“Phần cuối câu chuyện của cha có lẽ là phần khó kể nhất, bởi bất chấp mọi điều, nó đã khởi đầu với vô vàn hạnh phúc. Chúng ta yên lặng trở về trường đại học và tiếp tục trở lại công việc của mình. Cha bị cảnh sát thẩm vấn một lần nữa, nhưng bọn họ có vẻ đã hài lòng với cái kết luận là chuyến đi nước ngoài của cha chỉ liên quan đến công việc nghiên cứu chứ không phải với việc biến mất của thầy Rossi. Rồi thì các tờ báo cũng nắm được tin ông ấy mất tích và đã thêu dệt thành một câu chuyện hình sự đầy bí ẩn, mà trường đại học cố lờ đi như không biết đến. Lẽ dĩ nhiên hiệu trưởng cũng tra vấn cha, và dĩ nhiên cha không tiết lộ điều gì và chỉ nói là cũng như bất kỳ người nào khác cha rất đau lòng về thầy Rossi. Mùa thu đó, Helen và cha tổ chức lễ cưới tại nhà thờ tại nơi ông bà nội con sinh sống - ngay cả giữa buổi lễ, cha vẫn không thể không cảm thấy hôn lễ thật đơn giản và tuềnh toàng khi thiếu đi thứ trầm hương thơm ngát.
“Lẽ dĩ nhiên, ông bà nội con khá ngạc nhiên về tất cả mọi chuyện, nhưng rốt cuộc cả hai không thể nào không yêu mến Helen. Mẹ không bao giờ để lộ bản tính ưa cáu gắt và châm chọc khi ở bên họ, trong thời gian chúng ta đến thăm ông bà nội ở Boston cha thường nghe Helen cười nói cùng với bà nội trong nhà bếp, chỉ cho bà nấu các món đặc sản của người Hungary, hoặc bàn luận với ông nội về nhân học trong phòng làm việc chật hẹp của ông. Về phần cha, mặc dù cảm thấy khổ tâm về cái chết của thầy Rossi và dường như cái chết đó cũng gây ra cho Helen nỗi bi thương không thể nguôi ngoai, nhưng dù sao với cha năm đầu tiên đó cũng ngập đầy niềm vui. Cha hoàn thành luận án tiến sĩ với một giáo sư hướng dẫn khác, người không để lại trong cha một ấn tượng rõ rệt nào trong suốt quá trình làm việc chung. Không phải vì cha vẫn còn quan tâm đến chủ đề các thương nhân Hà Lan; cha chỉ muốn hoàn tất việc học của mình để có thể ổn định cuộc sống ở một nơi nào đó. Helen đã công bố một bài báo dài về những điều mê tín dị đoan trong các làng mạc vùng Wallachia, bài báo rất được tán thưởng, mẹ đã bắt đầu luận án tiến sĩ có chủ đề về những tàn dư của phong tục tập quán vùng Transylvania ở Hungary.
“Chúng ta còn viết một thứ khác nữa, ngay khi về đến Mỹ: một lá thư gửi cho mẹ Helen, nhờ bác Éva chuyển. Helen không dám viết gì nhiều trong lá thư đó, chỉ vắn tắt vài dòng là thầy Rossi đã mất rồi, trước sau ông vẫn nhớ và thương yêu bà. Mẹ dán lá thư lại với vẻ mặt đầy tuyệt vọng. ‘Một ngày nào đó em sẽ kể với mẹ em mọi chuyện sau,’ Helen nói, giọng buồn bã, ‘khi em có thể thì thầm vào tai bà.’ Chúng ta không biết chắc lá thư đó có đến được địa chỉ hay không, bởi cả bác Éva lẫn mẹ Helen không ai hồi âm, và trong năm đó quân đội Liên Xô đã tràn vào Hungary.
“Cha hoàn toàn có ý định sẽ sống một cuộc sống hạnh phúc lâu dài, chẳng bao lâu sau đám cưới, cha đã nói với Helen là cha hy vọng chúng ta sẽ sớm có con. Thoạt tiên, mẹ lắc đầu, đưa những ngón tay mềm mại sờ lên vết sẹo trên cổ. Cha hiểu mẹ có ý gì. Nhưng triệu chứng nhiễm của mẹ rất nhẹ, cha phân tích rõ điều đó, mẹ vẫn khỏe mạnh và không bệnh tật gì. Càng lúc có vẻ như tình trạng bình phục hoàn toàn càng khiến mẹ yên tâm, cha nhìn ra ánh mắt thèm thuồng của mẹ như dán vào những chiếc xe đẩy trẻ con khi chúng ta đi trên phố.
“Helen nhận học vị tiến sĩ nhân học vào mùa xuân sau khi chúng ta cưới. Tốc độ viết luận án của Helen làm cha thấy xấu hổ; suốt năm đó cha thường thức giấc vào lúc năm giờ sáng và thấy mẹ đã rời giường từ lúc nào, đang ngồi ở bàn làm việc. Trông mẹ xanh xao và mỏi mệt, và hôm sau ngày mẹ bảo vệ luận án tiến sĩ, cha thức dậy và nhìn thấy máu dính trên chăn mền, Helen nằm kế bên, đã lả đi vì đau đớn: sẩy thai. Mẹ đã chờ đợi để làm cha ngạc nhiên với một tin tốt lành. Sau đó mẹ ốm nhiều tuần lễ, nhưng vẫn im lặng. Bản luận án tiến sĩ được đánh giá cao, nhưng mẹ chẳng hề nhắc đến điều đó.
“Mẹ thúc giục cha nhận công việc giảng dạy đầu tiên ở New York, và chúng ta đã chuyển đến đó. Chúng ta cư ngụ ở khu vực Brooklyn Heights, trong một căn sang trọng dễ chịu nhưng đã có phần xuống cấp. Chúng ta thường đi dạo dọc theo bến tàu nhìn ngắm những chiếc tàu kéo ngược xuôi trong bến cảng và những tàu chở khách khổng lồ cuối cùng nhổ neo trong cuộc đua hướng về châu Âu. Helen dạy tại một trường đại học cũng tuyệt vời như trường của cha, đám sinh viên ở đó rất ngưỡng mộ mẹ; tại New York chúng ta đã đạt được một sự cân bằng tuyệt diệu trong cuộc sống, kiếm sống được bằng công việc chúng ta yêu thích nhất.
