó, “M.E” chỉ có hai loại người, một loại người không ăn cơm, chẳng hạn như nhóm cố gắng ép xác đến gầy đét mà đầu têu là Kitty, một loại chỉ cần ăn cơm là có thể dùng chi phiếu để thanh toán, đó là nhóm giám đốc với Cố Nguyên, Cố Ly đứng đầu. Đã không làm được quỷ đói mặc áo vàng đeo bạc, thì chí ít cũng đừng biến thành thằng cùng đinh da bọc lấy xương – ăn nhiều thêm chút, chí ít khí sắc xem ra cũng hồng hào, tướng mạo cũng không đến nỗi nhếch nhác.

Nhưng không phải ai cũng sống cảnh giật gấu vá vai như thế. Luôn có một số người là vật cưng của Thượng Đế. Từ trước đến nay tôi vẫn dán cái mác này lên người Cung Minh, Sùng Quang, hoặc Cố Nguyên, Cố Ly. Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện sẽ có một ngày, tôi sẽ đem từ ngữ này đặt trên đầu Nam Tương. Nó có thể là “Hồng nhan bạc mệnh”, có thể là “nàng lọ lem tội nghiệp”, có thể là “hang sâu u lạnh ai nào biết”, có thể là “nàng công chúa ngủ trong rừng”, nhưng nó không thể nào, cũng như không nên là “vật cưng của Thượng Đế”. Có thể tôi đã nhầm. Sự hiểu biết của Nam Tương về thị trường nghệ thuật và vốn liếng về tri thức nghệ thuật, khiến nó như cá gặp nước trong quá trình chuẩn bị tạp chí mới. Sau khi gần như đã hoàn thành mấy hạng mục công tác tính toán chung, nó đã từ trợ lý mỹ thuật thăng chức lên làm chủ quản mỹ thuật, sau đó, tôi lại nghe tin nó đã trở thành tổng giám đốc kinh doanh của tạp chí mới. Nó chính là con cá muối trở mình sống lại, nó đắt như giấy Lạc Dương[3], nó chính là con cá chép đã vượt long môn kia, lắc lư vùng vẫy bơi từ phố Đông đến phố Tây – huống hồ đằng sau nó còn có một người bạn trai đang nắm trong tay một số lượng lớn cổ phần của công ty làm hậu thuẫn vững chắc.

[3] Thời Tây Tấn, đô thành Lạc Dương có một nhà văn lớn tên là Tả Tư. Ông này rất tài hoa, văn chương sắc bén. Qua mười năm dốc lòng sáng tác, cuối cùng ông này đã hoàn thành được một tác phẩm lớn tên gọi Tam Đô phú. Vì được các nhà phê bình nổi tiếng khen ngợi, cho nên tác phẩm này nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của mọi người, nhà nhà đều muốn có một quyển. Nhưng thời đó kỹ thuật in ấn còn chưa được như ngày nay, việc truyền bá ấn phẩm, hoàn toàn phải dựa vào in ấn thủ công. Vì ai ai cũng cần mua giấy để sao tác phẩm, cho nên giấy Lạc Dương không thể nào thỏa mãn hết nhu cầu ấy, thành ra giá giấy tăng cao chưa từng thấy. Sau này, thành ngữ “đắt như giấy Lạc Dương” dùng để ca ngợi tác phẩm nhận được sự yêu mến vô cùng của độc giả, bán rất chạy.

Tôi đã làm trong “M.E” được hơn ba năm, hiện giờ cấp bậc hành chính còn thấp hơn cả Nam Tương. Cho dù tôi và Kitty đều được xem là trường hợp đặc biệt, quyền hạn vô hình trên tay rất lớn, suy cho cùng chúng tôi đều là người theo sát bên hoàng đế, dù chẳng thể đầu ấp tay gối mà thủ thỉ tâm tình thì chí ít cũng có thể xiên xẹo mấy câu. Nhưng trong ván cờ này, Nam Tương là người đang ngự trị trên chúng tôi – chí ít trong mỗi cuộc họp hàng tuần do Diệp Truyền Bình triệu tập, đều có một chiếc ghế thuộc về nó, còn tôi, chỉ khi Cung Minh yêu cầu cà phê, mới có tư cách đẩy cánh cửa lớn luôn đóng im ỉm kia mà bước vào.

Ngày nào cũng phải bê một tách cà phê đến, dưới ánh mắt như tôi không hề tồn tại của mọi người, bước vào căn phòng họp ấy, đón nhận sự sỉ nhục đã được dành riêng cho mình. Tôi chưa từng dám ngước mắt lên nhìn về phía Nam Tương, vì không biết khi nhìn thẳng vào ánh mắt ấy rốt cuộc sẽ đem đến cảm xúc gì. Tôi cũng không dám nhìn Cố Ly, vì tôi biết trong ánh mắt đó sẽ là ánh mắt tràn ngập sự đồng tình.

Tôi càng không dám nghĩ đến chuyện nhìn Cố Nguyên, bất kể cảm xúc trong mắt anh ta với tôi là gì, tôi cũng không muốn nhìn. Tôi căm thù anh ta.

