Anh quốc
Tháng 12 năm 1817
Tiếng roi vung vút, phá vỡ sự tĩnh lặng của cảnh quan băng giá. Tiếng móng ngựa khua càng lớn dần lên khi hai cổ xe song mã càng đến gần khúc quanh, cổ kề cổ. Con đường rất hẹp, khúc quanh sắc cạnh mà không con nào chậm lại.
Những con ngựa đang đua nhau, đang phi hết tốc lực tiến về phía trước, những cái đầu vươn ra, thở phì phò trong cái lạnh băng giá.
Chúng phi ầm ầm qua khúc quanh với những bánh xe của cổ xe màu bạc và vang đỏ lướt qua cổ xe màu đen và vàng.
“Vì Chúa, Rafe, cẩn thận chút nào, nếu không vì cậu thì cũng vì tôi với chứ, vì cổ xe mới sáng bóng của tôi nữa,” Luke Ripton, người lái cỗ xe màu đen vàng, hét lên.
Đáp lại, cây roi của Rafe Ramsey vút qua mấy con ngựa của anh và dừng lại trên sườn chúng.
“Cậu cưỡi ngựa như một thằng điên ấy, điên còn hơn cả ngày thường.”
“Tôi có một đám cưới để đi đến mà.”
Rafe giật dây cường hối thúc những chú ngựa của mình phóng nhanh hơn.
“Cậu muốn tới đó mà còn sống, phải không?”
Rafe liếc nhìn bạn mình. Mắt anh lóe lên tia màu xanh biển.
Nhìn thấy cái nhìn đó, Luke không chút băn khoăn kìm cương con ngựa mình lại để cho cỗ xe của ông bạn dẫn đầu. Anh và Rafe đua nhau suốt. Thường thì đó là những cuộc đua vui vẻ.
Nhưng tâm trạng Rafe hôm nay thì…
Đó không phải là vì anh, Luke biết. Rafe đã đến chỗ hẹn của họ với tâm trạng đã như vậy. Không gì Luke có thể nói để cậu ta kìm lại. Rafe phản hồi cho mỗi câu nói hài hước châm biếm với một sự lạnh lùng, gần như là một sự tiết giản của lịch sự, như thể lịch sự có thể cắn vậy.
Luke, nhận ra những dấu hiệu của ông bạn già, bởi nên thôi không nói nữa. Rafe là một trong số những người bạn lâu năm nhất của anh và là một gã lạnh lùng, điềm tĩnh nhất mà anh biết. Nhưng cũng có những lúc hiếm hoi cậu ta lại rơi vào tâm trạng như thế này và điều duy nhất có thể làm là cứ để cho chúng tự bùng nổ.
Nguyên nhân luôn luôn giống nhau: Axebridge.
Rafe hiếm khi để bạn bè chịu đựng những cơn giận của mình – sự giận dữ của Rafe không để lộ ra ngoài, mà nó đốt cháy anh từ bên trong. Chúng đánh nhau để thoát ra ngoài. Những lúc như vậy anh thường đua ngựa.
Hôm nay Luke dồn ép Rafe khó hơn bao giờ hết, hy vọng trước khi họ đến được đám cưới của Harry, Rafe đã đốt hết được cơn giận của mình và trở lại vẻ quyến rũ thường thấy của cậu ta lần nữa.
Thay và đó Rafe vẫn còn đang bị bọc trong nước đá và đang bốc khói với cơn thịnh nộ; mắt cậu ta đang ẩn chứa một biểu hiện trống rỗng kỳ lạ đã nói với Luke rằng tâm trí cậu ta hiện giờ đang ở đâu đâu. Lucy đi một cách thận trọng hơn, như thể anh có thể bù đắp cho ông bạn của mình, người đang phi ngựa như bị ma ám.
Lối vào Alverleigh đã ở trong tầm mắt, những bức tường đá cao của điền trang bị ngắt ra bởi một đôi cánh cổng sắt sừng sững màu đen, được hỗ trợ bởi hai trụ đá lớn. Hôm nay chúng được mở ra để chào đón các khách mời của cho đám cưới của Harry, em kế ngài bá tước với Quý cô Helen Freymore.
Cỗ song mã của Rafe lao xuống dốc hướng về phía cổng, cái đèn trên xe đu đưa lắc lư với từng cái xốc nẩy của ổ gà.
Cậu ta chạy quá nhanh trong điều kiện trơn trượt như thế này, Luke nghĩ. “Coi chừng băng ở phía dưới đồi đấy,” anh hét lên.
Rafe không một biểu lộ. Cậu ta dường như không biết gì, đang bị bọc trong những lớp suy nghĩ tối tăm.
Một cái gì đó, giống như một con thú nhỏ – có lẽ một con cáo – lao ra đường phía trước những con ngựa. Một con ngựa chồm lên và loạng choạng, con ngựa khác xô vào nó, cỗ xe chao đảo, va vào một mảng băng đen, và bắt đầu trượt xiên theo vòng cung hướng về phía các bức tường đá và cánh cổng sắt.
“Coi chừng,” Luke hét lên, nghĩ chắc Rafe sẽ đâm vào các bức tường đá hoặc vào cánh cửa. “Nhảy đi!”
Rafe kéo phanh với một tay, tay kia kìm cương lại, buộc những con ngựa đang hoảng loạn của mình vào sự kiểm soát. Cái phanh trượt một góc sắc nhọn nhưng không làm chậm lại; không có chỗ bấu vào trên mặt băng.
Rafe ép mấy con ngựa của mình chạy qua cánh cổng, và thả phanh. Trọng lượng của cổ xe đang trượt đi kéo những con ngựa về phía sau và sang bên phải. Chúng lao lên trong hỗn loạn và khiếp sợ.
Cậu ta vụt cây roi. Những con ngựa nhảy vọt lên về phía trước. Có một tiếng va lớn của gỗ với đá hoặc sắt. Cỗ xe tròng trành, nảy lên, và nghiêng sang một bên, đang cân bằng trên một bánh xe duy nhất. Chắc chắn nó sẽ lật úp ngay thôi.
“Nhảy đi, đồ ngốc, nhảy đi!” Luke hét lên.
Thay vào đó Rafe ném mình sang một bên như một người chơi môn du thuyền, đang sử dụng trọng lượng của mình như một đối trọng. Trong vài giây như bất tận cỗ xe bấp bênh trên bờ vực, sau đó tròng trành trở lại với một cú đập mạnh lên cả hai bánh xe.
Cậu ta liếc ra đằng sau nhìn Luke, nghiêng cái roi trong một kiểu chào, và tiếp tục phóng lên lối vào với mấy con ngựa đang mướt mồ hôi.
Luke đi vào khi Rafe đang hướng dẫn cho các người giữ ngựa của Alverleigh làm mát mấy con ngựa của cậu ta một cách từ từ, sau đó gãi gãi nhẹ vào chúng, cho ăn cám nóng và một sự đối đãi tốt nhất.
“Cậu điên rồi,” Luke tuyên bố, nhảy xuống từ cỗ xe của mình và ném dây cương vào một người giữ ngựa. “Chút xíu nữa thôi là cậu chết rồi.”
Miệng Rafe xoắn lại trong một nụ cười rầu rĩ. “Như ném con mèo vào mấy con bồ câu vậy thôi. Mấy cái kế hoạch chết tiệt.”
“Đám cưới của Harry và Nell mà là chết tiệt á, ví von hay nhỉ!” Luke bẻ lại. “Tôi cũng không cho chuyện kế thừa Axebridge là chuyện vớ vẩn, nhưng giờ quanh cậu đều là bạn bè, vì thế ráng mà kiềm chế mình.”
Rafe chớp mắt và có một chút khó chịu lóe lên trong mắt anh. Trong một giọng đã bình tĩnh hơn nhiều anh nói, “Cậu đúng, Luke. Tôi không nghĩ cho Harry và Nell.”
“Cậu cũng đã chẳng nghĩ cho ai hết,” Luke nói với anh một cách thẳng thừng.
Rafe cho ông bạn một cái nhìn tìm kiếm và đưa ra một tiếng thở dài thảm não. “Tôi tệ đến vậy sao?”
Luke, đã qua cơn bực mình. “Tệ nhất tôi từng nhìn thấy trong những năm qua. Tụi mình kiếm gì uống đi.”
“Đồng ý.” Rafe nới lỏng cái ca vát lụa và tháo đôi găng tay da cưỡi ngựa ra. “Và vì tôi thắng, cậu nợ tôi 500 teclinh đấy nhé.”
“Biết rồi, đồ trời đánh,” Luke nói khi họ bước lên các bậc thang của Alverleigh. “Phải thừa nhận mấy con ngựa đó khỏe thật đấy. Tôi cứ nghĩ cậu sẽ đâm vào mấy cái trụ cổng mất thôi. Mấy con ngựa của cậu thật tuyệt vời.”