“Thỉnh thoảng, chúng ta đem cuốn Cuộc đời của Thánh George ra chậm rãi nghiền ngẫm lại từng trang, và rồi cũng đến cái ngày mang nó đến một hãng đấu giá không công khai, và đến cuối buổi, tay người Anh tổ chức cuộc đấu giá gần như ngất xỉu. Sau một cuộc mua bán kín đáo, quyển sách đã trở về với tu viện Cloisters khu Thượng Manhattan, và một số tiền lớn được chuyển vào tài khoản mà chúng ta mở sẵn. Cũng giống như cha, Helen không thích cuộc sống cầu kỳ, nên ngoài việc cố gắng gửi vài món tiền nhỏ cho những người bà con ở Hungary, tạm thời chúng ta vẫn chưa đụng gì đến món tiền kia cả.
“Lần sẩy thai thứ hai của Helen nghiêm trọng và nguy hiểm hơn lần đầu, một ngày kia, cha trở về nhà và nhìn thấy những dấu chân vấy đầy máu trên mặt sàn gỗ phòng sảnh. Mẹ đã xoay xở tự gọi xe cứu thương và lúc cha đến được bệnh viện thì mẹ hầu như đã qua cơn nguy hiểm. Từ lúc đó, ký ức về những dấu chân vấy máu kia đã nhiều lần làm cha thức giấc giữa đêm khuya. Cha bắt đầu lo ngại chúng ta sẽ chẳng bao giờ có một đứa con khỏe mạnh và thầm băn khoăn tự hỏi thực tế đó sẽ ảnh hưởng như thế nào, đặc biệt với Helen. Nhưng rồi mẹ lại có thai, và những tháng dài đầy lo âu tiếp nối nhau trôi qua mà không có gì bất thường. Đôi mắt Helen trở nên hiền dịu chẳng khác gì bức tượng Đức Mẹ, bụng mẹ dần tròn lẳn dưới bộ váy áo len xanh, mẹ đi lại đã hơi khó khăn. Helen luôn miệng mỉm cười; đứa con này là đứa con chúng ta sẽ giữ được.
“Con sinh ra trong một bệnh viện nhìn xuống dòng sông Hudson. Khi nhìn thấy làn da ngăm đen và gương mặt của con sáng láng giống hệt mẹ, hoàn hảo như một đồng xu mới, mẹ đã giàn giụa nước mắt vì vui sướng lẫn đau đớn, cha bồng con lên cao trong lớp tã lót quấn chặt như để con có thể nhìn thoáng qua những chiếc tàu bên dưới dòng sông. Đó cũng là cách cha che giấu những giọt nước mắt của mình. Chúng ta đã đặt tên con theo tên bà ngoại của con.
“Mẹ con mê mẩn con; cha muốn con biết điều đó hơn bất cứ điều nào khác về cuộc sống của chúng ta. Mẹ con đã nghỉ dạy trong thời kỳ mang thai và có vẻ như sẵn sàng bỏ hàng giờ để chơi đùa với những ngón tay ngón chân con, mẹ con nói với một nụ cười tinh quái rằng chúng đặc sệt chất Transylvania, hoặc ngồi đu đưa con trong chiếc ghế bành cha mua cho mẹ. Con biết cười rất sớm và đã biết đưa mắt dõi theo cha mẹ khắp nơi. Đôi lúc cha bất thần rời khỏi phòng làm việc của mình để trở về nhà, để chắc chắn cả con và mẹ con - những cô gái có mái tóc huyền của cha - vẫn còn nằm ngủ yên lành trên chiếc trường kỷ kia.
“Một ngày kia, cha trở về nhà sớm, vào lúc bốn giờ, mang theo một vài hộp thức ăn Tàu và vài bông hoa cho con ngắm. Không có ai trong phòng khách, cha thấy Helen đang cúi xuống chiếc giường cũi, con thì đang ngủ. Gương mặt con khi ngủ trông vô cùng thanh thản, nhưng mẹ thì đầm đìa nước mắt và có vẻ như chưa nhận ra sự có mặt của cha ngay. Cha ôm mẹ vào lòng và cảm thấy, cùng một cơn ớn lạnh, rằng phần nào đó trong mẹ đáp lại vòng tay cha quá chậm chạp. Mẹ không thổ lộ với cha những gì đang khiến mẹ lo lắng, sau một vài lần thăm dò hỏi han không có kết quả cha cũng không dám hỏi nhiều hơn. Tối hôm đó, Helen đã tỏ ra vui vẻ với những bông cẩm chướng và đồ ăn cha mang về, nhưng tuần kế tiếp cha phát hiện mẹ lại giàn giụa nước mắt và lại câm lặng không chịu đáp lời, chỉ đọc lướt một trong các cuốn sách mà thầy Rossi đã ký tặng cha lúc chúng ta bắt đầu làm việc chung với nhau. Đó là một cuốn đồ sộ về nền văn minh Minoan, cuốn sách đang nằm trên lòng Helen, và mở đến một trang có tấm hình do chính thầy Rossi chụp một bệ thờ dùng trong các lễ hiến tế ở đảo Crete. ‘Con đâu em?’ cha hỏi.
“Helen chậm chạp ngẩng đầu lên, nhìn cha đăm đăm, tựa như vừa nhớ lại thực tại. ‘Nó đang ngủ.’
“Cha nhận thấy mình, một cách kỳ lạ, đang cưỡng lại cái thôi thúc muốn đi vào phòng ngủ để xem con thế nào. ‘Em yêu, có chuyện gì vậy?’ Cha cất cuốn sách đi và ôm lấy mẹ, nhưng mẹ cũng chỉ lắc đầu, không nói gì. Sau cùng, cha đi vào đúng lúc con vừa thức giấc, cùng với nụ cười dễ thương, lẫy người xuống, cố ngỏng lên nhìn cha.