Cuộc sống cứ ngày ngày trôi qua như vậy, chẳng có sự kinh ngạc hay mừng rỡ quá lớn, cũng chẳng có đau đớn hay thương cảm quá mãnh liệt. Vì mấy đứa tôi chỉ cần không chụm lại bên nhau, thì dường như Thượng Đế cũng chẳng còn hứng thú xem kịch nữa, cuộc sống của chúng tôi giống như từ trạng thái của những cơn sóng lớn cuồn cuộn lúc triều dâng lên trên sông Tiền Đường, biến thành những con sóng lăn tăn trên Biển Chết rồi. Tôi, Nam Tương, Cố Ly, Cố Nguyên – bốn người duy trì một cuộc sống ngày ngày ngẩng đầu lên không gặp cúi đầu xuống cũng không thấy như thế, cho dù ngày nào chúng tôi cũng gần như đều có tám giờ, cùng hoạt động chung trong một không gian có bốn bức tường bao quanh, đôi khi khoảng cách gần đến mức đôi bên có thể ngửi thấy cả mùi nước hoa trên người đối phương nữa.

Trong khoảng thời gian này, truyền hình cáp bắt đầu chiếu lại bộ phim Những người bạn[4], hồi đó mấy chúng tôi đều là fan cuồng của Những người bạn. Nhưng khi Mỹ đã phát sóng đến tập 6, thì Thượng Hải mới chỉ phát tập 1, hồi ấy vẫn còn chưa có nhiều tài nguyên trên mạng như bây giờ, cũng chưa có những đường truyền tốc độ cao dùng công nghệ 4G cho phép tải dữ liệu xuống với tốc độ 720p thậm chí 1080p với các files dữ liệu dung lượng lớn. Tầm nhận thức của chúng tôi về điện ảnh Mỹ vẫn dừng lại ở những giọng nói quen thuộc của đám diễn viên lồng tiếng trên đài truyền hình. Tôi còn nhớ khi ấy đài truyền hình cáp Thượng Hải phát tập cuối trong loạt mười tập phim của Những người bạn vào năm 2006, bốn chúng tôi đã mua mấy chai Cola lớn, 3 suất gà rán Kentucky loại to mang về nhà, cùng cuộn mình trong chiếc chăn to chen chúc trên giường Cố Ly mà thưởng thức đoạn kết mà bao người mong đợi ấy – sau đó mấy năm, bọn tôi mới biết, khi bọn tôi nước mắt nước mũi sụt sùi thưởng thức cảnh hạ màn cuối cùng ấy, thì trên thực tế cảnh này đã chậm hẳn hai năm rồi, vì ở bên kia bờ đại dương, phim Những người bạn đã hạ màn từ năm 2004.

[4] Tên tiếng anh là Friends.

Còn đến năm 2010, dường như người ta lại bắt đầu hoài cổ. Người máy mặt phẳng lòe loẹt đủ màu trong ký ức thời thơ ấu, nay đã biến thành Người máy biến hình phiên bản 3D, chúng càn quét các phòng vé trên thế giới với sức công phá của thuốc nổ và tốc độ của tia laser; tập thứ nhất Harry Potter chúng tôi bắt đầu đọc từ năm lớp bốn tiểu học, giờ đây cũng đã đến cao trào đầy nước mắt ở tập cuối phiên bản điện ảnh, nhớ lại hồi đó, trong hộc bàn ở lớp lúc nào cũng nhét sẵn một cuốn sách truyện vừa đọc với hai mắt thèm thuồng đến sáng rỡ, vừa mơ mộng rằng mình cũng có thể múa may chiếc đũa thần giống bọn nhóc trong truyện, còn bây giờ người ta lên mạng bàn tán về những điều mình nghĩ; hay như tiểu thuyết Sex and the City được những cô gái đại học vừa mới biết thế nào là thời trang thế nào là tình dục, say mê đến điên dại hồi đó, cũng bắt đầu được chuyển thành phim, tuổi tác của mấy nữ diễn viên chính trong phim cộng lại chắc phải đến hơn hai trăm tuổi, nhưng không hề cản trở họ điên rồ kiếm tiền nhờ vào sự hoài niệm của mọi người về năm tháng đã qua, sự tiến bộ của điện ảnh không chỉ nằm ở khả năng có thể dùng CG để ảo hóa ra Avatar hoặc Yêu tinh xanh, mà còn nằm ở chỗ có thể biến một Sarah Jessica Parker 50 tuổi trông vẫn như Carrie 39 tuổi trong ký ức của chúng tôi, tất nhiên, Botox cũng giúp sức không nhỏ.

Lúc này, ngay cả phim Những người bạn cũng được lôi ra chiếu lại. Được cái nó vẫn giữ dáng vẻ của hồi đó, chứ không biên tập lại thành một phiên bản mới nhất hay phiên bản điện ảnh gì đó.

Hôm ấy tôi vô tình lang thang trên các trang mạng của Trung Quốc, đọc được tình hình hiện tại của mấy diễn viên chính khi xưa, dường như đều chẳng mấy lạc quan, tuy mọi người đều đang nhao nhao quay phim truyền hình, nhưng chẳng ai muốn dừng lại một chút để tìm hiểu về cuộc đời sau phim của những diễn viên này.

Tôi ngẩn người nhìn vào màn hình trang web, sao mà giống chúng tôi đến thế.

Hồi chúng tôi còn ở bên nhau, mỗi lần tụ tập thì dường như có thể lật tung cả bến Thượng Hải, làm sập cả phố Nam Kinh, lúc này đã mỗi người một ngả, bị dồn đánh đến mức phải hiện nguyên hình, biến thành những kẻ qua lại trên phố không thể bình thường hơn được nữa. Giống như nhóm hát đã từng một thời hô mưa gọi gió, sau khi tan đàn xẻ nghé, sẽ nhanh chóng bị người ta quên lãng.