“Duyên dáng và dũng cảm dưới lửa đạn,” Rafe đồng ý. “Mấy giờ thì tới giờ lễ vậy? Tôi không biết liệu còn bụng cho một cái đám cưới bây giờ không nữa.”
“Cậu tốt hơn là còn,” Luke cảnh cáo cậu ta.
Rafe cho anh một nụ cười mờ nhạt. “Đừng lo, tôi sẽ cố gắng, vì Nell và Harry. Cuộc hôn nhân này, ít nhất thì cũng là một điều đáng để chúc mừng.”
Khi anh nói, bạn của họ, Gabriel Renfrew, em trai của bá tước và cũng là anh khác mẹ với chú rể, đang bước xuống bậc thang để đón họ.
“Chuyến đi các cậu thế nào?” anh hỏi sau khi màn chào hỏi kết thúc.
“Vô cùng dựng tóc gáy,” Luke nói.
Gabe nhướng một bên mày. “Các cuộc đua của các cậu đều dựng tóc gáy hết cả mà. Có gì khác biệt sao?”
Luke hất đầu mình tới Rafe. “Cậu ta vừa mới đến từ Axebridge.”
Gabe liếc nhìn Rafe. “Hiểu rồi. Vậy là cậu cuối cùng cũng đã thu xếp cho đám cưới rồi à?”
Rafe không trả lời. Một cơ nhỏ trong hàm anh co giật.
“Uống gì nhé,” Gabe hỏi.
“Ừ,” Luke đồng ý. “Và kiếm chai nào to to ấy – cậu ta chắc cần nó.”
“Thôi đi,” Rafe nói lạnh lùng. “Tôi hoàn toàn bình tĩnh.”
“Tôi biết rồi, bạn thân mến,” Gabe nói. “Đó mới là vấn đề.”
Vài giờ sau Rafe ngồi trong nhà thờ ở chỗ ngồi dành riêng cho gia đình, nhìn anh bạn Harry đang đi tới lui như một con sư tử bị nhốt trong lồng, chờ cô dâu của mình.
Có tiếng ồn ào ở lối vào của nhà thờ. Rafe không cần quay đầu để xem ai đang đến.
Đôi mắt xám của Harry, thường khi ảm đạm, sáng lên khi nhìn thấy cô dâu của mình. Chúng tràn ngập cảm xúc không cần che đậy làm Rafe phải nhìn đi chỗ khác.
Rafe nghe thấy sự im lặng hoàn toàn và giọng Harry đầy tự hào khi anh hứa sẽ yêu thương và trân trọng người phụ nữ của mình.
Anh bắt gặp nụ cười kín đáo thoáng qua giữa Gabe với Callie, nàng công chúa của trái tim cậu ta, chắc là đang nhớ tới đám cưới của mình.
Hãy luôn có nhau và luôn bên nhau…Hãy yêu thương và trân trọng nhau…
Cho đến khi cái chết chia lìa.
Rafe cảm thấy lạnh đến tủy.
Liệu anh có thể thực hiện một lời hứa như thế? Không với Lady Lavinia. Không sau những gì anh đã học được ở Axebridge.
Nhưng liệu có bao giờ anh có thể?
Mà có gì quan trọng đâu nhỉ? Dù sao thì Rafe cũng sẽ chẳng bao giờ yêu. Sẽ không bao giờ.
Anh không như Gabe, đã nhiều lần yêu hời hợt cho đến khi rơi vào tình yêu sâu nặng và không thể đổi dời với Callie.
Anh cũng không như Harry, đã yêu hai lần, lần đầu quá bất hạnh anh đã không giữ được khi mà chính bản thân cũng không biết được mình sống hay chết. Còn bây giờ, thật sự say đắm trong tình yêu, cậu ấy đang đứng trước bàn thờ, nhìn cô dâu của mình, một người đàn ông đã hoàn toàn thay đổi.
Rafe đã không hiểu, và bây giờ anh cũng không hiểu.
Anh chưa bao giờ yêu đến như thế này, chưa một lần trong suốt 28 năm cuộc đời của mình, thậm chí trong một giờ cũng chưa, và cho đến hiện tại, anh cũng chưa muốn bắt đầu.
Phụ nữ, phải, chỉ hiểu được chính xác trên mối quan hệ thân xác. Anh đối xử tốt với họ và hào phóng trong việc chia tay. Họ cũng dường như không để tâm đến chuyện đó. Không ai trong số họ quan tâm đến chuyện sẽ xuyên thủng bản chất lạnh lùng của anh.
Trong chiến tranh sự lạnh lùng này có đất dụng võ. Trong chiến tranh, nó hữu ích, để giữ sự lạnh lùng tàn nhẫn, không để cho bản thân bị chi phối bởi cảm xúc. Anh đã tìm thấy sức mạnh trong nó, giữ thế giới ở một khoảng cách, giữ cho đau buồn và sầu khổ không chạm được vào anh. Con người có thể chết vì đau thương và sầu khổ. Anh nghĩ mình đã đạt tới sự kiểm soát hoàn hảo, rất ít gì có thể khiến anh khó chịu.
Và sau đó anh muốn trở về nhà. Chính xác hơn, anh muốn trở lại Axebridge. Cha của Rafe, ngài bá tước quá cố của Axebridge, đã chết trong khi anh còn đang tham gia cuộc chiến, vì vậy Axebridge đã không còn là nơi khó chịu như khi Rafe còn là một đứa trẻ nữa. Và vì bá tước hiện tại, anh trai anh, không có con trong 10 năm hôn nhân, Rafe hiểu rằng anh buộc phải cưới vợ để đảm bảo sự thừa tự. Lần đầu tiên trong đời Rafe thấy mình cần thiết cho gia đình, và anh đã chuẩn bị để thực thi nhiệm vụ.
Anh trai anh thậm chí còn đã tìm ra cho anh một cô dâu phù hợp. Rafe không thật sự thích người đó lắm, nhưng anh cũng không có ai, và Lady Lavinia Fettiplace có xuất thân tốt – thuộc dòng dõi cao quý và đang sống ở Anh. Cô ấy có của hồi môn tốt và cũng xinh đẹp. Anh có thể làm được, anh nói với mình hàng trăm lần.
Cho đến sáng nay, khi anh trai anh tiết lộ các điều khoản mà anh ấy và Lady Lavinia đã đồng ý, mà không cần hỏi ý kiến Rafe…
Cơn giận lại trào lên lần nữa. Rafe cố dằn xuống. Đây không phải là lúc, là nơi để trút giận. Anh không còn là một cậu bé con nữa. Gia đình anh chỉ có thể làm tổn thương anh nếu anh để cho họ làm thế.
Lễ cưới đã xong, tiệc tối chúc mừng cũng đã xong, và họ đã nhảy múa suốt đêm. Trong sáng nay cô dâu và chú rể cũng đã cưỡi xe ngựa đi trong tiếng chúc mừng vui vẻ, Nell rạng ngời hạnh phúc, Torie bé nhỏ trong nôi cạnh cô, và Harry đầy tự hào với ánh sáng trong đôi mắt cậu ấy mà Rafe chưa bao giờ nhìn thấy.
Những vị khách còn lại cũng đã sớm rời đi ngay sau đó, vội vã về nhà để đón Giáng sinh, cầu nguyện cho thời tiết sẽ trong trẻo. Rafe và Luke , không có vẻ vội vàng đặc biệt, là một trong số những vị khách cuối cùng rời đi. Họ đã nói lời tạm biệt của mình, và đang ghét phải đứng chờ sau đó, đã lang thang về phía chuồng ngựa để chờ các cỗ xe của họ.
“Tôi sẽ không đua với cậu nữa đâu,” Luke thông báo khi họ đi xuống đường xe chạy rải đầy sỏi. Trời lạnh, một buổi sáng trong lành, không khí khô, với chỉ một làn gió nhẹ. Hoàn hảo cho một cuộc đua.
Rafe nghiêng đầu. “Như cậu muốn.”
“Tôi biết cậu,” Luke kiên trì. “Dưới cái vẻ che đậy bình tĩnh này cậu vẫn đang bực bội chuyện gì đó đã xảy ra, phải vậy không?”
Rafe nhún vai. Anh có thể trấn an bạn mình rằng chuyến đi vừa rồi đã làm anh bình thường lại rồi, nhưng anh đã không. Chạy đua đã không làm anh hạ hỏa lúc này. Mà là sự phản bội. Nhưng anh biết anh sẽ làm gì.
Họ chờ phía trước chuồng ngựa, giậm giậm chân trong tiết trời giá lạnh, nhìn những người làm việc ở chuồng ngựa kéo những cổ xe của họ lên.
“Có muốn tôi đi với cậu đến Axebridge không?” Luke ướm lời
“Nhưng gần đến Giáng sinh rồi mà.” Rafe giật mình. “Còn gia đình cậu thì sao?”