“Chẳng bao lâu sau, Helen hầu như im lặng suốt mọi buổi sáng và khóc lúc đêm về mà chẳng vì nguyên do rõ rệt nào. Bởi Helen không chịu nói gì với cha nên cha đã cố ép mẹ đến gặp một bác sĩ và sau đó là một chuyên gia tâm lý. Vị bác sĩ cho biết là không tìm thấy bệnh tật gì ở Helen, phụ nữ đôi khi thường có tâm trạng chán nản trong vài tháng đầu thời kỳ sau sinh, Helen sẽ bình thường trở lại khi đã quen với vai trò làm mẹ. Đến tận khi một người bạn của chúng ta tình cờ gặp Helen ở Thư viện Công cộng New York, cha mới phát hiện ra mẹ đã không hề đến điều trị ở chỗ chuyên gia tâm lý. Khi cha hỏi thẳng chuyện đó, mẹ trả lời là một vài công việc nghiên cứu nào đó sẽ làm cho mẹ vui hơn và đã quyết định sử dụng thời gian gửi con đi nhà trẻ để thực hiện việc đó thay vì đến bác sĩ tâm lý. Nhưng vào một vài buổi tối, tâm trạng của mẹ rất nặng nề, cha đi đến kết luận là mẹ rất cần một sự thay đổi khung cảnh, môi trường sống. Vào đầu mùa xuân, cha đã rút một ít tiền dành dụm để mua vé máy bay đến Pháp.
“Helen chưa bao giờ đến Pháp mặc dù có lẽ cả đời đã đọc sách về nước Pháp và nói thạo tiếng Pháp như một người được học từ nhỏ. Mẹ trông tươi cười trên phố Montmartre, bình luận bằng giọng châm biếm cố hữu là nhà thờ Sacré Coeur trông xấu thậm chí còn tệ hại hơn nhiều so với mức mẹ tưởng tượng. Helen thích đẩy chiếc xe nôi của con dạo trong chợ hoa và dọc theo sông Seine, chúng ta cũng thường nán lại ở đó, len lỏi giữa những kệ sách trong khi con ngồi trong chiếc xe đẩy màu đỏ mềm mại, mải mê nhìn xuống dòng nước. Con đã là một khách du lịch tuyệt vời từ lúc mới chín tháng tuổi và mẹ thì thầm với con đó chỉ mới là sự khởi đầu.
“Bà lao công của khách sạn nhỏ nơi chúng ta ở hóa ra đã làm bà của nhiều đứa bé, nên bố mẹ nhờ luôn bà trông hộ con lúc con đang ngủ, còn mình thì la cà vào một quán rượu làm vài ly hoặc vẫn mang găng tay ngồi ngoài trời uống cà phê. Mẹ - cả con nữa, với đôi mắt ngời sáng - thích nhất là mái vòm vút cao của nhà thờ Đức Bà. Sau cùng chúng ta đã lang thang xa hơn xuống phía Nam thăm viếng những thắng cảnh có các công trình chạm trổ điêu khắc khác - giáo đường Chartres với những ô cửa kính rực rỡ; nhà thờ-pháo đài Albi kỳ dị rực một màu đỏ, nơi phát sinh của những dòng ngoại đạo; những đại sảnh của giáo đường Carcassone.
“Helen muốn đến thăm tu viện Thánh Matthieu cổ ở Pyrénées-Orientales, chúng ta quyết định sẽ đến đó một hoặc hai ngày trước khi trở về Paris và bay về nhà. Cha nghĩ đã nhìn thấy gương mặt mẹ rạng rỡ hơn khá nhiều trong chuyến đi, cha yêu thích cái cách mẹ nằm ườn thoải mái trên chiếc giường khách sạn ở Perpignan, lật từng trang cuốn sách về lịch sử kiến trúc Pháp mà cha mua ở Paris. Tu viện này được xây dựng từ năm 1000, Helen nói, dù biết cha đã đọc xong cuốn đó. Đó là mẫu kiến trúc phong cách Roman cổ xưa nhất còn tồn tại ở châu Âu. ‘Cũng cổ xưa gần như cuốn Cuộc đời của Thánh George,’ cha thì thầm, nhưng ngay lúc đó mẹ gấp sách lại, mặt xịu xuống, vẫn nằm đó nhìn con, lúc đó đang chơi đùa trên giường bên cạnh, bằng ánh mắt trừng trừng khao khát.
“Helen cứ khăng khăng đòi chúng ta phải đi bộ lên tu viện, như những người hành hương. Từ thị trấn Les Bains, chúng ta leo lên con đường dốc vào một buổi sáng mùa xuân lành lạnh, cột áo len dài tay quanh thắt lưng khi cảm thấy người đã nóng lên. Helen để con trong một cái địu ở trước ngực, khi mẹ mệt thì đến lượt cha bồng con. Con đường mùa này rất vắng, chỉ có một người nông dân tóc đen, im lặng cưỡi ngựa vượt qua mặt chúng ta, cũng hướng lên trên. Cha bảo Helen hãy hỏi ông ta đi nhờ ngựa một đoạn, nhưng mẹ không trả lời; sáng hôm đó sự trầm uất đã trở lại với mẹ, cha lo âu và chán nản khi để ý thấy thỉnh thoảng những giọt nước mắt lại ứa đầy đôi mắt mẹ. Cha biết nếu cha lên tiếng hỏi han này nọ mẹ sẽ lại lắc đầu, gạt ngang, vì vậy cha đành bằng lòng vừa đi lên vừa bồng giữ con trong tay, âu yếm trỏ cho con thấy cảnh vật xung quanh mỗi khi đến một khúc quanh nào đó, những dải làng mạc và cánh đồng bụi mờ trải dài phía dưới. Ở đỉnh núi, con đường mở rộng thành một bãi đất rộng, vài chiếc xe cũ kỹ đang đậu ở đó, và chú ngựa của người nông dân - dường như vậy - được cột vào một gốc cây, dù không trông thấy anh ta đâu. Tu viện đứng sừng sững trên khu vực này, những bức tường đá nặng nề chạy đến tận đỉnh, chúng ta đi lên, băng qua cổng vào khuôn viên tu viện.
