Barley và tôi ngồi nhìn nhau, trước mớ bưu thiếp của mẹ tôi. Giống như những lá thư của cha, chúng quá ít thông tin để tôi có thể hiểu nhiều hơn về tình hình hiện tại. Điều chính yếu, cái điều như đang cháy bỏng sôi sục trong đầu tôi chính là ngày tháng ghi trên các tấm bưu thiếp. Mẹ tôi đã viết chúng sau ngày bà mất.
“Cha em đã đến tu viện đó,” tôi buột miệng.
“Đúng vậy,” Barley đáp. Tôi gom các tấm thiệp lại đặt lên mặt đá cẩm thạch của chiếc bàn phấn.
“Đi nào,” tôi nói, lục trong xắc tay của mình lấy ra con dao bạc nhỏ vẫn nằm nguyên trong vỏ bao và thận trọng đút vào túi áo.
Barley chồm tới, hôn lên má tôi. Nụ hôn làm tôi ngạc nhiên. “Đi nào,” anh nói.
Con đường dẫn đến tu viện Thánh Matthieu hóa ra dài hơn so với trí nhớ của tôi, bụi bặm và nóng nực dù đã là cuối buổi chiều. Ở thị trấn Les Bains không có taxi - ít ra là trước mắt không thấy chiếc nào cả - vì vậy chúng tôi đành phải cuốc bộ, sau khi nhanh chóng vượt qua các trang trại, chúng tôi đến một bìa rừng. Từ đó, con đường bắt đầu lên dốc. Bước vào rừng, giữa những gốc ô liu, thông, và những thân sồi cao vút, không khác gì bước vào một thánh đường; chúng tôi trầm giọng xuống giữa cái không gian lờ mờ và mát lạnh đó, mặc dù cũng chẳng nói gì nhiều. Giữa lúc đang lo lắng, tôi vẫn cảm thấy đói, lúc nãy thậm chí chúng tôi còn không kịp chờ món cà phê. Barley bỏ chiếc mũ lưỡi trai xuống lau trán.
“Mẹ không thể sống sót với một cú rơi như vậy,” tôi nói, cảm thấy cổ họng như đang bị bóp nghẹt.
“Đúng vậy.”
“Cha em chưa bao giờ băn khoăn - ít nhất là trong các lá thư của ông - liệu mẹ có bị ai đó đẩy xuống hay không.”
“Đúng vậy thật,” Barley hưởng ứng, đội lại mũ lên đầu.
Tôi im lặng một lát. Chỉ có tiếng bước chân chúng tôi trên nền đá lát gập ghềnh - con đường đến chỗ đó vẫn còn lát đá. Dù tôi không muốn nói ra những điều này nhưng không hiểu sao chúng vẫn tuôn ra: “Giáo sư Rossi viết là hành động tự tử đưa con người vào nguy cơ có thể trở thành... trở thành...”
“Anh nhớ điều đó,” Barley đáp đơn giản. Tôi ước gì mình đã không nói ra câu này. Con đường bây giờ quành lên cao hơn. “Có thể có ai đó sẽ lên đây bằng xe,” Barley nói thêm.
Nhưng chẳng có chiếc xe nào xuất hiện và chúng tôi càng lúc càng đi nhanh hơn, vì vậy sau một lúc thay vì trò chuyện cả hai đều hổn hển. Khi ra khỏi cánh rừng, ở khúc quanh sau cùng, những bức tường quanh tu viện làm tôi thoáng ngạc nhiên; tôi không nhớ khúc quanh đó, hoặc khoảng trời đột ngột mở ra trên đỉnh núi, buổi chiều mênh mông bao quanh chúng tôi. Tôi chỉ nhớ khoảnh đất bằng phẳng bên dưới cổng trước, hôm nay không có chiếc xe nào đậu ở đó. Khách du lịch đâu hết rồi nhỉ? Tôi thầm hỏi. Một lát sau, chúng tôi đã đến gần hơn để đọc được tấm bảng: sửa chữa, tháng này không tiếp khách. Nhưng thế cũng không đủ làm cho bước chân chúng tôi chậm lại. “Đi tiếp nào,” Barley thốt lên, rồi cầm lấy tay tôi, tôi cảm thấy nhẹ lòng, vì tay tôi đã bắt đầu run lên.
Hiện tại, những bức tường phía trước xung quanh cổng đầy những giàn giáo. Một máy trộn xi măng di động đứng chắn trên lối đi - xi măng ư? ở nơi chốn này? Chúng tôi rụt rè đưa tay kéo chiếc chuông sắt khi nhận ra các cánh cửa dưới cổng đóng kín nhưng không khóa. Tôi chẳng thích đột nhập vào chút nào, chẳng thích cái thực tế không thấy có dấu vết gì của cha mình. Có thể cha vẫn còn dưới thị trấn Les Bains hoặc một nơi nào khác. Có thể nào cha đang sục sạo dưới chân vách đá kia như đã từng sục sạo những năm trước đây, hàng trăm thước sâu tít phía dưới kia, khuất tầm mắt chúng tôi? Tôi bắt đầu thấy hối tiếc vì đã đi thẳng đến tu viện trong lúc bốc đồng. Hơn nữa, dù có lẽ phải một giờ nữa mới đến hoàng hôn, mặt trời vẫn nhanh chóng chìm dần ở phía Tây dãy Pyrénées, trông thấy rõ đang khuất dần sau những đỉnh núi cao nhất. Cánh rừng mà chúng tôi vừa ra khỏi đã chìm trong bóng tối ảm đạm, và chẳng bao lâu những tia nắng đỏ cuối cùng của ban ngày cũng biến mất trên những bức tường tu viện.