Thậm chí tôi cũng dần quen với cuộc sống chỉ có cuộc sống hai người tôi và Cố Ly trong căn biệt thự rộng thênh thang. Không có Đường Uyển Như và Nam Tương, những cuộc trò chuyện giữa tôi và Cố Ly cũng dần ít đi, hơn nữa dạo gần đây nó cũng trở nên bí hiểm, hành tung thoắt ẩn thoắt hiện. Không chỉ không gặp được nó trong biệt thự, mà tôi khi ngay ở công ty cũng chẳng thấy tăm hơi đâu.

Nhưng mỗi khi tôi chuyển tài liệu hoặc cà phê cho Cung Minh, thi thoảng có thể bắt gặp nó đang ngồi trên ghế đối diện với bàn làm việc của Cung Minh bàn bạc to nhỏ gì đó. Phần lớn thời gian xem chừng đều là bàn bạc công việc bình thường, Cố Ly cầm một xấp tài liệu trên tay rồi báo cáo tình hình tài chính các dự án với Cung Minh, trông chẳng khác gì nữ phát thanh viên dẫn chương trình tin tức đang chăm chú nhìn vào máy tính nhắc lời vậy, còn Cung Minh chỉ phụ trách hai việc: lắc đầu, hoặc gật đầu.

Chỉ có một lần, tôi bắt gặp Cố Ly và Cung Minh tranh cãi, khi đẩy cửa bước vào đúng lúc tôi bắt gặp dáng vẻ Cố Ly vừa đập bàn đứng lên, ngay tức khắc tôi bị diện mạo kích động đến đỏ mặt tía tai của nó hù cho giật mình, tách cà phê trên tay hắt đi một nửa lên thảm sàn nhà màu trắng của Cung Minh, khi đó tôi cảm thấy Cung Minh đang trợn mắt nhìn mình, anh ta chẳng nói chẳng rằng kéo ngăn kéo bàn ra một cái soạt, cảm giác vừa như cầm súng, lại vừa giống cầm gậy ma thuật niệm thần chú “Avada Kedavra”, nhưng anh ta nhanh chóng quăng ra miếng khăn lông hút nước rồi chỉ thẳng ngón tay thon dài về phía vết bẩn loang trên sàn còn miệng thì lắp bắp, kích động như sắp ngất đến nơi.

Tôi bò lên sàn nhà cố sức lau sạch vết bẩn trên thảm, nhưng con tim hiếu kỳ và lỗ tai lại đang cố chộp lấy mọi đầu dây mối nhợ trong phạm vi căn phòng. Nhưng Cố Ly lại chẳng nói gì, quay người sa sầm mặt bỏ ra ngoài.

Ngoài thời gian làm việc, chúng tôi đều lặng lẽ bình yên sống bên nhau. Chỉ cần buổi tối không có việc gì, thì hai đứa chen nhau trên chiếc sofa trong phòng khách cùng xem phim Những người bạn đang được chiếu lại. Cố Lý kéo tấm chăn lông thú cực lớn màu tuyết trắng trong phòng ngủ ra, quấn lấy hai chúng tôi – tấm chăn ấy được nó mua trong một cửa hàng bán đồ chăn ga gối đệm trên lầu năm của tòa nhà Hằng Long, sau khi nó lên chức tổng giám đốc tài vụ của “M.E” được hai hôm, khi về đến nhà nó đã đem tấm chăn lông cực lớn tưởng chừng có thể cuốn đủ mười người như Đường Uyển Như ấy trải ra, đúng lúc tôi vô tình nhìn thấy nhãn giá còn chưa kịp xé đi, “Chết tiệt! Một cái chăn thôi mà! Một vạn hai! Cậu muốn chết hả!” Tôi the thé gọi Đường Uyển Như và Nam Tương, rồi cùng lúc đả kích phong cách hoang phí kiểu chủ nghĩa tư bản của Cố Ly. Cố Ly trợn mắt với tôi, rồi cầm chăn trắng quấn lên người: “Cậu đọc thiếu một số 0 rồi.”. Lời của nó vừa dứt, Đường Uyển Như và Nam Tương hai con cầm thú này đã sấn sổ nhảy bổ vào trong chăn, ba đứa nó quấn mình trong một chiếc chăn lông, trông chẳng khác nào hai nàng tiên và một thú nữ trong rừng rậm.

Còn bây giờ chiếc chăn lông cực lớn có tới hơn một nửa đang trải trên thảm dưới ghế sofa, tôi và Cố Ly chỉ dùng chưa đến một nửa tấm chăn cũng đã đủ quấn chặt đến mức mưa gió chẳng thể lọt vào người được.

Trong cuộc sống tĩnh lặng đôi khi vẫn sẽ có những chuyện kinh động xảy ra. Giống như mặt hồ dù bình lặng đến mấy, cũng thi thoảng sẽ có những con châu chấu từ trong bụi cỏ nhảy xuống hồ tự vẫn.

Tối đó khi tan ca về nhà, vừa mở cửa ra đã đụng ngay một bóng người mảnh mai, tóc dài quá thắt lưng đang đứng ở hành lang nhìn thẳng vào tôi, chìa khóa trên tay bất chợt rơi, đánh xoảng một tiếng giòn tan, “Nam Tương?” Tôi hét lên trong vô thức, đột nhiên một luồng dịch chua xót trào lên trong cổ họng.

Nhưng khi cô gái tóc dài ấy quay đầu lại, thì lại là chuột tinh Cố Ly, nó đang vuốt ve mái tóc giả vừa đội lên khi nãy, lẳng lơ quyến rũ nói với tôi: “Lâm Tiêu, nhìn lão nương thế này, cảm thấy tớ có nên đi chôn hoa hay thêu cái gì đó không?” Tôi cố nén nhịp tim vừa mới cuồng loạn khi nãy xuống đôi chút rồi nói: “Cậu nên đi tìm một đạo sĩ gọi hồn.”