“Thời đó, tu viện Thánh Matthieu hoạt động khá sôi động so với bây giờ, và có lẽ cái cộng đồng mười hai hoặc mười ba con người ở đó đang tiếp tục cuộc sống như các bậc tiền nhân của họ từ một ngàn năm trước, có khác chăng là thỉnh thoảng họ phải đón tiếp các du khách và có xe riêng đậu ở bên ngoài. Hai tu sĩ dẫn chúng ta đi quanh những dãy hành lang cực kỳ tinh tế - cha vẫn còn nhớ mình đã sững sờ ra sao khi bước vào khoảng không gian thênh thang ở cuối khoảnh sân trong và nhìn thấy cái vực thẳm thẳng đứng lô nhô đá trồi ra, một vách đá sừng sững, bên dưới là những cánh đồng. Những ngọn núi xung quanh thậm chí còn cao hơn đỉnh núi mà tu viện tọa lạc, và trên những sườn núi xa xa cha có thể trông thấy những bức màn trắng xóa mà một lúc sau mới nhận ra chính là những dòng thác.
“Chúng ta ngồi một lát trên chiếc ghế dài gần vách núi, con ngồi ở giữa, trông ra bầu trời buổi trưa bao la và nghe tiếng nước róc rách trong bể nước khắc chạm bằng cẩm thạch đỏ ở giữa sân - chỉ có trời mới biết từ nhiều thế kỷ trước người ta đã vận chuyển bể nước kia lên đến đây bằng cách nào. Helen có vẻ vui vẻ trở lại, cha cũng vui khi nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ. Dù đôi lúc mẹ vẫn tỏ vẻ u sầu, nhưng chuyến đi này cũng đáng đồng tiền bát gạo.
“Sau cùng, Helen tỏ ý muốn thăm viếng tu viện kỹ hơn. Chúng ta lại cho con vào địu và bắt đầu rảo quanh đến tận gian bếp và nhà ăn dài nơi các tu sĩ vẫn đang dùng bữa, khu nhà ngủ tập thể với những chiếc giường xếp dành cho khách hành hương, và phòng viết - một trong những phần lâu đời nhất của quần thể, chắc hẳn đó là nơi nhiều bản thảo tuyệt vời đã được sao chép và giải mã. Có một bản thảo được trưng bày dưới lớp kính, một cuốn kinh Phúc âm Matthew mở ra đến một trang viền dọc hai bên bằng hình những con quỷ sứ nhỏ xíu lô nhô đẩy nhau xuống phía dưới. Helen mỉm cười trước cảnh đó. Nhà nguyện ở kế bên - nhỏ nhắn như tất cả mọi thứ trong tu viện, nhưng cân đối hài hòa, chìm hẳn vào trong đá; cha chưa bao nhờ nhìn thấy một công trình kiến trúc phong cách Roman nào thú vị và dễ chịu như vậy. Cuốn cẩm nang hướng dẫn cho biết phần vành cung bên ngoài của khu tụng niệm chính là khoảnh khắc hiện thân đầu tiên của phong cách kiến trúc Roman, ban đầu chỉ là một ứng biến để lấy ánh sáng cho bệ thờ. Trong các khung cửa sổ hẹp vẫn còn một số tấm kính có niên đại từ thế kỷ mười bốn, bệ thờ được trang trí chủ yếu bằng hai màu trắng đỏ, cùng những giá nến bằng vàng. Chúng ta yên lặng rời khỏi đó.
“Sau cùng, vị tu sĩ trẻ hướng dẫn cho biết chúng ta đã thăm viếng mọi nơi ngoại trừ khu hầm mộ, Helen và cha bước theo anh ta xuống đó. Đó là một cái hố nhỏ ẩm thấp nặng nề âm khí, tách biệt với khu hành lang, kiến trúc thật thú vị với một mái vòm xây kiểu Roman sơ khai được chống đỡ trên những cây cột thấp, to bè, và một cỗ quan tài đồ sộ bằng đá chạm trổ có từ thế kỷ đầu tiên, từ ngày có tu viện - là nơi an nghỉ của cha tu viện trưởng đầu tiên, vị tu sĩ hướng dẫn cho biết. Ngồi kế bên cỗ quan tài đá là một tu sĩ lớn tuổi đang chìm trong trầm tư mặc tưởng; khi chúng ta bước vào, ông ngẩng nhìn lên, ánh mắt hiền hậu và có phần bối rối, ông chỉ ngồi yên trên ghế và gật đầu chào chúng ta. ‘Đã nhiều thế kỷ qua, ở đây chúng tôi có truyền thống là một người trong chúng tôi phải ngồi với cha tu viện trưởng,’ vị tu sĩ hướng dẫn giải thích. ‘Thông thường, chỉ một vị tu sĩ cao niên có được vinh dự này.’
“ ‘Kỳ lạ thật,’ cha nhận xét, nhưng ở nơi này có điều gì đó, có lẽ là sự lạnh lẽo, khiến con ọ ẹ khóc và vùng vẫy trước ngực mẹ. Nhận thấy mẹ có vẻ mệt nên cha đã đề nghị bồng con lên chỗ không khí thoáng mát bên trên. Cha bước ra khỏi cái hầm đầy âm khí nặng nề đó với cảm giác nhẹ nhõm và đưa con đến nhìn ngắm đài phun ngoài hành lang.
“Cha cứ ngỡ Helen sẽ bước theo ngay, nhưng mẹ cứ nhẩn nha ở dưới khu hầm mộ, và khi xuất hiện trở lại, khuôn mặt mẹ đã thay đổi đến độ cha cảm thấy dậy lên trong lòng một nỗi sợ hãi. Helen trông có vẻ phấn khích - phải, gương mặt sinh động hơn hẳn những tháng vừa qua - nhưng đồng thời cũng xanh xao hơn và đôi mắt mở to, như dự định một điều gì đó mà cha không nhận ra. Cha bước về hướng mẹ và cố làm ra vẻ thản nhiên rồi hỏi dưới đó có gì khác đáng quan tâm không. ‘Có thể,’ Helen trả lời, nhưng như thể mẹ không nghe thấy cha hỏi gì vì trong lòng mẹ đang rộn lên quá nhiều suy nghĩ. Rồi mẹ đột ngột quay sang giằng lấy con từ tay cha, ôm chặt và thiết tha hôn lên đầu lên má con. ‘Con ổn chứ? Nó có sợ không?’