“Mẹ và mấy bà chị sẽ không phiền đâu.” Luke là con trai duy nhất còn sống trong gia đình toàn là đàn bà con gái. Mẹ anh là một quả phụ, và hiện tại tất cả trừ cô con gái út đều đã lập gia đình, nhưng họ vẫn “mê mẩn” em trai mình.
Rafe mỉm cười. “Cậu là một kẻ nói dối.”
“Tôi sẽ giải thích,” Luke nói. “Họ sẽ không để tâm khi biết là cậu. Cậu cũng biết Mẹ thích cậu như thế nào mà – mấy cô gái cũng thế.”
Rafe lắc đầu. “Không. Về nhà và mừng Giáng sinh với gia đình cậu đi. Cho tôi gởi lời chúc đến tất cả mọi người nhé.”
“Vậy thì về nhà với tôi đi,” Luke nói. “Cùng đón Giáng Sinh với chúng tôi. Mọi người sẽ nghĩ đó là một món quà ý nghĩa nhất.”
“Tôi đã gởi cho mẹ cậu một món quà rồi,” Rafe nói với anh. Như một đứa con trai, anh đã trải qua nhiều Giáng sinh vui vẻ với gia đình Ripton. Đó là một nơi ẩn náu khỏi gia đình của anh, khỏi một người anh trai lớn tuổi hơn rất nhiều mà anh hầu như không hiểu được, và khỏi một người cha hiếm khi thừa nhận sự tồn tại của đứa con trai thứ của ông.
“Cậu cứng đầu quá đấy,” Luke nói, lắc đầu. “Vậy thì được rồi, cứ việc đau khổ nếu cậu muốn thế. Tôi sẽ gặp cậu ở Axebridge trong năm mới vậy.”
“À, đúng rồi…Vũ hội…”
Luke cho Rafe một cái nhìn tìm kiếm. “Sao cậu nói nghe có vẻ mơ hồ vậy, Ramsey. Bộ cuối cùng đính hôn với Lady Lavinia đã làm cậu chán rồi sao?” Anh nhìn Rafe tìm kiếm. “Hay là đã kết thúc rồi?”
Rafe nhún vai, “Vũ hội vẫn diễn ra như tôi được biết.”
“Vậy à, vậy thì tôi sẽ-“
“Tuy nhiên, tôi sẽ không ở đó,” Rafe hoàn thành, có một cái nhìn khắc nghiệt khi một cậu bé giúp việc ở chuồng ngựa đóng yên ngựa.
“Cái gì? Vậy chứ cậu sẽ ở đâu?”
“Còn nhớ tôi đã ngồi với ai trong bữa ăn tối qua chứ?”
Luke nhăn trán, cố nhớ lại. “Có vài quý bà lớn tuổi, phải không? Phải nói đó là một chỗ ngồi chán ngắt-“
“Lady Cleeve. Một quý bà rất thú vị. Đã kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị.”
Luke nhìn chằm chằm vào anh. “Cậu đang nói chuyện gì vậy? Kể cho cậu nghe một câu chuyện?”
Rafe gật đầu. “Hình như bà ấy có một cháu gái thất lạc.”
“Ý cậu là mất tích? Cô nàng bỏ trốn với ai đó à?”
“Không, không phải như vậy,” Rafe nói. “Người phụ nữ lớn tuổi ấy nghĩ rằng cô cháu gái đã chết với mẹ cách đây hơn 12 năm. Một chuyện đau lòng. Con trai bà đã chết cách đây 6 năm, và kể từ đó Lady Cleeve đã nghĩ là bà chỉ còn lại một mình trên thế giới này.”
“Buồn nhỉ,” Luke nói, “nhưng có gì-“
“Cách đây vài tháng, Alaric Stretton – cậu cũng biết đó, cái gã nghệ sĩ đi khắp thế giới và viết những cuốn sách về nó – một ngày nọ sau vài năm lang thang ở những ngóc ngách xa xôi của thế giới đã có mặt ở nhà bà ấy. Hình như họ là những người bạn cũ của gia đình – ông ấy đã từng đến thăm họ ở Ấn Độ.”
Luke cho anh một cái nhìn như thể muốn nói, tại sao cậu lại kể cho tôi nghe chuyện này?
Rafe tiếp tục, “Stretton đã bảo với bà ấy cháu gái của bà ấy vẫn còn sống khỏe mạnh với cha mình chỉ mới cách đây 6 năm. Ông ấy thậm chí còn đã phác họa một bức chân dung của cô bé và cha cô – bức của cô bé khá có hồn – ông ấy là một họa sĩ giỏi cực kỳ. Vì vậy bây giờ Lady Cleeve nghĩ cô gái có thể vẫn còn sống. Bà ấy muốn đến tuyệt vọng được tìm thấy cô ấy.”
“Nghe xa vời quá.”
“Nhưng cũng rất có thể được.”
“Nhưng làm thế nào làm được mà không-“ Luke ngừng lại với một biểu hiện choáng váng. “Đừng nói với tôi – đây là lý do cậu sẽ bỏ buổi tiệc đính hôn của cậu đấy nhé?”
Rafe chỉ mỉm cười. Anh bị cám dỗ để không có mặt ở bữa tiệc đó; đó là điều họ xứng đáng nhận được, sau tất cả. Nhưng đó không phải là cách của Rafe. Thay vào đó, sáng nay, anh đã gởi một tin nhắn lịch sự cho Lady Lavinia và một tin khác cho anh trai và chị dâu, cho lời xin lỗi của mình.
Luke vung tay lên trong bực tức. “Để đi săn ngỗng trời sau câu chuyện hoang đường về cháu nội của một bà già nào đó hả? Dựa trên một phác họa được vẽ bởi một nhà thám hiểm điên khùng nào đó đã dành chín năm trời xục xạo mỗi mười nơi tồi tàn nhất trên thế giới này?”
Rafe không nói gì. Anh đã quyết định.
Luke tiếp tục. “Tôi biết cậu hay mềm lòng trước những phụ nữ lớn tuổi, nhưng-“
“Lady Cleeve là bạn thời con gái của Bà nội,” Rafe nói một cách đơn giản. “Họ tương đồng mọi thứ trong cuộc đời mình.”
“Ôi Trời, vậy đó là tất cả lý do đó hả?” Luke nói, lắc đầu đầu hàng. “Vậy cô cháu này lần cuối cùng được nhìn thấy ở đâu?”
“Ai Cập.”
Hàm Luke rớt xuống. “Vậy cậu sẽ đi săn ngỗng trời ở Ai Cập á?”
Một lần nữa, Rafe mỉm cười.
Xe của họ đã sẵn sàng. Luke không nhúc nhích. “Rafe Ramsey, cậu đúng là điên hoàn toàn rồi.”
Rafe lắc đầu. “Không phải điên, bạn thân mến. Chỉ…bực mình thôi.”
“Vậy hả, vậy hãy làm những điều mà chúng ta hay làm khi giận dữ ấy,” Luke nói trong sự bực bội. “Đánh ai đó! Đánh ông anh của cậu ấy, hoặc là đánh tôi cũng được – đánh bất kỳ ai ấy! Còn hơn là chơi trò đuổi bắt ở tận Ai Cập.”
Rafe chỉ mỉm cười.
Ai Cập
Năm 1818.
“Anh ta kia, người đàn ông mà em đã nói với chị,” Ali nói, chỉ chỉ với một ngón tay nhỏ, bẩn thỉu. “Họ nói tên anh ta là Rameses. Họ nói anh ta đến từ nước Anh để mua một cô gái, và anh ta sẽ trả bằng tiền vàng.”
Rameses? Tên của một vị vua vĩ đại? Từ trong bóng râm của con hẻm, Ayisha không khó để nhận ra người nước ngoài đó bằng việc đặt các câu hỏi; anh ta cao hơn hẳn một cái đầu so với bất kỳ người đàn ông nào khác trong khu chợ này.
Rameses. Đó là một cái tên lạ đối với một người Anh.
Anh ta không giống những người đã từng truy đuổi cô trong quá khứ.
Điểm đầu tiên là anh ta sạch sẽ.
Và đẹp trai. Không phải kiểu đẹp trai thông thường – Ayisha biết đẹp trai là thế nào – nhưng với một sự mộc mạc, chân phương mà thanh lịch. Như thể được tạc ra từ đá cẩm thạch.
Da anh ta có bị rám nắng nhẹ, nhưng vẫn nhạt màu hơn so với hầu hết người mà cô biết. Giống như màu da của cô, bên dưới lớp quần áo. Anh ta đội một chiếc mũ sáng màu che chắn khuôn mặt mình từ ánh nắng mặt trời, nhưng quần áo anh mặc thì rõ ràng là ngoại quốc: phong cách Anh Quốc ôm khít, không cho gió lùa vào người. Chiếc áo khoác màu xanh đen được cắt vừa khít để lộ đôi vai mạnh mẽ. Bên trong là một cái áo sơ mi trắng với một cà vạt quanh cổ trong một nút thắt phức tạp.
Quá nhiều lớp quần áo, quá chật, và vải quá dày.