Tôi vừa thay dép lê, vừa nói: “Cậu làm thiên địa kinh hãi quỷ thần than khóc như vậy, đừng nói là muốn diễn vai Nhiếp Tiểu Sảnh tại lễ công bố phim Sảnh nữ u hồn phiên bản mới đấy? Tớ nói cho cậu biết, nghe nói cái đó có thể xem là thời trang trong phim, nhưng dù ở nơi hoang vu hẻo lánh, cũng phải ngày ngày kéo váy dài mà chạy khắp nơi. Hơn nữa, cô ta ăn kẹo suốt ngày mà không sợ béo phì, càng không sợ bị thành phần đường dư gây nên tác dụng đường hóa cơ thịt sản sinh ra nếp nhăn, cậu không muốn bị như cô ta phải không?”

Cố Ly túm lấy mái tóc phía sau lưng, rồi hất mạnh qua vai phải, xem chừng trông giống người dân tộc thiểu số ở vùng Vân Nam, luôn hất đầu nhảy quanh lửa: “Không, tớ phải tham gia dạ tiệc của một nhãn hàng nước gội đầu, tớ chuẩn bị hạ họ, dựa vào mái tóc đẹp đen láy này, bọn họ nói dù thế nào cũng sẽ mua trang quảng cáo hơn nửa năm!” Nói xong, lại hất mái tóc sang bên trái, thế là, một bình hoa vì quá sợ hãi đã lăn ra khỏi giá trưng bày đồ vật, vỡ tan.

Tôi: “…”

Cố Ly: “…”

Lúc sắp ra khỏi nhà, Cố Ly còn chạy vào nhà vệ sinh gỡ mái tóc kinh khủng ấy ra, sau khi nắn sửa mười mấy phút, cuối cùng nó đã trở lại với dáng vẻ gầy còm của Victoria Beckham, nó cũng thừa nhận, nếu tình cờ trên phố đụng phải cô gái có mái tóc dài như mây thế, quả thực sẽ chết ngất mất (để tiện cho mình không phải dễ dàng đánh nhau với cô ta). Nó vừa soi gương chỉnh trang nhan sắc, vừa nói mà không hề để ý: “Giá mà có Nam Tương ở đây thì tốt, mái tóc cứ như phướn gọi hồn của nó mà thi thoảng lắc qua lắc lại vuốt tới vuốt lui, chắc chắn có thể hớp hồn đối phương khiến họ mua đứt cả nửa quyển tạp chí ấy chứ.”

Tôi nhìn bóng dáng của Cố Ly, không biết nên phải tiếp lời ra sao. Sự thinh lặng của tôi cũng khiến Cố Ly ý thức được sự nhung nhớ của bản thân mình đối với Nam Tương trong câu nói vừa rồi, nó hầu như không nhắc đến Nam Tương nữa. Rõ ràng nó không định tán gẫu tiếp cùng tôi đề tài này nữa.

Nhưng tôi muốn, tôi hỏi: “Cố Ly này, đã lâu như vậy rồi, trong lòng cậu còn thấy có lỗi với nó không?”

Cố Ly tìm mặt tôi qua gương soi, nó nhìn thẳng vào mắt tôi rồi đáp: “Anh ấy/cô ấy nào? Cậu đang nói ai vậy?”

Tôi đột nhiên không biết phải trả lời sao. Vì trong đầu, đột nhiên ào tới rất nhiều anh ấy, cô ấy, cô ấy, anh ấy.

Ai có lỗi với ai đây.

Thực ra, tôi biết nỗi khổ tâm trong lòng Cố Ly. Một nhóm đông như vậy, nói tan là tan, đổi lại cũng chẳng ai chịu đựng nổi. Chẳng ai muốn gạt bỏ lòng tự ái để liên lạc lại với ai, dường như mọi người đều dốc toàn lực hòng chứng minh, chẳng có ai, tôi vẫn sống như thường.

Thế là mọi người vẫn cứ thế mà sống, ngày lại ngày trôi qua, trông cũng chẳng có chuyện gì đáng lo.

Chỉ là đôi khi, giật mình tỉnh giấc trong đêm, khoác chiếc chăn lông vào phòng vệ sinh, tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng thở dài vang ra từ phòng Cố Ly. Tôi đứng trước cửa phòng nó, lặng lẽ nán lại vài ba phút, rồi lại trở về tổ của mình khi chân tay đã tê cóng.

Thượng Hải mùa thu, trời vừa chập tối, khắp nơi đã ướt rườn rượt, cảm giác cứ nhặm nhặm như cầm một nắm cát từ trong tủ lạnh ra, rồi chà vào những khớp xương của người ta vậy.

Trong thời gian này, việc duy nhất đáng để vui mừng là thời gian mà tôi và Sùng Quang ở bên nhau đã nhiều hơn. Một mặt, Cung Minh đã dùng toàn bộ thời gian để xử lý các vấn đề của công việc, còn tôi với tư cách chính là người phụ trách chính một phần đời sống cá nhân của anh, cũng nhờ đó không còn bận tối mắt tối mũi như trước nữa, thời gian anh gọi Kitty còn nhiều hơn gấp bội lần so với tôi, thậm chí thời gian anh ở cùng Nam Tương còn nhiều hơn cả tôi. Mặt khác, do hình mạng nhện trong các mối quan hệ riêng trước đây của tôi trong chớp mắt đã đơn giản hóa thành một đường thẳng tắp, tôi đầu này, Cố Ly đầu kia, hai chúng tôi như hai con châu chấu buộc chung một sợi dây, nhảy lên nhạt nhẽo và trùng lặp mỗi ngày.

