Thời gian đã qua ba ngày, Quách Hằng Xuyên rốt cuộc dốc toàn lực đột phá được Thập Bát Bàn, người Liêu vì bỏ chạy mà kích phát tiềm lực khủng bố, chỉ trong một ngày chạy được hơn năm mươi dặm, quân Tống không dám truy kích quá rát đội quân này, nhưng không chịu bỏ qua, đeo bám như đám sói ở hoang nguyên, đợi con một kiệt sức là lao vào cắn xé.
Quân Liêu lúc tiến đánh Nhạn Môn Quan thì có hơn hai mươi vạn, bỏ lại ở đó gần hai vạn quân, đến khi bị Vân Tranh dẫn quân ngược lại bao vây có thêm ba vạn quân tự ý rời đội ngũ rút lui, Quách Hằng Xuyên dẫn mười lăm vạn quân đột vây, vừa chạy vừa chia quân đoạn hậu, sĩ khí đi xuống, quân đội tan rã, mạnh ai nấy chạy, ngay cả uy vọng của Quách Hằng Xuyên cũng không kiểm soát nổi, lương thực hết, có người ăn phải lương thực trúng độc, trong quân giành nhau thức ăn, làm cuộc tháo chạy thảm liệt vô cùng.
Sau khi dùng nửa đội thân vệ ngăn cản quân Tống, cuối cùng cũng tạm thời cắt đuôi được đám sói đó.
Quách Hằng Xuyên nửa dìu nửa kéo một thiếu niên đặt xuống bên dòng nước, thiếu niên chụm tay ra sức múc nước uống, vì tham ăn một miếng quân lương mà hắn trên nôn dưới thải, người gần như kiệt quệ.
Không chỉ hắn, cả đám người nằm la liệt trong sơn cốc, nơi đây thuộc Ứng Châu, nằm giữa Tang Cang hà và Hồn Nguyên hà.
Đó là nhi tử mà cửu đệ của ông ta yêu thương nhất, Quách Hằng Xuyên không thể bỏ lại đứa cháu này, không thể bỏ lại bất kỳ con cháu Quách gia nào nữa.
- Tiểu Ái, chúng ta thu gom được bao nhiêu quân?
Quách Xuyên tìm một tảng đá lớn ngồi xuống:
Quách Ái là người hiếm hoi vẫn cầm đao đứng cảnh giới, nghe thế vội đáp:
- Đại bá, chúng ta chỉ còn sáu nghìn người, đêm qua bị quân Tống tập kích, thất tán rất nhiều.
Rồi đưa cho ông ta tùi nước da dê:
- Con súc sinh lông lá kia quá lợi hại, dù chúng ta trốn tới đâu cũng bị chúng tìm ra, trừ phi là phân tán thật nhỏ.
Quách Hằng Xuyên uống một ngụm nước lớn:
- Nghỉ ngơi một canh giờ, cháu mang những người trúng độc tiếp tục tới Ứng Châu, ta dẫn hai nghìn người rẽ sang hướng tây, dọc đường thu gom quân đội, dẫn dụ người Tống.
- Đừng tranh giành với ta, bá phụ cả đời chinh chiến vì sự hưng thịnh của Quách gia, trận chiến này tinh hoa Quách gia đã tổn thất quá lớn, không thể để tổn hại thêm một chút nào nữa. Quách Ái, bất kể thế nào cháu cũng phải dẫn bọn chúng về U Châu, mấy đứa còn là Quách gia còn, bá bá sống chết không còn quan trọng nữa.
Nói xong Quách Hằng Xuyên dựa vào tảng đá khép mắt nghỉ lấy sức, không có thời gian mà bi thương, phải nhanh chóng khôi phục sinh lực, đoạt lấy một con đường sinh tồn cho con cháu Quách gia.
Thế nhưng ông ta chưa chợp mắt được bao lâu thì trên đầu có tiếng ưng kêu chói tai, không khác gì tiếng tử thần đòi mạng.
Cách bọn họ hơn tám trăm dặm theo đường chim bay đang tinh kỳ ngợp trời, người kêu ngựa hí, niện giá của hoàng đế Đại Tống cuối cùng đã tới thành Cự Lộc nổi tiếng, dừng chân cắm trại.
Quân dung của Phủng Nhật quân xưa nay luôn xứng danh thiên hạ đệ nhất, tướng sĩ ai nấy cao lớn hùng dũng, chân dài tay dài, ngay cả tướng mạo cũng là hạng nhất, thêm vào từ trên xuống dưới là giáp trụ loang loáng, áo choàng đỏ rực, càng thêm uy phong lẫm liệt.
Có điều nhìn ai nấy mặt mũi âu sầu thì biết sĩ khí thế nào rồi.
Một số tráng hán mặc bộ nhân giáp nặng nề đứng đó sừng sững như núi, nhưng đám này chỉ có thể đứng được thôi, đừng mong chúng nhấc được trường thương lên tác chiến, nếu người Liêu tới bây giờ, chẳng cần chém giết, xô ngã chúng là thách đứng lên nổi, cứ thế nằm mãi cho tới chết.
Khải giáp sáu mươi cân, nếu không có đồng đội hỗ trợ, ngồi xuống đứng lên cũng khó khăn.
Cũng may nhờ khải giáp mà bọn chúng đứng được đấy, những tên khác nằm ngổn ngang đầy đất rồi.