Tuy vậy trông anh ta không bị đổ mồ hôi và trông nhàu nhỉ như những người Anh mới tới đất nước này thường bị. Người đàn ông này trông lạnh lùng và trầm tĩnh. Và cứng cỏi. Cô không thể không nhìn chằm chằm vào cái quần ống chẽn dài màu da bò, để lộ đôi chân nam tính đầy cơ bắp và đôi ủng cao, bóng màu đen. Chúng rất…gợi hình.
Những người đàn ông mà Ayisha thấy mỗi ngày đều mặc áo choàng rộng lùng nhùng hoặc quần rộng thùng thình và áo vừa dài vừa rộng. Quần áo của họ không cho thấy được hình dáng cơ thể.
Không như người này, gần như là không biết xấu hổ: mỗi góc cạnh cơ bắp rắn chắc đều bị bày ra. Cô nuốt xuống.
Nếu họ mà giống anh ta, chắc cô sẽ không bao giờ ẩn được mình dưới hình hài một thằng nhóc có tên là Azhar trong suốt những năm qua.
Cô nhìn sự cong lên và duỗi ra của những bắp cơ khi người Anh nọ sải bước qua khu vực chợ đầy rác rến và hỗn loạn với sức mạnh uyển chuyển của một con sư tử.
Cô đột ngột cảm thấy nóng ran, mặc dù đang đứng trong bóng râm mát mẻ.
Rameses. Cái tên thật hợp với người.
“Anh ta có một bức vẽ của cô gái anh ta muốn,” Ali tiếp tục. “Một cô gái người Frankish. Anh ta đã đưa nó cho nhiều người trong chợ xem hôm qua. Gadi đã xem nó. Anh ấy nói có thể đó là em gái của chị, nếu chị có một đứa.”
Ayisha làm thinh. Gadi đã nói gì? Gadi có thể nhìn thấy nét tương đồng giữa một bức họa của một cô gái Frankish nhỏ và Azhar, một cậu bé đường phố quỷ quyệt người Ai Cập sao?
Suy nghĩ của cô bay đến một bức họa được vẽ bởi một du khách người Anh cách đây 6 năm, đã từng ở với họ một lần. Ông ta có thể vẽ để làm cho một người sống dậy. Cô vẫn nhớ là đã ngạc nhiên về nó như thế nào, khi xem cây bút chì trong tay ông ta lướt qua trên một tờ giấy và sau đó, khuôn mặt của cô lúc 13 tuổi đang nhìn chăm chằm trả lại cô từ một tờ giấy trắng.
Không thể là bức họa đó được… lẽ nào là nó?
Không, người Anh đó đã cầm đi bức họa khi ông ta rời khỏi Ai Cập, đi tới Trung Quốc. Cô đã quá nhút nhát để hỏi xin ông ta cho nó.
Làm thế nào mà bức họa đó lại rơi vào tay của người Anh này được? Và cho dù là đúng đi nữa, thì tại sao anh ta lại mang nó đến Ai Cập?
Tại sao anh ta lại đem nó đi loanh quanh đây vậy? Và còn đề nghị cho cô gái trong bức họa tiền nữa chứ.
Đó có thể là em gái của chị…
Bức họa đó có thể hủy hoại cuộc đời cô.
Cô nhìn chằm chằm người nước ngoại cao lớn đó, cố tìm câu trả lời bằng cách nào đó có thể hiện ra trên mặt anh ta. Đằng sau cô trong khu chợ gia vị, một người bán gia vị đang rang mè, cây rau mùi, và những hạt thì là Ai Cập với các quả hạch để làm dukkah.
Dạ dày cô sôi lên với mùi thơm ngon này, nhưng vẫn không rời mắt khỏi người Anh nọ. Như thể anh ta cảm nhận được sự quan tâm của cô, anh ta đã thay đổi hướng đi và bước về phía con hẻm nơi cô đang ẩn mình.
Đám đông rẽ ra trước anh ta như rẽ sóng, và không phải chỉ bởi vì anh ta cao và là người nước ngoài. Mà là một cái gì đó về chính bản thân người đàn ông này. Anh ta di chuyển như một tổng trấn, như một sultan (*), như một hoàng đế – không phải ở dáng điệu nghênh ngang, mà là với một không khí vô thức của sự quả quyết, của cái vẻ chỉ huy tỏa ra từ trong xương – và đám đông phản ứng một cách bản năng.
Anh ta là một người đã quen với việc đi bất tới nơi nào anh ta muốn.
Một người đàn ông quen với việc có được bất cứ gì – hay bất cứ ai – mà anh ta muốn có. Nhưng không phải lần này, cô tuyên bố trong im lặng. Không phải cô.
“Họ nói anh ta là một quý tộc Anh,” Ali nói. “Họ còn nói anh ta có vàng để mua bất cứ gì anh ta muốn và tiêu nó như nước. Nhưng tại sao lại đến nơi này để mua một cô gái nhỉ? Không lẽ họ không có những cô gái ở Anh hay sao?”
Ayisha khụt khịt mũi. “Có chứ, chắc chắn là có. Một tên ngốc và vàng của anh ta sẽ sớm bị xâu xé hết thôi.” Những từ ngữ hùng hồn làm sao. Chúng đi ngược lại với cái lạnh trong các lỗ ở dạ dày cô.
“Gadi nói nếu chị mà nhỏ hơn, anh ta sẽ mặc cho chị như một đứa con gái và bán chị cho cái tên Rameses kia, lấy tiền xài.” Ali cười vui vẻ ở câu đùa đó – một câu đùa thân mật và công khai. Ở Cairo này, chỉ có cậu ta và Laila là biết Ayisha là con gái.
Cổ họng Ayisha thít chặt. Cô phải có bức vẽ đó, lấy nó và hủy nó. Gadi đã nghĩ cô giống với cô gái trong bức vẽ đó… Gadi là một tên ngốc. Anh ta không biết gì. Nhưng nếu anh ta tiếp tục nói đùa kiểu đó với bất kỳ ai muốn nghe… Cổ họng cô đắng nghét.
Chú của Gadi là một trong số những người đã săn đuổi cô những năm trước. Nếu ông ta nhìn thấy bức vẽ đó bây giờ… nếu Gadi nói câu đó với ông chú của anh ta…
Chú của Gadi thông minh hơn Gadi nhiều. Chú của Gadi cũng biết cô trông như thế nào trước đây.
Một khi người ta bắt đầu hình dung cô như là một cô gái – cho dù có là đùa đi chăng nữa – thì chẳng bao lâu nữa cũng có ai đó nhận ra…
Chú của Gadi không phải là người duy nhất săn lùng cô cách đây mấy năm.
“Gadi nói nhiều thứ nhảm nhí,” cô nói với Ali.
Ali lắc đầu. “Không phải, anh Gadi biết nhiều về thế giới này lắm.”
Ayisha không nói gì. Thằng bé mồ côi mười tuổi này đang anh hùng hóa người đàn ông không phù hợp nhất.
Tại sao thằng bé không chọn thêm ai đó đứng đắn hơn để so sánh nhỉ?
Không có nhiều lựa chọn cho một cậu bé mồ côi. Chính xác là đường phố Cairo không nhiều đàn ông tử tế. Cuộc sống của những khu ổ chuột nghèo nàn không nuôi được kiểu người tử tế. Còn ai biết rõ hơn cô?
Cô nép sâu hơn vào trong bóng râm và chờ cho người Anh nọ đến gần hơn. Cô muốn nhìn anh ta gần hơn, đủ gần để nhìn rõ mắt anh ta. Đó là mạo hiểm, nhưng cô cần phải tự mình thấy được thái độ của người mà cô sẽ phải xử trí.
Hãy hiểu kẻ thù của mình.
Anh ta sải bước qua đám đông ồn ào, thờ ơ với tiếng ồn, với những chuyển động và bụi bẩn. Cô chưa bao giờ nghĩ đàn ông cũng đẹp trước đây, nhưng người đàn ông này có một vẻ đẹp nam tính, săn gọn làm cô cứ muốn nhìn chằm chằm.
Và đã nhìn chằm chằm.
Anh ta như ai đó bước ra từ một trong những câu chuyện cổ tích của Mama; đẹp nhưng nguy hiểm. Mama đã luôn kể những câu chuyện tuyệt vời, cũng như những câu chuyện đáng sợ, và mặc dù một số trong số đó là sự thật, nhưng hầu hết là không. Cái khó là phải nhận ra đâu là sự khác biệt…
Nhưng Ayisha đã không còn là một đứa trẻ cả tin, ngây thơ nữa, và cô cũng không phải là một con mồi dễ dàng. Sáu năm trên đường phố đã biến cô thành một người khác. Cô đã có kinh nghiệm, đã thông minh hơn, xảo quyệt như một con cáo, như một con chồn cái.