Vì vậy thời gian rảnh của tôi mỗi lúc một nhiều. Cuối cùng tôi cũng có cơ hội để làm hết những việc mà trước đây chẳng có cơ hội làm cùng anh.

Tôi cùng anh đi công viên Thế Giới đạp xe đạp đôi, cùng xem biểu diễn nhạc nước trên mặt hồ lớn nhất Thượng Hải với rất nhiều người dân và du khách, rồi lại cùng đứng trên cầu rắc vụn bánh mì xuống hồ, ngắm đàn cá chép li chi lít chít hồng hồng đen đen khỏe khoắn tựa vườn thú đang nhào lộn Sùng Quang mỉm cười hóm hỉnh, vừa vỗ tay vừa nói: “Ái chà, phải chụp lại gửi cho Cung Minh xem, đảm bảo anh ấy sẽ lập tức nhảy lên bàn làm việc chộp lấy tai nghe mà rít lên, ‘người đâu!’”

Tôi tưởng tượng khung cảnh ấy theo miêu tả của Sùng Quang, không nhịn được mà cười đến mức suýt ngã xuống nước. Tôi vừa định khen anh thật khéo tưởng tượng, thì đột nhiên nhớ lại, trước đây anh là nhà văn có sách bán chạy nhất toàn quốc. Giây phút đó, tôi thấy cực kỳ khó chịu, đột nhiên cảm thấy người đang đứng trước mặt thực ra là một người khác, tôi yêu cái vẻ ngoài cao to đẹp trai, yêu gương mặt châu Âu tóc vàng mắt xanh, yêu bóng dáng mê hoặc trong những bộ đồ cao cấp bước đi trên cầu bị những ánh đèn flash điên rồ chụp lấy. Còn người tôi từng yêu say đắm, linh hồn ấm áp mềm mại tỏa ra mùi thơm của thảo mộc kia nơi anh ấy, lại ngày càng chìm sâu trong thân xác mới mẻ này, dường như tôi sắp không còn nắm bắt được anh của quá khứ nữa rồi.

Có một hôm, hai chúng tôi vào rạp xem phim, nam nữ diễn viên chính sau những tranh cãi ồn ào chia tay rồi gặp lại, họ đi trên cùng một con đường. Cô gái ngập tràn hạnh phúc thu dọn hành lý của mình, vì hôm sau dọn đến ở cùng với nam diễn viên chính. Hình ảnh trên màn ảnh đột nhiên đánh trúng tôi, trong ký ức, hình bóng của Nam Tương chợt lóe lên, ngày đó, nó cũng như vậy, cả người nó như đang phát sáng, ánh mắt nó lấp lánh niềm vui, rạng ngời khát khao. Cái dáng vẻ muốn bắt đầu cuộc sống mới của nó, dáng vẻ hầu như không chút quyến luyến với quá khứ của nó, cái dáng vẻ làm ngơ trước cục diện rối như tơ vò của chúng tôi của nó, đang nhoi nhói sâu thẳm trong tôi.

Đôi bàn tay ấm áp đặt lên mu bàn tay tôi, tôi hít sâu một hơi, may mà trong rạp tối đen chẳng ai thấy được đôi mắt đã rưng rưng lệ của tôi.

Sùng Quang cúi thấp người xuống, sát bên cạnh tôi, nói bằng giọng thấp trầm mà vô cùng quyến rũ: “Lâm Tiêu, em chuyển đến nhà anh, cùng sống với anh đi. Thử xem sao, được không?” Mùi hoóc môn trong hơi thở của anh ấy, như một cây kéo sắc lẹm, cắt nát mọi lý trí của tôi thành những mảnh vụn.

Nhưng khi những bông hoa tuyết vỡ vụn ấy thổi bay lên đầy mơ mộng trong não, thì tôi đột nhiên nói một câu ở sâu thẳm trong tiềm thức, câu nói ấy giống như lý trí còn sót lại duy nhất trong tôi, hoặc như xuất phát từ bản năng con người tôi, Sùng Quang sau khi nghe xong, chợt ngẩn người ra, anh bất giác buông tay. Thực ra tôi hiểu cảm giác của anh, lời của anh thật quá kỳ lạ, nếu đổi lại là tôi, nghe thấy đối phương đáp một câu quái lạ như vậy, tôi cũng sẽ bối rối như vậy.

Câu mà tôi thốt ra khỏi miệng khi đó là: “Vậy Cố Ly thì làm thế nào?”

“Cái gì mà bảo tớ làm thế nào?” Đôi giày cao gót nhọn của Cố Ly vừa đeo được một chiếc, nó đã vội đứng thẳng người, chiếc giày còn lại nó xách trên tay, mũi nhọn đế giày của nó kê ngay lên cổ họng tôi, như một nữ thích khách trong phim võ hiệp của Từ Khắc, nhưng dáng vẻ bên cao bên thấp của nó lại như tên thọt trong phim về đề tài nông thôn của Cổ Chương Kha, “Lâm Tiêu, tớ cảnh cáo cậu, tớ không yêu dân đồng tính! Cậu hãy nhớ đấy!”