“ ‘Con khỏe mà,’ cha trả lời. ‘Có thể hơi đói một chút.’ Helen ngồi xuống một chiếc ghế dài, lấy ra một bình thức ăn trẻ con và bắt đầu cho con ăn, ngân nga một bài hát ru ngắn mà cha không hiểu - tiếng Hungary hay tiếng Rumani? - trong lúc con bú bình. ‘Chỗ này đẹp quá,’ một lúc sau mẹ nói, giọng nhẹ nhàng. ‘Mình ở lại đây vài hôm, anh nhé.’
“ ‘Chúng ta phải trở về Paris vào tối thứ Năm,’ cha phản đối.
“ ‘Ồ, đâu có gì khác nhau giữa việc qua đêm tại đây và ở dưới thị trấn Les Bain đâu,’ mẹ điềm đạm đáp lại. ‘Ngày mai chúng ta có thể đi bộ xuống và đón xe buýt, nếu anh nghĩ chúng ta cần phải đi sớm.’
“Cha đã đồng ý, bởi mẹ trông có vẻ rất kỳ lạ, nhưng đến tận khi cha đi bàn chuyện đó với vị tu sĩ hướng dẫn cha vẫn cảm thấy phần nào lưỡng lự. Tu sĩ hướng dẫn báo lại với cha bề trên của mình và cha bề trên đã cho phép chúng ta ở lại khu nhà ở tập thể đang còn trống. Khoảng giữa bữa trưa đạm bạc và bữa tối còn đạm bạc hơn lúc họ dọn cho chúng ta trong một phòng cách biệt với nhà bếp, chúng ta lang thang trong những vườn hồng, tản bộ trong vườn cây ăn quả trên triền dốc bên ngoài những bức tường tu viện và ra sau nhà nguyện nghe các tu sĩ ngân nga hát thánh ca trong lúc con ngủ vùi trong lòng mẹ. Một tu sĩ sửa soạn nơi ngủ cho chúng ta: giường xếp cùng chăn mền giản dị sạch sẽ. Sau khi con ngủ say trên một giường, với hai chiếc giường của chúng ta đẩy sát lại hai bên để con khỏi lăn té ra ngoài, cha nằm xuống và vờ như không nhìn qua mẹ. Mẹ con vẫn ngồi ở mép giường, trong bộ váy áo màu đen, nhìn ra bên ngoài về phía bóng đêm. Ơn trời rèm cửa đã buông xuống, nhưng rốt cuộc mẹ cũng đứng dậy, vén rèm lên, đứng nhìn đăm đăm ra bầu trời đêm. ‘Ngoài đó hẳn phải tối lắm nhỉ,’ cha nói, ‘và chẳng có thị trấn nào gần.’
“Helen gật đầu. ‘Tối om om, nhưng ở đây bao giờ cũng vậy, anh không nghĩ thế sao?’
“ ‘Sao em không vào giường ngủ đi?’ cha với tay về phía con và vỗ vỗ lên giường mẹ.
“ ‘Được thôi,’ mẹ đáp, không tỏ dấu hiệu gì phản đối. Thực ra mẹ còn mỉm cười, cúi xuống hôn cha trước khi nằm xuống giường. Cha đã ôm mẹ một lúc, cảm nhận sức lực của đôi bờ vai, làn da cổ mịn màng của mẹ. Rồi mẹ duỗi người, kéo chăn đắp và có vẻ như chìm vào giấc ngủ rất lâu trước khi cha đọc hết chương sách và thổi tắt ngọn đèn lồng.
“Cha tỉnh dậy vào lúc trời hừng sáng, cảm thấy một cơn gió hiu hiu thổi qua phòng. Không gian rất yên tĩnh; con nằm thở đều đều bên cạnh cha, dưới tấm chăn len trẻ con, nhưng giường của Helen trống trơn. Cha yên lặng ngồi dậy, mang giày và áo khoác vào. Dãy hành lang phía ngoài tối lờ mờ, khu sân trong một màu xám xịt, đài phun nước là một khối mờ mờ ảo ảo. Cha chợt nghĩ chắc hẳn còn lâu ánh mặt trời mới chiếu đến nơi này, bởi trước tiên nó phải vượt qua những đỉnh núi khổng lồ ở hướng Đông kia. Cha nhìn quanh tìm mẹ, nhưng không gọi to vì biết mẹ con ưa dậy sớm và có thể đang ngồi suy tư trên một chiếc ghế dài nào đó, chờ bình minh lên. Không có dấu vết gì của mẹ, tuy nhiên, khi bầu trời sáng lên một chút, cha bắt đầu sục sạo nôn nóng hơn, một lần nữa đến chỗ chiếc ghế dài mà chúng ta đã ngồi ngày hôm qua và một lần nữa đến ngôi nhà nguyện im lìm sặc sụa mùi hương khói.
“Cuối cùng, cha cũng bắt đầu lên tiếng gọi mẹ, ban đầu là khe khẽ, sau đó là to hơn, và rồi là hoảng hốt. Một vài phút sau, một tu sĩ xuất hiện từ phòng ăn, chắc hẳn họ đang yên lặng dùng bữa ăn đầu tiên trong ngày ở đó, và hỏi cha liệu ông ta có thể giúp được điều gì không. Cha giải thích là vợ mình đã đi đâu không thấy, ông bắt đầu sục sạo cùng cha. ‘Có lẽ bà nhà đi dạo chăng?’ Nhưng cũng không có dấu vết nào của Helen trong khu vườn cây ăn quả, hoặc khu vực đậu xe, cả trong khu hầm mộ tăm tối cũng không. Khi mặt trời vượt qua đỉnh núi thì chúng ta đã lùng sục khắp mọi nơi, vị tu sĩ kia đã đến gặp một vài tu sĩ khác, một người trong số họ nói sẽ lái xe xuống thị trấn Les Bains để trình báo. Cha khẩn khoản yêu cầu ông ấy mời cảnh sát về theo. Sau đó cha vội trở về trong căn nhà ngủ tập thể vì nghe tiếng con khóc, sợ con lăn ra khỏi giường. Cha nhanh chóng cho con ăn và bồng con trong tay trong khi chúng ta lùng sục mọi nơi một lần nữa.