Người Anh nọ dừng lại, đẩy chiếc mũ qua trán và quay đầu như thể đang tìm một cơn gió nhẹ trong cái không khí như đứng lặng, đầy bụi bặm. Cô đã đủ gần để nhìn rõ mặt anh ta, các đường góc cạnh như tạc của một khuôn hàm rắn chắc, một sóng mũi thẳng, đậm, một cái trán rộng.
Da anh ta trơn mịn và có màu nâu nhạt, không một vết rỗ hay nhược điểm nào, chỉ có một vết sẹo nhỏ, thẳng, đã nhạt màu ở khóe miệng. Nó đã thu hút mắt cô nhìn vào miệng anh ta… và một khuôn miệng thật đẹp. Khuôn miệng mạnh mẽ, đôi môi như được chạm trổ, đang mím chặt ở thời điểm này. Cô muốn trượt một ngón tay lên nó… xem thử nó mềm thế nào.
Nhưng đôi mắt anh ta là thu hút cô nhất; viền mi mắt dày, hình quả hạnh và trông như thể buồn ngủ.
Buồn ngủ? Một cảm giác kim châm chạy qua cô. Buồn ngủ như một con rắn hổ mang, đôi mắt anh ta chẳng bỏ lỡ thứ gì. Anh ta đang nhìn thẳng vào cô.
Anh ta không thể nhìn rõ cô được, cô tự nhắc mình – không với ánh mặt trời đang rọi thẳng vào mắt anh ta và với Ayisha đang trong chỗ tối nhất của cái ngõ hẹp. Cô đã chọn kỹ chỗ này. Gian hàng gia vị là nơi tối nhất. Ánh nắng không tốt cho các loại gia vị.
Tuy nhiên anh ta vẫn không di chuyển, đôi mắt anh ta, không còn chút buồn ngủ nào, đang nhìn vào trong bóng râm, thẳng vào cô, như thể anh ta có thể nhìn thấy cô, đang xiên cô với cái nhìn của mình. Cô cứng người, vẫn đứng im như một con chuột đang đối mặt với một con trăn, và khi cô nhìn vào mắt anh ta, một cái lạnh như thép chạy dọc xuống sống lưng cô.
Chúng không giống đôi mắt nào mà cô từng nhìn thấy – lạnh lùng, màu xanh nhạt, giống như bầu trời ngay trước lúc bình minh, vào giờ phút mà sự hy vọng đang xuống ở mức thấp nhất và các linh hồn rời khỏi trái đất. Chúng không có sự ấm áp, không hy vọng, không hối tiếc. Một người đàn ông mà sự sống hay cái chết không tạo ra sự khác biệt. Không lạ khi đám đông rẽ ra cho anh ta.
Cô ép mình bên những viên gạch, hòa làm một với nơi tối nhất. Anh ta không thể thấy cô, nhưng cái nhìn trực tiếp của anh ta rất đáng sợ.
Ở kế bên, người bán gia vị đã bắt đầu nghiền nát hỗn hợp dukkah với muối.
Nếu anh ta mà cử động dù là nhỏ nhất về phía cô, cô sẽ chạy. Có hàng tá lối thoát; cô biết thành phố này, biết mỗi con hẻm và khu chợ và đường cống rãnh. Cô sẽ không bị bắt. Cô chờ đợi, không thở, mỗi cơ bắp đều căng lên.
Mùi hăng của các loại gia vị rang và nghiền nhuyễn xộc vào trong lỗ mũi cô, có nguy cơ làm cô ngộp thở.
Đôi mày rậm của anh ta nhíu lại, đôi mắt anh ta thu hẹp, và cánh mũi anh ta phập phồng, như thể anh ta đang chơi trò đánh hơi.
Các quý tộc Anh thích săn cáo. Papa từng kể cho cô nghe việc đó, từng hứa rằng một ngày nào đó ông sẽ đưa cô về Anh, dẫn cô đi săn.
Papa cũng từng là một người hay kể chuyện. Cô tin mỗi từ được ông nói ra, vì ai có thể nghi ngờ Papa bất cứ điều gì chứ?
Nhưng Papa đã chết, và các câu chuyện của ông hóa ra còn không trung thực hơn cả những câu chuyện của Mama. Ayisha sẽ không bao giờ nhìn thấy nước Anh, nhìn thấy vùng đất hài hòa xanh tươi trong những câu chuyện của Papa.
Mà nếu có được đi nữa, thì không gì, hay không một quý tộc người Anh nào có thể làm cô làm một cuộc săn cáo.
Cô đã bị săn đuổi quá thường xuyên để mà thích thú với môn thể thao đó.
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên một quý tộc người Anh đến đây. Có phải anh ta đã chán mấy con cáo nước Anh nên đã tìm cách đến đây để săn một… cô gái?
Một tiếng loảng xoảng bất ngờ nổi lên và tiếng la hét đến từ phía bên kia của khu chợ – một cuộc cãi cọ ầm ĩ ở một sạp bán cam – và ánh nhìn chằm chằm màu xanh đổi hướng, gần như ngay lập tức.
Trong chớp mắt Ayisha di chuyển, rời khỏi con hẻm tối đó và luồn đi dưới những tấm bạt của một sạp hàng.
Cô nhìn qua khe giữa các tấm vải khi anh đưa mắt nhìn vào quầy hàng bán cam, sau đó tia nhìn trở lại cái hẻm. Chính xác nơi cô đã đứng.
Đôi chân mày anh ta nhíu lại thành một vết nhăn mờ khi quét tia nhìn xung quanh. Anh ta nhìn vào sạp hàng và đôi mắt nheo lại, như thể anh biết cô ở đó, núp dưới bàn, ẩn mình bên dưới mấy tấm vải sọc hồng cam, nhưng anh ta không thể nào, không thể biết được, trừ khi anh ta là một djinn (*) hoặc là một phù thủy.
(* : quỷ sứ – ND)
Ayisha không tin có chuyện như vậy. Những người mà sáu năm qua cô đã sống cùng có thể tin vào các djinn, afrits (*) và những linh hồn ma quỷ khác. Nhưng Ayisha thì không. Cô là người có học – một chút – có thể đọc và viết trong vài ngôn ngữ – cũng một chút và là một người Công giáo. Ma quỷ dưới mắt cô là không có thật.
Cô làm dấu thánh, chỉ để đề phòng.
(*: ma quỷ – ND)
Và rồi đột nhiên anh ta bước đi, tiếp tục hướng đã định, sải bước qua khu chợ, màu xanh thẳm bên dưới hàng mi buồn ngủ kia không bỏ sót cái gì.
Ayisha thở lại.
Không, anh ta không giống như những người đã săn đuổi cô trước đây. Anh ta nguy hiểm hơn nhiều, rất nhiều.
Cô chờ cho đến khi anh ta đã đi đến đầu kia của khu chợ, rẽ vào một góc, và biến mất, sau đó cô mới trượt ra từ bên dưới sạp hàng và tìm thấy Ali đang hướng đầu về phía xa của quảng trường. Cô chộp vào phía sau cổ cậu ta và kéo cậu ta quay lại.
“Ôi, cái gì-“
“Em sẽ không đi theo người đàn ông đó,” cô bảo cậu bé trong một giọng nghiêm khắc. “Anh ta nguy hiểm.”
Ali khịt mũi. “Nhưng em có thể-“
“Chị nói rồi, Ali.” Cô nắm chặt đôi vai gầy của thằng nhóc và siết lại. “Không được đi theo anh ta, cũng không được nói chuyện với anh ta – chị nói rõ rồi chứ?”
Thằng bé ngọ nguậy dưới cái nhìn của cô. “Nhưng mà, Ash, em muốn thấy bức tranh đó, em muốn xem thử nó có giống chị nhiều như anh Gadi nói hay không.”
“Không có giống đâu.”
“Sao chị biết khi chị còn chưa bao giờ nhìn thấy nó nữa mà?”
“Chị không cần nhìn mới biết, đó chỉ là mộttrong những câu chuyện vớ vẩn của Gadi mà thôi.”
Ali nói hờn dỗi, “Nếu em có được những đồng vàng của anh ta, chúng ta có thể có được căn nhà ở Alexandria-“
“Vậy làm thế nào em có được số đồng vàng đó được?”
Ali nhìn tránh đi.
“Ali! Em không nghĩ là sẽ trộm của người Anh đó chứ!”
Ali cúi đầu và thì thầm, “Anh Gadi nói người Anh đó có nhiều đồng vàng lắm, anh ấy sẽ không bỏ qua nó đâu.”
“Vậy thì cứ đề Gadi trộm nó – và hãy nhớ chị đã kể cho em nghe chuyện người ta gọi cậu ta là Gadi-một-tay thế nào rồi đó.” Cô khịt mũi khinh bỉ. “Người đàn ông đó trông như thể là một người nước ngoài buồn ngủ, nhưng anh ta rất nguy hiểm.”
Ali cáu kỉnh nhún vai. “Em có thể làm được nếu chị dạy cho em.”