Nói xong, nó lập tức đeo chiếc giày còn lại vào, ngay tức khắc cao hơn tôi thêm 12cm, khi nó vừa cúi người đánh cho đôi mi thêm dày thêm đen, đặng tiếp tục giáo huấn, thì tôi đã ôm chặt lấy nó.

Đó là lần đầu tôi khóc lâu nhất trong năm nay. Nước mắt nước mũi rơi đầy trên chiếc áo khoác lông cừu ngắn của nó.

Tôi đã chuyển đến căn hộ cho thuê ở khách sạn bên bờ sông Tô Châu nơi trước đây Sùng Quang từng ở.

Bước vào đại sảnh quen thuộc, hành lang quen thuộc, ấn nút thang máy của tầng 18 quen thuộc, bước vào cánh cửa quen thuộc.

Trong đầu tôi không ngừng hiện lên những đoạn phim ngắn của hồi đó khi tôi mặc áo trùm đầu thể thao giá rẻ, đeo ba lô đơn, đôi giày ba-ta ba lá[5] ngồi ở hành lang đợi Sùng Quang giao bản thảo. Đã nhiều năm trôi qua, khách trọ trong căn hộ cho thuê của khách sạn này đến rồi lại đi, đi rồi lại về, vô số lữ khách sau khi trú chân lại ra đi tìm đến chân trời mới.

[5] Giày thể thao đế bằng hiệu Adidas.

Còn tôi, lại quay về nơi đây.

Cách sắp đặt bài trí trong phòng trông chẳng hề thay đổi, chiếc giường nệm thương hiệu chuyên dùng của hoàng gia Tây Ban Nha vẫn được đặt tùy hứng trên sàn nhà, trên giường vẫn là ga giường và chăn gối màu trắng mà anh ấy yêu thích, các loại tạp chí văn nghệ và sách ảnh rơi đầy trên sàn vẫn có thể chứng minh anh ấy còn lưu giữ lại thẩm mỹ và hứng thú đọc sách hồi đó, chứ không phải đã biến thành một người mẫu cơ bắp phát triển, còn đầu óc trống rỗng. Thứ duy nhất khác trước là trên bậu cửa có đặt mấy chậu thường xanh, trong đó có một cây nở ra một bông hoa màu trắng gạo e ấp trong nắng chiều.

Trong ánh sáng hỗn độn của buổi chiều tà, trong sự ngỡ ngàng tột cùng, tôi như gặp lại Sùng Quang của trước kia, mái tóc anh ấy đen láy, mặc T–shirt màu trắng sạch sẽ ngồi trên sàn nhà bật phim Halo, chờ đợi màn hình plasma hiển thị hình ảnh bom nổ tung tóe, súng đạn rợp trời, anh ấy nghe tiếng bước chân tôi, liền quay đầu lại nhìn giữa bầu không khí của buổi hoàng hôn, rồi nở nụ cười với tôi, chân mày đen láy giống hệt nét thủy mặc trong tranh Trung Quốc, thanh tú sắc đậm tựa nét phác họa mô tả, hàm răng ngay ngắn và đôi môi mềm mại vẫn còn nguyên dáng vẻ trong ký ức, mái tóc đen rối bù xù trông rất có sức sống. Anh ấy mở rộng vòng tay, gọi tôi: “Trợ lý trẻ, cô lại đến hối thúc bản thảo đấy à? Cô phải chơi với tôi một ván trước đã.”

Tôi quay người lại, vùi mặt vào lồng ngực của Lục Thiêu mắt xanh tóc vàng, cơ bắp rắn rỏi.

Quang cảnh ngày xưa ùa về, như đánh tan tôi thành trăm mảnh.

Bàn tay anh ấy vỗ nhè nhẹ lên lưng tôi, như đang hòa điệu với một bản nhạc vô hình nào đó trong không khí.

Cái cảm giác ấy, giống như chìm đắm trong một giấc mơ xưa cũ không thể nào tỉnh lại ấy, lại ùa về.

Cuối tuần, Sùng Quang đi Bắc Kinh chụp ảnh quảng cáo. Tôi ở nhà pha cà phê. Cả căn phòng tràn ngập mùi hương cà phê ấm áp ngạt ngào, thứ mùi vị như mùi than cháy này, đã xua đi hơi lạnh của mùa Thu, tôi nhìn qua ô kính cửa sổ, nhìn xuống dòng Tô Châu sóng sánh lấp lánh trong đêm dưới chân mình.

Hai năm trước, bờ bên này của dòng Tô Châu là trung tâm thương mại quốc tế Thượng Hải và Raffles City, hầu như khắp Thượng Hải ngoài Ngoại Than và Tháp truyền hình Hòn ngọc phương Đông ra, thì đây là trung tâm đô thị đông đúc náo nhiệt nhất, vô số tòa cao ốc chọc trời tranh nhau mọc lên, vô số tàu điện ngầm ngang dọc dưới lòng đất, trông như những sào huyệt phức tạp của lũ côn trùng tạo nên. Nhưng ở bờ đối diện cách một dòng sông lại chỉ là một vùng lều chỏng chơ tơi bời xơ xác, sau mỗi trận mưa to, đều có mấy chỗ bức tường nứt ra hoặc là mái nhà đổ sụp xuống, những người đã từng cư trú trong những căn nhà ấy lại nối đuôi nhau rời khỏi đây, chỉ còn lại một số người già không thể rời đi được, phải cô độc chờ đợi nơi vịnh sông lặng lẽ này.