“Sau cùng, cha yêu cầu tập họp tất cả mọi tu sĩ để hỏi lại. Cha tu viện trưởng bằng lòng và đã gọi mọi người tụ tập trong khu vực hành lang. Không ai nhìn thấy Helen sau khi chúng ta rời khỏi nhà bếp vào tối hôm qua. Mọi người đều tỏ ra lo lắng - ‘La pauvre - Ôi, tội nghiệp cô ấy,’ một tu sĩ buột miệng, câu nói đó bất chợt khiến cha nổi cáu. Cha gặng hỏi, ngày hôm qua liệu có người nào đã nói chuyện với Helen, hoặc chú ý nhận thấy có điều gì bất thường không. ‘Chúng tôi không tiếp chuyện với phụ nữ, đó là quy tắc chung,’ cha tu viện trưởng nhẹ nhàng trả lời.
“Nhưng một tu sĩ bước lên phía trước, cha nhận ra ngay đó là vị tu sĩ già có nhiệm vụ ngồi trong hầm mộ. Trong tâm trạng khá hoang mang cha vẫn chú ý nhận thấy dưới ánh đèn lồng gương mặt ông vẫn nhân hậu và trầm tĩnh như ngày hôm qua. ‘Cô ấy đã dừng lại để hỏi tôi,’ ông ta nói. ‘Tôi không muốn phạm luật, nhưng cô ấy tỏ ra rất điềm tĩnh và lịch thiệp, vì vậy tôi đã trả lời.’
“ ‘Cô ấy hỏi ông điều gì?’ Tim cha vốn đã thình thịch trong lồng ngực bây giờ lại bắt sang một nhịp điệu dồn dập khốn khổ.
“ ‘Cô ấy hỏi ai được chôn ở đấy, tôi đã trả lời đó là một trong các cha tu viện trưởng đầu tiên, và chúng tôi có nghi thức tưởng nhớ đến ông. Cô lại hỏi cha tu viện trưởng đó đã thực hiện được những việc lớn lao nào, tôi đã giải thích là chúng tôi có một truyền thuyết’ - đến đây ông liếc nhìn cha tu viện trưởng, ông này gật đầu để ra hiệu ông ta tiếp tục - ‘chúng tôi có một truyền thuyết kể rằng ông ấy đã sống một cuộc đời thánh thiện nhưng lại bất hạnh vướng phải một lời nguyền sau khi chết, vì vậy đêm nào ông ấy cũng ra khỏi quan tài để hãm hại các tu sĩ khác, và do vậy thi hài ông ấy phải được tẩy uế. Lúc đã được tẩy uế, một bông hồng trắng sẽ mọc lên từ tim ông ấy, tượng trưng cho sự tha thứ của Đức Mẹ Thiêng Liêng.’
“ ‘Và đó là lý do vì sao phải có người ngồi canh chừng ông ấy?’ cha xẵng giọng hỏi.
“Cha tu viện trưởng nhún vai. ‘Đơn giản đó chỉ là truyền thống của chúng tôi, để tưởng nhớ ông ấy.’
“Cha quay sang ông thầy tu già, cố kìm nén cái ước muốn được bóp cổ ông ta và nhìn thấy gương mặt hiền từ kia tái tím đi. ‘Có phải đó là câu chuyện ông kể cho vợ tôi nghe?’
“ ‘Cô ấy hỏi tôi về câu chuyện của chúng tôi. Tôi không thấy có gì sai trái trong việc trả lời các câu hỏi của cô ấy.’
“ ‘Và cô ấy nói gì sau khi ông trả lời?’
“Ông thầy tu già mỉm cười. ‘Cô ấy cảm ơn tôi bằng một giọng rất dịu dàng và hỏi tên tôi, tôi đã xưng mình là Frère Kiril.’ Ông lão trả lời, chắp hai tay ngang thắt lưng.
“Phải mất một lúc cha mới hiểu ý nghĩa của những tiếng đó, cái tên trở nên xa lạ vì cái cách nhấn trọng âm vào âm tiết thứ hai đặc Pháp, vì cái từ vô thưởng vô phạt frère_(1) kia. Cha ôm con chặt hơn như thể sợ làm rơi con xuống. ‘Có phải ông đã nói tên ông là Kiril? Có phải ông đã nói như vậy? Ông có thể đánh vần cái tên đó được chứ?’
“Ông thầy tu ngạc nhiên, miễn cưỡng làm theo yêu cầu của cha.
“ ‘Cái tên này xuất phát từ đâu?’ cha hỏi, không thể giữ cho giọng nói của mình đừng run run. ‘Có phải đó là tên thật của ông? Ông là ai?’
“Cha tu viện trưởng xen vào, có lẽ vì ông thấy vị thầy tu già có vẻ lúng túng thực sự. ‘Đó không phải là tên thật của ông ấy,’ ông ta giải thích. ‘Khi thề nguyện tất cả chúng tôi đều nhận một tên mới. Bao giờ cũng có một người tên là Kiril - luôn như vậy - và một sư huynh mang tên Michel - như Sư huynh này...’
“ ‘Ý ông muốn nói,’ cha hỏi, ôm con còn chặt hơn, ‘có một Sư huynh Kiril trước ông này, và một ông khác trước ông đó nữa?’
“Ồ, đúng vậy,’ cha tu viện trưởng trả lời, rõ ràng cũng bối rối vì sự tra vấn gay gắt của cha. ‘Theo như truyền thống của chúng tôi mà ai cũng biết. Chúng tôi hãnh diện về những truyền thống của mình - chúng tôi không ưa chuộng những lề thói mới.’
“ ‘Vậy thì truyền thống này xuất phát từ đâu?’ cha gần như hét lên.