Trâu Đồng Minh bị cảnh tượng bệ rạc trước mặt làm giận tới toàn thân run lên, hắn ở Hà Bắc chứng kiến tinh nhuệ của Địch Thanh, tới Nhạn Môn Quan thấy dũng tốt dưới quyền Vân Tranh, giờ nhìn đám người này, chỉ muốn đánh chết hết.
Những đội quân kia dù ngồi xuống thì tay vẫn nắm chắc đao, võ sĩ bộ nhân giáp tự động bày hàng ngũ, cắm đao ở bên cạnh, cho dù uống nước cũng chỉ quỳ một chân, uống một ngụm là đưa mắt cảnh giác xung quanh, đâu như đám phế vật này, vừa hạ lệnh dựng trại là nằm lăn ra đất, chẳng ai quan tâm bố trí phòng ngự.
Tướng chủ Phủng Nhật Quân là Thạch Trung Tín ngồi dưới gốc đại thụ nhàn nhã thưởng thức nước ô mai ướp đá trong bát sứ trắng, xung quanh có một đám quân tốt nịnh bợ, kẻ thì đưa đậu rang muối, kẻ hiến lên quả dại mới hái, nhốn nháo như cái chợ.
Nếu ở hai đội quân kia, cho dù là chiến trường thảm liệt, chỉ cần thấy chủ soái đứng đó, tất cả đều yên tĩnh lại, vì hai vị đó đều là mãnh hổ, muông thú phải cúi đầu tuân phục, còn Thạch Thủ Tín vác cái bụng lớn ngồi kia trông chẳng khác gì một con lợn béo?
Giận thì giận, không cách nào quản tới, Trâu Đồng Minh chỉ biết dậm chân trở về bên hoàng đế.
Đi vào đại trướng tù mù, hoàng đế đang ngồi sau bàn đọc một phong tấu chương, trên môi xuất hiện nụ cười hiếm thấy, cầm bút đỏ phê vài chữ, định gọi Trâu Đồng Minh, nhưng phát hiện hắn đứng trong góc, hình như đang khóc.
Triệu Trinh ngạc nhên lắm:
- Làm sao vậy, ai ức hiếp ngươi, thân là gia phó của thiên tử không lý nào lại phải nhẫn nhịn chứ?
Bị nói đúng chỗ chua xót, Trâu Đồng Minh quỳ xụp xuống, bật khóc nức nở:
- Quan gia, nô tài không khóc vì mình, mà thương tâm vì quan gia, vừa rồi nô tài đi một vòng, Phùng Nhật quân nào phải quân đội, mà như một đoàn kịch xiếc mua vui. Đội quân như thế làm sao bảo vệ được quan gia, không được, quan gia, chúng ta về phủ Đại Danh thôi, không đánh được ai đâu.
Triệu Trinh mỉm cười:
- Ồ, một hoạn quan như ngươi mà cũng hiểu chuyện quân à, ngươi theo trẫm bao năm, vậy mà trẫm không biết đấy.
Trâu Đồng Minh thấy hoàng đế vẫn cười được thì lệt xệt gối bò tới:
- Nô tài mấy năm qua mấy lần đi sứ tới chỗ Vân soái, trong quân Địch soái cũng tới hai lần, dù không hiểu chuyện quân, thì ít nhất cũng biết thế nào mới là quân đội thực sự.
- Vào trong quân Địch soái, nô tài có ấn tượng đó là một chữ nghiêm, tựa hồ tướng sĩ lúc nào cũng sẵn sàng đợi lệnh, chỉ cần một lời của Địch soái là dù lên núi đao biển lửa cũng không nói một lời. Còn ở chỗ Vân soái, cảm giác như đi lạc vào trong bầy mãnh thú, bất cẩn một chút là xông vào xé xác.
Triệu Trinh ồ một tiếng:
- Nghe thú vị đấy, có câu quân theo tính chủ, ngươi nói thế cũng hợp tính cách của hai vị đại soái, vậy ngươi nói xem, ấn tượng của ngươi với Phủng Nhật Quân là gì?
- Dạ, là chuồng lợn.
Trâu Đồng Minh gạt nước mắt.
- Chuồng lợn?
Giọng Triệu Trinh cao vút lên, thấy Trâu Đồng Minh gật đầu khẳng định, nhíu mày:
- Định Châu nguy ngập, trẫm lại chẳng thể điều quân từ chỗ Địch soái, mà Vân Tranh thì vốn đã không đủ quân mà dùng, lúc này ngoài Phủng Nhật quân ra trẫm không có lựa chọn nào khác.
- Nô tài biết bệ hạ đau lòng vì cái chết của hai vạn tướng sĩ Thần Vệ quân, nhưng người đem một đội quân còn tệ hơn Thần Vệ quân đi báo thù thì làm sao mà được, bệ hạ hạ lệnh không cho can gián, nhưng nô tài là gia nhân, không thể không nói.
Triệu Trinh thấy Trâu Đồng Minh đã khóc tới đỏ mắt rồi, thở dài:
- Trẫm cũng biết Phủng Nhật Quân là cái thứ gì, kỳ thực trẫm chỉ muốn xem Đại Tống còn bao nhiêu người bận tâm tới tính mạng của trẫm.
- Nói cho ngươi yên tâm, sáu nghìn thân vệ của Địch Thanh đang ngày đêm hành quân tới Triệu Châu, đám Phú Bật, Văn Ngạn Bác, Bao Chửng đều hồn phi phách tán, rất nhiều người vội vàng tới liều mình can gián, dẫn theo nhiều thân binh hộ vệ nữa ...