Nhưng ngay sau khi chính quyền quy hoạch khu vực này, bến sông tao nhã ấy đã có một cái tên mới: vịnh sông Tô. Vậy là sau mấy tháng quy hoạch được công bố, cả khu vực này liên tục sinh ra ba vua đất. Trong khoảng thời gian sau đó, vô số quy hoạch khiến người đời cắn lưỡi liên tục xuất hiện, khắp khu vực này chính thức trở thành khu quy hoạch thương mại cao cấp của trung tâm thành phố Thượng Hải trong năm năm tới. Những căn nhà kho rách nát cũ kỹ một thời kia, tất cả đều sẽ biến thành phòng tranh cao cấp hoặc nơi làm việc của các nhà nghệ thuật, vô số đồ án ngập trong vàng son như khách sạn cao cấp, biệt thự ven sông cao cấp, trung tâm xa xỉ phẩm,… trong quy hoạch, nó hài hòa ăn nhập với đoạn đường cao cấp bắt đầu từ bến Ngoại Than đã thành hình ở bờ đối diện.

Những người trẻ tuổi từng rời bỏ nơi đây, lại ào ạt kéo về, họ lại nhập vào hộ khẩu của những người già cố thủ còn lại, chờ đợi những khoản bồi thường di dời với những con số dài không thể tưởng.

Joy City đã mọc lên ở bờ đối diện sắp sửa chào bán, sự xuất hiện của những nhà kinh doanh hàng đầu như Big Mac sẽ biến khu đất không đáng giá một xu này trở nên nóng bỏng tay. Bên cạnh những miếng đất đã giải tỏa sạch chờ xây dựng, phát tán ra mùi công trường gấp gáp, tương lai không xa, nơi đây sẽ là tòa cao ốc sừng sững mọc lên.

Thời gian chính là như vậy, từng năm từng năm khiến diện mạo của Thượng Hải đổi khác, bàn tay quyền năng của các vị thần đang cầm đủ thứ màu sơn trang trí, khiến Thượng Hải nhanh chóng thay đổi diện mạo làm người ta hoa mắt chóng mặt.

Tôi nhìn mười mấy nhịp cầu được tạo hình kỳ dị lúc này đang được vô số ánh đèn trang trí ngoại cảnh chói lóa chiếu rọi trên dòng Tô Châu, mấy năm trước, chúng vẫn còn mang dáng vẻ của những cây cầu xưa cũ rách nát, giống như bất cứ lúc nào cũng có thể sụp gãy thành mấy đoạn, rơi xuống lòng sông, rất ít người dám đi qua chúng, chúng cô độc gội mình trong mưa gió hết năm này qua năm khác. Còn giờ đây, chúng đã được gia cố vững chãi, được sửa chữa tôn tạo, mang một hơi hướng quý phái huy hoàng, tô thêm vẻ lẳng lơ cổ điển cho cả dòng sông từng một thời đục ngầu nay đã lại trong trẻo này.

Chúng tôi đều muốn nán lại trong công viên của tuổi thanh xuân, nhưng thế giới lại tiến những bước dài về phía trước, nó sẽ không dừng bước chân của nó vì bất kì ai.

Bên ngoài trời đã đổ mưa. Khi bắt đầu, chỉ là những tia nước mong manh như kim thêu hoa lạnh buốt tinh tế, Thượng Hải được bao trùm trong luồng ánh sáng nê-on, đột nhiên biến thành một vùng mờ ảo, trên trời như có những cơn mưa tuyết màu trắng tinh khôi mịn màng đang tung bay mịt mù, nhưng dần dần, mưa bắt đầu dồn dập, hoàn toàn không giống mưa thu, mà như những cơn mưa ào ạt đến cùng những cơn bão mùa hạ. Kính chắn cửa sổ bị những giọt mưa đập vào vang lên thứ âm thanh lộp bộp lộp bộp.

Tôi bị tiếng mưa làm cho tỉnh giấc, nhưng lại phát hiện mình không phải ở trong căn hộ cho thuê tại khách sạn ở cạnh sông Tô Châu, tôi đang nằm trên giường trong căn phòng một thời thuộc về tôi trong căn biệt thự bên đường Nam Kinh Tây. Căn phòng đang trở nên ấm áp, trong không gian đậm hương cà phê ngào ngạt. Có ai đang pha cà phê sao? Tôi đến đây lúc nào? Tôi đến đây bao lâu rồi?

Tôi lăn mình ra khỏi giường trong sự hoài nghi, bước thẳng xuống phòng khách dưới lầu. Bước qua phòng ngủ của Cố Ly, cửa phòng đang mở, tôi thò đầu vào trong quan sát, chẳng có ai, chiếc chăn phẳng phiu đang trải trên giường, cho thấy hình như chưa có ai nằm. Tôi đưa tay lên, xem đồng hồ, đã hơn 12 giờ đêm, Cố Ly vẫn chưa về?

Khi bước đến phòng khách, thì trông thấy Cố Ly, nó ngồi quay lưng về phía tôi trên ghế sofa, đang chỉnh sửa gì đó trên bàn, trông như đang soạn văn bản, mà lại giống đang viết gì đó. Tôi khẽ gọi, nhưng nó chẳng để ý đến tôi.

Tôi phát hiện cửa sổ phòng khách đang mở, tiếng mưa to nuốt chửng cả tiếng tôi. Hơi nước bên ngoài và hơi lạnh của đêm đều đang ào ạt ùa vào phòng khách. Cố Ly chỉ mặc chiếc áo ngủ bằng lụa mỏng manh, tôi liền lớn giọng gọi nói: “Cố Ly, cậu lạnh không, tớ đi lấy chăn cho cậu nhé?”