“Không, chị không dạy. Trộm cắp là sai. Và nguy hiểm.”
“Vậy chị làm đi.”
“Chị cũng không làm.” Cô đi cùng thằng nhóc vào những con hẻm hẹp, ngoằn ngoèo, cứ bước mà không nghĩ gì. Những con hẻm này là lãnh địa của cô.
Cậu ta nói hờn dỗi, “Chị cũng từng làm thế rồi mà. Và lúc ấy chị chỉ lớn hơn em bây giờ có một chút. Anh Gadi nói-“
“Gadi nói hơi nhiều rồi đó. Chị chỉ trộm cắp khi chị còn nhỏ bởi vì hoặc làm thế hoặc là chết đói. Nhưng bây giờ chị đã làm việc, và lao động làm người ta có danh dự. Với lại-“ Cô chạm nhẹ tay vào khuôn hàm mỏng màu nâu của cậu bé. “Em sẽ không bao giờ chết đói, không trong khi Laila và chị còn sống. Em được lựa chọn.”
“Nhưng mà-“
“Đủ rồi!” Cô lắc cậu bé. “Laila sẽ chết mất nếu có chuyện gì xảy ra với em. Em là báu vật của chị ấy – dù chị không hiểu được tại sao chị ấy lại quan tâm đến một thằng nhóc tinh ranh, bẩn thỉu muốn trở thành một tên trộm nữa.”
“Đau em, Ash.” Ali đảo mắt và cố tỏ ra đang đau thay vì hài lòng.
“Không có đau em gì hết, theo chị.” Cô đấy nhẹ cậu bé hướng về phía cửa sau ngôi nhà của họ. Một mùi thơm ngon của bánh nướng tràn ngập không khí. “Phụ chị Laila làm bánh đi. Không được ăn quá nhiều đó. Và tránh xa người Anh đó ra nghe chưa.”
“Rameses,” Ali nhắc cô. “Nhưng em muốn thấy bức tranh đó. Em muốn xem chị-“
“Không nói thêm gì nữa hết về cái người đó cũng như bức tranh của anh ta nghe chưa!” Cô nói trong giọng bực bội. “Làm việc đi.”
Chắc cũng chẳng bao lâu nữa thì cô sẽ lại gặp phải người Anh đó; ngoài việc là người nước ngoài, anh ta còn là loại người có thể thu hút được sự chú ý của mọi người.
Cô nhìn thấy anh ta ở nhà của Hassan, cậu bé làm vườn trước đây của cha cô. Cho dù nếu không có tới năm người khác nhau không nói cho cô biết có một tổng trấn to lớn người nước ngoài đến nói chuyện với Hassan, thì cô cũng biết anh ta ở đó. Đôi ủng đen, dài, sáng bóng của anh ta dựng ngoài cửa trước.
Cô bị cám dỗ để lấy chúng đi, không phải là ăn cắp mà là giấu chúng đi. Dám đi săn lùng cô à! Cho anh ta thử cảm giác chân trần như cô. Nhưng có quá nhiều người nhìn thấy.
Cô đã không nói chuyện với Hassan trong sáu năm qua – cô không nói chuyện với bất kỳ người hầu nào của cha cô trước đây – sau chuyện đã xảy ra cô không dám làm thế – nhưng cô biết khu vực này an toàn.
Nhà của Hassan nhỏ và cũ. Chỉ có hai phòng cho cả gia đình. Người Anh cao lớn kia hẳn thấy rất tù túng, và rất nóng, vì thế có thể họ sẽ phải mở cửa sau. Từ đằng sau nhà, cô có thể nhìn thấy.
Cô lẻn vào một cái ngõ hẹp chỉ vừa đủ chỗ cho cô, không ai để ý thấy, nhảy lên một bức tường và lên tiếp mái của ngôi nhà đằng sau. Các căn nhà ở rất gần nhau nên cô có tầm nhìn tuyệt vời vào trong cái sân nhỏ phía sau của ngôi nhà Hassan, nơi đang có một phụ nữ nấu thứ gì đó trên một bếp đất nung nhỏ. Cô ta đang pha trà và đem nó lên mời khách, vẫn để cửa mở.
Ayisha nằm úp bụng, hai tay che mắt để đỡ chói, và cố nhìn vào bên trong ngôi nhà. Hơi khó nhìn, nhưng cuối cùng mắt cô cũng đã điều tiết đủ để cô thấy người Anh đó lấy bức tranh từ trong chiếc áo khoác ra và cho Hassan xem. Hassan nhìn, gật đầu, và nói gì đó, sau đó lắc đầu.
Cô nghển cổ lên cố nghe xem họ nói gì, bất cứ gì, nhưng cô không thể nghe thấy gì. Thật bực bội. Có nhiều người Anh ăn nói như sấm giật, cứ như thể mọi người trong thành phố đều muốn nghe họ nói vậy, nhưng còn người này, chết tiệt anh ta đi, lại nói nhỏ xíu. Giọng anh ta và Hassan cứ rì rà rì rầm với nhau.
Ayisha nằm xem, vừa nóng, vừa khát nước, vừa bực bội. Cuối cùng người Anh đó cũng đứng dậy, đưa cho Hassan cái gì đó – có thể là đồng vàng, cô cay đắng nghĩ – rồi rời đi, phải cúi đầu xuống để ra khỏi cửa. Cô leo xuống và chạy ra phía trước, lo lắng có thể mất dấu anh ta lần nữa. Cô chạy vào con đường của nhà Hassan và dừng lại nửa chừng trong lớp bụi mù.
Người Anh nọ nhìn lên và nhìn vào cô – thẳng vào cô. Anh ta vẫn chưa xỏ xong đôi ủng dài, chật của mình, nhưng dừng việc kéo chúng lại và nhìn chằm chằm vào cô. Đôi mắt lạnh lùng nheo lại và đôi mày đen của anh ta cũng chụm lại với nhau.
Ayisha rủa thầm và chạy theo hướng ngược lại. Cô sẽ đánh vòng để theo anh ta sau. Anh ta đã nhìn thấy cô, đã nhìn chằm chằm vào cô, rồi cau mày. Mày đúng là đồ ngốc, bất cẩn, ngu xuẩn, tại sao lại lôi kéo sự chú ý vào mình như thế chứ. Tất nhiên là anh ta đã để ý. Làm gì có ai, nhất là mấy đứa con trai, lại vội vã chạy ra đường như một tên điên, sau đó quay đầu và bỏ chạy chứ.
Tim cô đang đập thình thịch. Anh ta không thể biết cô là ai, cô tự trấn an mình. Không ai trong thế giới của cha cô gặp cô trong vòng sáu năm qua, hơn nữa, cô đang sống dưới hình dạng một đứa con trai. Nếu vẻ ngụy trang của cô có thể bị nhận diện chỉ trong nháy mắt thì cô sẽ không bao giờ sống sót được trong sáu năm qua trên đường phố. Không có chuyện một phụ nữ được chấp nhận, được cho phép mặc đồ của đàn ông. Đó là một tội lỗi, một tội ác. Cô sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc theo quy định của pháp luật, và sau đó… cô rùng mình với những điều vừa nghĩ.
Không, sự ngụy trang của cô rất ổn. Không ai biết cô là con gái ; chỉ có Ali, thằng bé như là em trai của cô, ngủ cạnh cô trên thảm rơm mỗi đêm. Và Laila. Chị ấy đã phát hiện ra sự lừa đảo này cách đây vài năm, nhưng đã giữ bí mật và còn giúp Ayisha hoàn hảo hơn lớp ngụy trang của mình.
Với những người khác, Ayisha là cậu bé đường phố, tên Azhar.
Và không ai – ngay cả Laila – biết được ba mẹ cô là ai. Điều này còn đáng giá hơn cả mạng sống của Ayisha.
Nói đúng hơn, nó chính xác là những gì làm cuộc sống của cô có giá trị.
Cô không tin ai với cái bí mật đó. Cô buộc mình quên đi mình là ai. Chỉ những khi bị ai đó săn đuổi cô mới phải nhớ lại.
Ai đó bây giờ là cái người Anh đó.
Nhưng anh ta không thể nào nhìn thấu được bí mật của cô, không phải chỉ trong một hai lần nhìn thấy. Chỉ là cô đã bất cẩn, đã đi quá đà, đã quá tập trung vào anh ta, đó là tất cả. Không có gì là bất bình thường, trừ đôi mắt kỳ lạ có vẻ như nhìn thấu mọi thứ.
Cô sẽ cẩn thận hơn trong tương lai.
Cô sẽ bắt kịp lại anh ta trong một thời gian ngắn thôi. Cô đổi khăn quấn đầu, thay cái khăn màu xanh bám đầy bụi bằng cái màu trắng với một sọc đỏ. Cô cũng luôn quấn một cái bản to quanh hông. Trong đám đông, mọi người nhận diện nhau qua cái khăn ; đổi nó cũng có nghĩa là bạn đã trở thành một người khác.