“ ‘Điều đó thì chúng tôi không biết,’ cha tu viện trưởng trả lời, giọng kiên nhẫn. ‘Từ bao lâu nay ở đây vẫn vậy.’
“Cha bước sát đến, gần như gí sát mũi mình vào mũi ông ta. ‘Tôi muốn ông mở cỗ quan tài đá trong khu hầm mộ ra,’ cha gằn giọng.
“Ông ta lui lại, vẻ kinh hoàng. ‘Anh nói cái gì vậy? Chúng tôi không thể làm việc đó.’
“ ‘Hãy đi với tôi. Đây…’ Cha trao con cho vị tu sĩ trẻ, người đã hướng dẫn chúng ta rảo quanh đây đó ngày hôm qua. ‘Xin giữ hộ con gái tôi.’ Anh ta bồng con, đu đưa con trong tay, không vụng về lúng túng như cha nghĩ. Con bắt đầu khóc. ‘Đi nào,’ cha nói với cha tu viện trưởng. Cha kéo ông ta về hướng khu hầm mộ, ông ra dấu bảo các tu sĩ khác hãy ở yên tại chỗ. Chúng ta nhanh chóng xuống các bậc cấp. Trong cái hầm lạnh lẽo đó, vẫn còn leo lắt hai cây nến do Sư huynh Kiril để lại, cha quay qua ông tu viện trưởng. ‘Ông không phải kể với ai về việc này, nhưng tôi phải nhìn xem bên trong cỗ quan tài đá kia.’ Cha dừng lại để nhấn mạnh. ‘Nếu ông không giúp tôi, bắt buộc tôi phải nhờ đến pháp luật để đối phó với tu viện các ông.’
“Ông ta ném vào cha một cái nhìn - sợ hãi? căm giận? thương hại? - rồi không nói một lời, đi thẳng đến một đầu cỗ quan tài. Chúng ta cùng hợp lực đẩy nắp quan tài qua một bên, vừa đủ rộng để có thể nhìn vào bên trong. Cha đưa cao cây nến. Cỗ quan tài trống rỗng. Cha tu viện trưởng trợn trừng mắt và vội đẩy mạnh nắp hòm trở lại. Chúng ta nhìn nhau. Ông ta có một gương mặt đặc trưng của người Pháp - thanh tú, lanh lợi - mà hẳn cha sẽ rất mến trong một tình huống khác. ‘Xin ông đừng tiết lộ với các sư huynh khác điều này,’ ông ta trầm giọng nói nhỏ, rồi quay người leo lên khỏi hầm mộ.
“Cha bước theo, cố suy nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Cha quyết định sẽ đưa con quay xuống thị trấn Les Bains ngay tức khắc và chắc chắn là cảnh sát đã được báo động. Có thể Helen đã quyết định về Paris trước chúng ta - tại sao, cha chưa thể hình dung được - hoặc thậm chí bay về nhà trước. Cha cảm thấy như bị một cú đấm trời giáng vào mang tai, tim như nghẹn lại trong cuống họng, máu muốn trào ra miệng.
“Khi cha bước vào lại hành lang, ánh mặt trời đã tràn ngập chỗ đài phun, chiếu lấp lánh trên mặt sân lát đá, lũ chim ríu rít líu lo và cha đã biết chuyện gì xảy ra. Cha cố gắng, một cách khó khăn, trong cả giờ đồng hồ để đừng nghĩ đến điều đó, nhưng giờ thì hầu như cha không cần biết cái tin mà hai tu sĩ vừa chạy về hướng cha tu viện trưởng vừa hét toáng lên thông báo ấy nữa. Đó là hai tu sĩ được phân công tìm kiếm khu vực bên ngoài các bức tường tu viện: vườn cây ăn quả, trong vườn rau, khu rừng nhỏ đầy những cây khô, những tảng đá nhô ra ở bên dưới triền dốc đứng. Họ vừa trở về từ dưới đó - một trong hai người trỏ vào rìa hành lang mà hôm qua Helen, con và cha đã ngồi trên một chiếc ghế dài nhìn xuống cái vực sâu thăm thẳm ấy. ‘Thưa cha tu viện trưởng!’ một trong hai người thét lên, tựa như ông ta không thể gọi cha trực tiếp. ‘Cha tu viện trưởng, có máu trên các tảng đá! Ở dưới kia, dưới kia kìa!’
“Không có lời nào có thể tả lại những khoảnh khắc như vậy. Cha chạy đến các rìa hành lang, địu con trên lưng, cảm nhận cái má mượt mà như một cánh hoa của con áp vào cổ mình. Những giọt nước mắt đầu tiên trào dâng trong mắt cha, nóng bỏng và cay đắng hơn bất kỳ những gì mà cha đã từng trải nghiệm. Cha nhìn qua bức tường thấp. Trên một tảng đá nhô ra cách khoảng năm mét phía dưới là một vệt màu đỏ tươi - không lớn, nhưng có thể nhận ra rõ ràng trong ánh nắng ban mai. Dưới đó nữa là cái vực sâu đang há miệng toang hoác, sương mù cuồn cuộn, lũ đại bàng đang bay lượn săn mồi, vách núi đổ xuống hun hút đến tận cùng chân chúng. Cha chạy về phía cổng chính, loạng choạng bước quanh những bức tường phía bên ngoài. Vách đá đó quá dựng đứng, ngay cả nếu không phải bồng con cha cũng không thể an toàn leo xuống chỗ hòn đá nhô ra kia được. Cha chỉ biết đứng nhìn làn sóng mất mát tràn qua không gian thánh thiện ấy, qua buổi ban mai tươi đẹp ấy, ập xuống đầu mình. Rồi nỗi khổ đau chạm đến cha, cháy bỏng như một ngọn lửa mà không một lời nào có thể tả được.