Nó vẫn không đoái hoài đến tôi. Nhưng nó lại đứng lên, xem chừng như công việc đã xử lý xong xuôi rồi. Nó quay đầu qua, quét nhìn phòng khách một lượt, ánh mắt ấy dừng lại trên mặt tôi mấy giây, sau đó lại dửng dưng dời đi. Nó nhìn khắp một lượt lại căn phòng này với ánh mắt cẩn thận tỉ mỉ mà như nhớ lại kỷ niệm, trông chẳng khác nào đang kiểm duyệt một di tích, sau đó nó bước về phía cửa chính, lúc này tôi mới thấy hai chiếc túi du lịch cực lớn đã sớm đặt ở cửa.

“Cậu định đi đâu vậy?” Tôi hơi cuống, giọng nói đang run rẩy, “Cố Ly, rốt cuộc cậu sao vậy?”

Nó xoay người qua, chỉ lên bàn trà, tôi nhìn theo hướng tay nó chỉ, trên bàn đã chất đầy một đống ảnh, chụp bốn chúng tôi từ nhỏ tới lớn, trắng đen có, ảnh màu có, ảnh nhỏ có, ảnh to có, trải đầy cả bàn. Bức lớn nhất là bức ảnh chụp bốn chúng tôi trong buổi tốt nghiệp, trên bức ảnh đó Cố Ly đội mũ vuông, trên tay còn cầm chiếc mũ của người khác – nó muốn dùng kiểu tạo hình nhà giàu cao ngạo như vậy, để nói cho người đời biết “bà đây là cử nhân kép”.

Khi tôi ngoảnh đầu lại lần nữa, Cố Ly đã chẳng còn ở đó.

Đúng lúc đó, tôi giãy giụa choàng tỉnh dậy. Lồng ngực đang đập thình thịch, đầu óc căng đau quay cuồng. Xung quanh vẫn là những vật dụng trang trí đơn giản màu trắng, hầu hết đèn ngoài cửa sổ đã tắt, sông Tô Châu đã chẳng còn nhấp nhô làn sóng ánh sáng lấp lánh nữa, trông như đã biến thành một hẻm núi đen ngòm sâu không thấy đáy.

Nhưng ngoài cửa sổ là gió thu khô hanh, chẳng có bất cứ hạt mưa nào.

Tôi sờ tìm di động, màn hình bật sáng, thời gian hiển thị là 12:22.

Tôi mới phát hiện giấc mơ vừa rồi đã khiến lưng tôi rịn đầy mồ hôi. Tôi lục trong tủ lấy ra bộ quần áo khô sạch thay vào, sau đó gọi điện cho Cố Ly, tôi bị bầu không khí méo mó kỳ dị vô cùng trong giấc mơ làm cho sợ hãi.

Tôi gọi vào máy bàn ở biệt thự trên phố Nam Kinh Tây, điện thoại reo rất lâu, nhưng chẳng có ai bắt máy.

Tôi lại gọi vào di động của Cố Ly, điện thoại đổ chuông liên tục, tôi chờ đợi trong từng tiếng chuông rồi dần cảm thấy bất an và sốt ruột. Tôi vội mặc quần áo vào, chộp lấy ví tiền rồi chạy thẳng xuống lầu.

Phố Nam Kinh Tây lúc rạng đông mà ngựa xe đã như nước. Nhà cửa hai bên đường vẫn được bao bọc trong ánh đèn chiếc sáng đô thị, trông còn đẹp hơn nhiều so với ban ngày. Mặt tường ngoài có hoa văn trang trí xưa cũ, trong ánh sáng toát lên một thứ vẻ đẹp năm tháng ghê người. Nhưng tôi chẳng có lòng dạ nào thưởng ngoạn, tôi ngồi lên ghế sau của chiếc taxi, lòng như lửa đốt suốt dọc đường nên luôn hối thúc tài xế đạp ga tăng tốc, phóng như bay thẳng tiến về phía biệt thự trên phố Nam Kinh Tây, tôi đã gọi liên tục mấy cuộc điện thoại. Nhưng vẫn chẳng có ai nghe máy.

Tôi lao xộc vào tiểu khu, khi đi ngang qua cánh cửa căn phòng cũ quen thuộc ấy, trong lòng tôi chợt có một bóng đen đáng sợ đột nhiên trào dâng biến thành một con quái vật mình rắn ướt rườn rượt, chớp mắt đã nuốt chửng tôi.

Cửa chính của biệt thự mở ra, bên trong chẳng có ánh đèn, không có động tĩnh.

Tôi xông vào nhà, bật sáng tất cả đèn lên. Tôi gọi lớn: “Cố Ly, Cố Ly!”

Giọng của tôi khản đặc mà run rẩy.

Tôi tìm một mạch từ lầu ba xuống đất, mỗi căn phòng, mỗi ngóc ngách, thậm chí mỗi cái tủ tôi đều mở tung.

Chẳng có ai.

Tôi trở lại phòng khách, ánh mắt rơi trên chiếc bàn trà lớn bằng gỗ đàn hương màu đen đặt trong phòng khách kia. Trên mặt bàn chất đống vô số văn kiện, cảnh tượng này so với trong mơ có gì đó trùng hợp lạ thường.

Tôi miễn cưỡng bình tĩnh rót cho mình một ly nước, sau đó ngồi xuống trên ghế sofa.

Tôi đang chờ đợi Cố Ly.

Thời gian từng giây từng phút lặng lẽ trôi qua, sự đợi chờ trong thinh lặng khiến tôi bắt đầu run lên không thể kiểm soát được.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.