Cô đã theo anh ta suốt ngày, nhưng ẩn mình kỹ càng, trong bóng râm, trong khe cửa, trong các con hẻm, sau lưng người khác. Có vài lần anh ta quay lại và quét mắt khắp nơi như thể anh ta biết cô ở đó. May mắn là cô nhỏ người, ăn mặc xoàng xĩnh và rất có kỹ năng ẩn mình.
Anh ta đến nhà hầu hết các người làm trước đây của cha cô vào ngày hôm đó. Anh ta rất kỹ lưỡng, chết tiệt – không như những người trước đó.
Mỗi lần như vậy anh ta đều lấy ra túi da có bức họa của cô ở túi trước áo khoác và đưa cho họ xem. Ai cũng nhìn săm soi, gật đầu, rồi lại lắc đầu hoặc nhún vai.
Nhưng chẳng có cơ hội nào để cô lấy trộm bức họa đó cả. Trong một đám đông người sẽ là tốt nhất, như vào lần đầu tiên cô nhìn thấy anh ta, nhưng anh ta không trở lại cái nơi bận rộn nhất thành phố đó lần nào cả.
Suốt cả buổi chiều đó toàn là những ngôi nhà nhỏ trong các con hẻm hẹp hoặc hẻm cụt ; toàn là những vị trí bất thuận lợi để cô giở ngón nghề cũ của mình ra, cho dù anh ta không bị theo sau bởi những kẻ tò mò hoặc những kẻ ăn xin thì cũng là những người mà cô biết. Và chắc chắn sẽ làm cho họ thắc mắc tại sao Azhar lại thích thú với bức họa đó.
Còn bây giờ người Anh đó đang đứng trước cửa ngôi nhà một người đã từng làm những công việc lặt vặt. Ông ta bây giờ đã béo hơn, nhưng cô vẫn nhớ ông ta. Gamal. Cô chưa bao giờ thích ông ta. Sẽ là phép lịch sự để mời người nước ngoài nọ vào nhà. Những người khác đều làm vậy, nhưng Gamal muốn mọi người nhìn thấy vị khách sang trọng của mình, vì thế đã để anh ta đứng ngoài nắng.
Ayisha không thể chấp nhận sự bất lịch sự đó của ông ta, nhưng cô lại thấy mình có thể tận dụng cơ hội đó. May mắn lúc đó có một nhóm người tò mò tụ tập lại. Cô đánh bạo đến gần hơn.
" Hah ! Em biết ngay chị nói dối khi nói chị không quan tâm, " một giọng thì thầm đắc thắng ở khuỷu tay của cô.
" Ali, em đang làm gì ở đây vậy ? " Cô âm thầm nguyền rủa và kéo cậu bé ra khỏi tầm bị nghe thấy. " Chị đã bảo em phụ Laila làm bánh mà. "
" Thì em cũng làm rồi, " Ali phẫn nộ nói. " Còn bây giờ chị ấy bảo em đi kiếm rau cho ngày mai. " Cậu đưa ra một túi vải.
" Chị chẳng thấy rau nào mọc ở đây cả, " cô chỉ ra. " Sông mới là chỗ cần tìm, đi đi. Chị đã nói em tránh xa người đàn ông này mà. "
" Đau em, Ash, hái rau là việc của con gái và-"
Đó là một lập luận cũ rích mà Ayisha không kiên nhẫn để nghe. " Vậy chứ ăn uống và cãi lời mới là việc của con trai à ? Em muốn lớn lên như Omar phải không ? "
Ali nhăn nhó, không thích sự so sánh đó.
Anh trai Omar của Laila tránh nhúc nhích người càng nhiều càng tốt. Laila phải là người kiếm tiền để nuôi họ, phải hì hục làm bánh mì và bánh ngọt bằng cái lò đất sét trong khoảng sân nhỏ xíu. Chị ấy đã phải lùng sục khắp thành phố để kiếm củi và phân khô động vật để làm nguyên liệu đốt lò, chị làm bánh với rau dại và thảo mộc, và một chút xíu phó mát, nhưng chị ấy là một người sinh ra để nấu ăn và bánh chị làm ra bán rất nhanh.
Chị ấy cũng là người sinh ra để làm mẹ, mặc dù chưa sinh đẻ gì hết. Chị ấy trăn trở với hoàn cảnh của những trẻ em đường phố, sẽ cho tất cả ăn uống nếu có thể, nhưng Omar cấm tiệt điều đó. Anh ta lấy đến từng đồng xu Laila kiếm được. Đó là quyền của anh ta, như là người chủ gia đình.
Nhưng chỉ mỗi đồng xu anh ta biết, Laila và Ayisha đã ấp ủ một kế hoạch…
" Omar không phải là đàn ông ; anh ta là một con đỉa, " Ayisha nói. " Và không có chuyện đó chỉ là việc của phụ nữ. Vì vậy nếu Laila bảo em phải đi hái rau, thì em phải đi hái rau – hiểu không ? "
Ali thở dài và gật đầu, sau đó buồn bã nhìn vào nơi người Anh nọ đứng trong đôi ủng màu đen dài của anh ta, trông cao to, đẹp trai và hấp dẫn hơn nhiều so với mấy cọng rau. " Chúng ta không thể chỉ đến hỏi xem bức vẽ đó sao ? "
" Không. "
" Sao không ? Chị muốn, em cũng muốn mà. Vậy chứ sao chị ở đây ? "
" Chị chỉ đi ngang qua và tò mò dừng lại thôi, " cô nói với thằng bé. " Nhưng chị cũng phải đi làm việc đây, vì vậy cậu bé hái rau bé nhỏ của chị cũng vậy phải không nè. Đi đi em. " Cô đẩy nhẹ cậu bé theo hướng ra bờ sông.
Ali đi, bước chân nặng trình trịch, với cái nhìn của một kẻ sắp tử vì đạo, nhưng sau đó thằng bé đột nhiên tươi tỉnh lại và nhảy vọt đi. Ayisha cười toe. Thằng bé không dễ bị thúc ép và cô yêu nó vì điều đó. Cô quay trở lại người Anh nọ, nhưng anh ta đang rời đi, khuôn mặt xa xôi, không thể đọc được.
Gamal vẫn còn bên ngoài nhà mình và tự hào với đám đông hàng xóm tò mò, những người này đang tới gần hơn sau khi người Anh rời đi. Ayisha lẻn vào đằng sau họ để nghe xem Gamal nói gì.
" Vị khách của tôi – Rameses, là một lãnh chúa rất có địa vị ở Anh, là em trai của Hoàng đế nước Anh. "
Ayisha cố không khịt mũi. Làm như một hoàng tử Anh sẽ đi vi hành ở Cairo mà không có người thông dịch và người bảo vệ có vũ trang đi kèm vậy. Cho dù Hoàng đế Anh có cho phép thì Mehmet Ali, ngài tổng trấn cũng sẽ không cho.
Gamal ưỡn ngực ra hết cỡ và nói, " Đúng vậy đấy, ông ta đã đi cả quãng đường từ dài từ phía bên kia của thế giới chỉ để nói chuyện với tôi. Ông ta hỏi tôi về người Anh đã từng sống ở ở trong dinh thự hoa hồng gần bờ sông. "
" Không phải người đó đã chết rồi sao ? " ai đó hỏi.
" Phải, " Gamal nói, " nhưng tài sản đó đang bị bỏ hoang và gia đình của người Anh đó muốn phục hồi nó lại. "
Tài sản. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng Ayisha.
" Không phải ông đã lấy trộm nó sao, Gamal ? " ai đó trêu chọc, và mọi người cười ồ, không phải trong một cách thân thiện.
" Tại sao tôi, người nói chuyện với các lãnh chúa người Anh, lại phải bực mình với mấy tên nông dân không biết gì nhỉ ? " Gamal cho các người hàng xóm của mình một cái nhìn khinh khỉnh rồi bước vào trong nhà, đóng cửa lại.
Những người hàng xóm lẩm bẩm cáu kỉnh, và bắt đầu bực bội tản đi. Chẳng còn gì nhiều hơn để biết và ngày cũng sắp hết, vì vậy Ayisha bỏ đi.
Cô đuổi theo người Anh và người thông dịch của anh ta khi họ đi rẽ vào con đường chính và bước vào một con hẻm nhỏ rải sỏi, yên tĩnh. Các bước chân của Ayisha chậm dần. Cô biết con đường này. Ngôi nhà thứ ba cuối hẻm là…
Nhà của Zamil.
Chắc chắn là vậy, vì họ đã dừng lại ở nhà của Zamil và gõ lên cánh cửa dày, được gia cố bằng sắt.
Lo lắng đục lỗ dạ dày cô. Anh ta muốn gì với Zamil ?
Cô đứng khuất trong bóng tối khi người thông dịch nói với ai đó qua lớp lưới. Một lúc sau, họ được phép vào. Cánh cửa nặng trịch kêu lách cách đóng lại sau họ.