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Pháp: Sư huynh.
hương 77
“Cha đã ở lại thị trấn Les Bains ba tuần lễ, cùng với cảnh sát địa phương và một đội đặc nhiệm được gọi từ Paris đến để sục sạo những vách đá và khu rừng. Ông bà nội con bay đến Pháp và dành ra hàng giờ để chơi đùa với con, cho con ăn uống, đẩy xe cho con loanh quanh khắp thị trấn - cha nghĩ vậy. Trong lúc ấy cha phải điền vào hết biểu mẫu này đến biểu mẫu khác trong các văn phòng buồn tẻ nhỏ bé. Cha đã gọi những cuộc điện thoại vô vọng, tìm kiếm từng từ trong tiếng Pháp để diễn tả tình trạng khẩn cấp của nỗi đau mất mát trong mình. Ngày này tiếp ngày nọ, cha sục sạo các khu rừng dưới chân vách núi, đôi khi cùng với nhóm người của một thanh tra cảnh sát mặt lạnh như tiền, đôi khi chỉ một mình cha cùng với những giọt nước mắt lưng tròng.
“Thoạt đầu, cha mong được nhìn thấy Helen còn sống, bước về phía cha với nụ cười phớt lạnh quen thuộc, nhưng sau cùng niềm hy vọng đó giảm xuống chỉ còn là một nửa nỗi khao khát cay đắng được nhìn thấy hình hài vỡ nát của mẹ, hy vọng sẽ vô tình vấp vào hình hài ấy đâu đó giữa những tảng đá hoặc bụi rậm. Nếu cha có thể mang thi hài mẹ về nhà - hoặc về Hungary như đôi khi cha nghĩ, mặc dù làm thế nào để vào được đất nước Hungary đang bị quân đội Liên Xô kiểm soát vẫn là một câu hỏi hóc búa - thì cha vẫn phải giữ lại gì đó của mẹ để tỏ lòng tôn kính, để chôn cất, để một cách nào đó chấm dứt việc này và được một mình còn lại với nỗi khổ đau của mình. Cha hầu như không dám thừa nhận là muốn tìm thấy thi hài của mẹ còn vì một mục đích khác nữa: để chắc chắn xem cái chết của mẹ có phải là hoàn toàn tự nhiên, hoặc liệu mẹ có cần cha hoàn thành cái nhiệm vụ cay đắng mà cha đã thực hiện vì thầy Rossi. Tại sao cha không thể tìm được xác Helen chứ? Thỉnh thoảng, nhất là vào buổi sáng, cha cảm thấy mẹ đơn giản chỉ bị té ngã, mẹ không bao giờ chủ ý muốn từ bỏ chúng ta - con và cha. Rồi cha lại tin rằng ở một nơi nào đó trong những cánh rừng, chắc hẳn mẹ cũng đã có được một nấm mồ đơn sơ của một người vô tội, cho dù cha sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Nhưng đến trưa, cha lại nhớ đến tâm trạng kỳ lạ, nỗi buồn rầu thất vọng của mẹ.
“Cha biết rằng mình sẽ khổ đau trong suốt phần đời còn lại, nhưng việc đến thi hài của mẹ cha cũng không tìm thấy đã dằn vặt cha ghê gớm. Ông bác sĩ ở địa phương đã cho cha một liều thuốc an thần, cha uống vào mỗi đêm để có thể chợp mắt và để phục hồi đủ sức lực tiếp tục lùng sục các khu rừng vào ngày hôm sau. Khi đám cảnh sát trở nên bận rộn với những chuyện khác, cha vẫn tiếp tục sục sạo một mình. Thỉnh thoảng cha lôi từ trong bụi cây ra những phần khác của khu di tích: những mẩu đá, các ống khói vỡ vụn, và một lần cha đã tìm thấy một phần của đầu máng xối có hình đầu người đã vỡ nát - liệu Helen có rơi xa thế này chăng? Hiện vẫn còn một vài đầu máng xối như vậy trên các bức tường tu viện.
“Sau cùng, ông bà nội con đã thuyết phục cha không nên cứ lùng sục mãi như vậy, rằng cha nên mang con trở về New York một thời gian, rằng bất cứ lúc nào cha cũng có thể quay trở lại để tìm kiếm. Qua mạng lưới của cảnh sát Pháp, cảnh sát toàn châu Âu đã được báo vụ việc; nếu Helen còn sống - ông bà nội con nói bằng giọng nhẹ nhàng - thì sẽ có người tìm thấy. Cuối cùng, cha đành nhượng bộ không phải chỉ vì những lời trấn an kia mà vì chính những khu rừng, những vách đá dựng đứng nhìn muốn chóng mặt, vì đám cây cối bụi rậm dày đặc, quần áo và cả áo khoác của cha rách tả tơi khi luồn lách giữa chúng, những thân cây to kinh khủng và cao ngút trời, bầu không gian im lặng nặng nề như phủ chụp toàn thân mỗi khi cha dừng lại, mò mẫm, hoặc đứng bất động chỉ trong vài phút.
“Trước khi rời khỏi nơi đó, cha đã xin ông tu viện trưởng cầu kinh ban phước lành cho Helen ở ngay rìa cuối dãy hành lang, nơi Helen đã nhảy xuống. Ông đã tổ chức một buổi lễ, tụ tập các tu sĩ xung quanh mình, đưa cao lên giữa trời hết thứ thánh vật này đến thánh vật khác - dù thực sự chúng có là gì thì cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với cha - và cầu nguyện, hướng lên một khoảng mênh mông mà ngay lập tức đã nuốt chửng tiếng ông. Ông bà nội cùng đứng với cha, bà nội đưa tay chùi vội lên mắt, con ngọ nguậy trong tay cha. Cha ôm chặt lấy con, trong những tuần lễ đó cha hầu như đã quên bẵng mái tóc của con mềm mại ra sao, đôi chân con khi không vừa ý thì quẫy đạp thế nào. Quan trọng hơn cả, con vẫn còn sống, con vẫn đang phả hơi thở vào cằm cha, đôi tay vẫn đang bám quanh cổ cha, vừa tin cậy vừa trìu mến. Khi cha bất chợt bật lên một tiếng nức nở, con đã chụp vào tóc cha, kéo tai cha. Bồng con trong tay, cha thầm nguyện sẽ cố phục hồi phần nào cuộc sống, một cuộc sống theo nghĩa nào đó.”