Mỗi bản năng trong cô rít lên bảo rằng hãy chạy xa khỏi nơi này hết mức có thể. Cô bắt đầu bỏ đi, nhưng sau đó quay lại. Cô phải biết cô đang chống lại cái gì. Cô phải biết. Cô vẫn còn một chút đắn đo, không dứt khoát.
«Mày muốn gì ở nhà Zamil hả, thằng nhóc kia ? " một giọng gầm gừ sau lưng cô.
Cô quay phắt người lại và thấy một gã đàn ông to lớn đứng lù lù sau cô, khuôn mặt sẹo gớm ghiếc của gã ẩn dưới hàm ria mép đen lớn. Ayisha nhận ra gã ngay lập tức. Gã biết tất cả những người sống trên đường phố là người Hy Lạp, những người Hy Lạp của Zamil, gã cũng là người phóng dao nhanh nhất thủ đô Cairo. Và là kẻ xấu xa nhất.
" Chà, nói đi chứ ! Muốn thó đồ của Zamil phải không ? " Gã khom người và đưa mặt gã tới sát mặt Ayisha, nhe hàm răng súng đen thui. Vài cái nhọn hoắc. Hơi thở thối um.
Không thể không bị dọa sợ khi đứng trước một gã như thế này. Ayisha hất đầu về phía cánh cửa. " Ông chủ của tôi, lãnh chúa người Anh, đang ở trong đó. "
" Chủ á ! " Gã Hy Lạp chế nhạo. «Chẳng khách hàng nào của Zamil, nói chi đến một lãnh chúa người Anh, lại mướn một con chó con rách rưới, gầy trơ xương như mày. Cút đi, thằng chó – trừ khi-" Đôi mắt gã chạy qua người cô và nụ cười đểu cáng của gã làm Ayisha quặn bụng. " Trừ khi mày có gì đó để bán. "
Cô sởn gai ốc, nhưng vờ như không để ý tới sự thích thú của gã. " Không có, tôi chỉ bán thông tin, đại ca. Chứ anh nghĩ ai dẫn lãnh chúa người nước ngoài đó đến nhà này chứ ? Bộ anh nghĩ người hầu của ngài ấy biết nhà của Zamil à ? "
Cô khịt mũi, sau đó cho gã đàn ông bự con một cái nhìn xấc xược. " Có lẽ Zamil vĩ đại – hoặc cánh tay phải đắc lực nhất của ông ấy – sẽ khen thưởng tôi vì việc này cũng nên ? "
Gã Hy Lạp nhìn đăm đăm một lúc, sau đó giật đầu ra sau cười ha hả. " Tao thích mày rồi đó, nhóc, " gã nói và thụi vào lưng Ayisha.
Gã đập một nắm tay vào cánh cửa và cánh cửa mở ra. Gã Hy Lạp nói, " Thằng khỉ táo tợn này nghĩ nó đủ tuổi để ngó qua hàng của Zamil. Hãy cho nó vào gặp ông chủ của nó. " Khi cánh cửa kéo ra, gã nói với Ayisha, " Cẩn thận cái đôi mắt to của mày đó, nhóc. "
" Mắt tôi ? " cô cau mày.
" Tốt hơn là nó đừng có nhảy ra khỏi hốc mắt của nó khi gặp mấy cô nàng của Zamil, " gã nói, và cả hai gã đàn ông cười ầm lên.
Ayisha cố toét miệng ra cười và thong dong đi vào trong khi tim đập như trống trận. Cánh cổng nặng trịch cuối cùng cũng đóng lại, và cô đang đứng trong một thế giới khác, một thế giới tách biệt khỏi cái thành phố bụi bẩn và đổ nát.
Cô đang đứng trong một cái sân được lát đá màu mật ong, có những khung vòm được chạm khắc và những cây cột có những rãnh dọc. Một đài phun nước trong một cái hồ đầy hoa sen. Hoa nhài mọc quấn vào những khung tò vò sắt.
Một tá đàn ông ăn bận sang trọng chờ trong sân, mỗi người đều có người hầu kề bên. Họ nói chuyện với nhau, kiểu chuyện trò giữa những người xa lạ trong khi chờ đợi điều gì đó. Trong một ô cửa đóng kín, một người Thổ cao lớn đang đứng, ra lệnh cho những người không nhìn thấy được ở bên trong.
Cô biết họ đang chờ gì. Dạ dày cô xoắn lại. Cô muốn bỏ chạy, chạy qua bên kia cánh cổng sắt to lớn kia. Chạy về phía an toàn.
Những người hầu đem thức uống cho những người đàn ông đang chờ : trà, nước trái cây, những đĩa thức ăn nhỏ tuyệt đẹp. Cô có thể ngửi thấy mùi thức ăn, thơm và ngon. Cô thấy đói bụng, cô đã không ăn gì ngày hôm nay, nhưng cho dù họ có mời cô – nhưng chắc chắn là sẽ không mời – thì cô cũng không thể nuốt nổi. Không ở chỗ này.
Cô phát hiện ra người Anh nọ đang ở phía xa của cái sân. Bộ đồ nước ngoài của anh ta đã thu hút những cái nhìn tò mò và một chút thù địch, nhưng anh ta vẫn đứng đó, dường như không quan tâm đến những cái nhìn với một thái độ dửng dưng, không đọc được.
Giữ đầu thấp xuống, cô thơ thẩn đi, nhưng kín đáo quan sát và tiến dần đến phía sau anh ta, rồi ngồi xổm dựa vào bức tường như những người đầy tớ cấp thấp nhất vẫn làm để chờ ông chủ mình.
Người Anh nọ nói gì đó với người thông dịch, anh ta tiến về phía một người đàn ông đang đứng trên bục ở góc khác của cái sân, một người đàn ông mập mạp trong chiếc áo choàng lụa. Zamil.
Anh ta bị người của Zamil chặn lại sau ba bước, nhưng sau một trao đổi ngắn, thì được họ hộ tống đến chỗ Zamil. Một lát sau Zamil vẫy tay về phía người Anh nọ.
Ayisha lách qua đám đông để đến gần hơn.
Anh ta rút cái túi ra và đưa cho Zamil xem bức họa. Zamil nhìn nó và nhún vai. Người Anh nọ nói gì đó – nhưng Ayisha không thể nghe được.
Cô nhích đến gần hơn, đúng lúc nghe Zamil nói, " Không, một trinh nữ da trắng trẻ tuổi bán được giá lắm, mà lại còn cách đây sáu năm… " Ông ta nhún vai. " Ai biết được giờ cô ta ở đâu ? Nhưng chắc chắn một điều, cô ta không còn là trinh nữ nữa. "
Ông ta nhìn vào khuôn mặt bình thản của người Anh và cười khùng khục. " Nhưng cá tươi thì ngon hơn cá ương, đúng không ? " Ông ta hất cằm về phía bục đấu giá. " Các cuộc đấu giá sẽ bắt đầu sớm nếu ngài muốn mua. "
Nhưng người Anh nọ thậm chí còn không nhìn theo hướng đó. Với một lời chào cộc lốc, anh ta quay người và bước đi, sải bước qua đám đông những người đi chợ, như thể họ không ở đó. Cũng như những người ở khu chợ, những người này đều dạt qua để anh ta bước qua. Chắc hẳn do đối mặt xanh bạc sáng rực, cô nghĩ khi bước theo anh ta ra ngoài. Chúng đủ lạnh để đóng băng cả tủy.
Cô theo anh ta, nhưng không theo kịp ; không ai nhường đường cho một thằng bé bẩn thỉu. Người Anh nọ đã bước ra ngoài đường khi Ayisha nghe đám đông đằng sau cô xì xầm.
Cô cố hướng về cánh cổng, không thể nhìn.
Nhưng cô có thể nghe.
Đó là một chợ nô lệ nữ. Ayisha nghe thấy tiếng nhốn nháo trả giá, nghe thấy thông báo, " Một cô gái Circassian, một trinh nữ đảm bảo… ", nghe thấy làn sóng trả giá dâng lên.
Dạ dày Ayisha nhộn nhạo. Cô suýt nữa là đã chuồn ra ngoài được, ước gì cô đã theo kịp người Anh nọ ra ngoài.
Người đàn ông ở cánh cửa cười với khuôn mặt tái mét của cô. " Quá nhiều người đẹp khỏa thân là quá nhiều cho một cậu bé, tao hiểu. Gã người Thổ cảnh báo mày rồi mà. Nhưng mà con bé Circassian đó nhìn ngon nhỉ, nhóc ? " Gã cười khùng khục khi đẩy chốt cửa. Còn giờ thì, mỗi khi mày nhìn một phụ nữ trong mạng che mặt, mày sẽ biết chính xác cái mạng che đó đang che cái gì rồi há ? "
Ayisha chạy vụt qua gã. Cô chạy và chạy cho đến khi xương sườn đau nhói và hơi thở phát ra tiếng kêu.