Chúng tôi bước vào bên trong, thận trọng, rồi đi ngược lên khoảnh sân trong và khu hành lang. Đài phun nước bằng cẩm thạch đỏ róc rách chảy ở giữa sân. Tôi nhớ có những cột hình xoắn ốc xinh xắn, khu hành lang dài hun hút, một vườn hồng ở cuối sân. Ánh nắng chiều vàng cũng không còn nữa, thay vào đó là những hình bóng nhờ nhờ tối. Không thấy người nào cả. “Anh có nghĩ chúng ta nên quay trở lại Les Bains?” tôi thì thầm vào tai Barley.
Khi Barley có vẻ như sắp trả lời thì chúng tôi chợt nghe một âm thanh - tiếng cầu kinh, vọng ra từ nhà thờ bên kia dãy hành lang. Các cánh cửa đều đóng kín nhưng chúng tôi có thể nghe rõ ràng buổi lễ đang diễn ra bên trong, với những khoảng lặng nửa chừng. “Tất cả mọi người đang ở trong đó,” Barley thốt lên. “Có thể cha em cũng ở trong đó.”
Nhưng tôi không tin. “Nếu có ở đây, hẳn ông ấy cũng đã đi xuống rồi...” Tôi dừng lại và quan sát quanh sân. Đã gần hai năm từ lần tôi cùng cha tới thăm viếng nơi này nên trong chốc lát tôi chưa thể nhớ ra lối vào khu hầm mộ ở đâu. Đột nhiên, tôi nhận ra lối cửa vào, dường như nó đã mở sẵn gần bức tường khu hành lang mà tôi không chú ý. Bây giờ tôi đã nhớ ra những con thú kỳ lạ được tạc thẳng vào đá quanh lối cửa vào đó: sư tử và điểu sư, rồng và chim, những con thú quái dị mà tôi không nhận dạng được, những đứa con lai giữa thiện và ác.
Barley và tôi nhìn về phía nhà thờ, các cánh cửa vẫn đóng chặt im lìm, chúng tôi rón rén bước ngang qua khoảng sân tiến về lối cửa vào khu hầm mộ. Đứng lặng ở đó một lát, dưới ánh mắt trừng trừng của những con thú đã hóa đá kia, tôi chỉ nhìn thấy trong đó cái bóng tối mà chúng tôi sẽ bước vào, tôi cảm thấy tim mình như chùng xuống. Rồi tôi chợt nhớ lại là cha mình có thể ở dưới đó - thực ra là có thể đang lâm vào một rắc rối kinh khủng nào đó. Và Barley vẫn đang nắm lấy tay tôi, cao lớn, lặng thinh và đầy tự tin bên tôi. Tôi gần như mong anh sẽ lên tiếng càu nhàu về những điều kỳ quái mà gia đình tôi tự lao vào, nhưng anh vẫn nghiêm nghị bên cạnh tôi, cũng như tôi, ở tư thế sẵn sàng cho bất kỳ chuyện gì. “Bọn mình không có đèn,’ anh thì thầm.
“Mình có thể vào nhà thờ xin một cây,” tôi nêu ý kiến hơi thừa.
“Anh có bật lửa đây.” Barley lấy bật lửa ra khỏi túi. Tôi không biết anh hút thuốc. Anh bật quẹt lên, soi trên các bậc thang, chúng tôi cùng nhau bước xuống, vào trong bóng tối.
Thoạt tiên, quả đúng là tối om om, chúng tôi cảm thấy những bậc cấp cổ xưa dưới chân mình rất dốc, và sau đó tôi nhìn thấy ánh sáng lập lòe đầu kia mái vòm sâu thẳm - không phải bật lửa của Barley, vài giây anh mới bật lửa một lần - tôi sợ chết khiếp. Không hiểu vì sao, cái thứ ánh sáng mờ mờ ảo ảo kia có vẻ như còn tồi tệ hơn cả bóng tối. Barley nắm chặt tay tôi đến độ tôi cảm thấy như tay mình không còn cảm giác. Phần cầu thang ở dưới cùng uốn cong và khi đến đoạn quanh cuối cùng tôi mới chợt nhớ đến điều cha nói, rằng chỗ này có thể là gian giữa của nhà thờ trước đây. Ở đây có cỗ quan tài đá khổng lồ của cha tu viện trưởng, cây thánh giá mờ mờ chạm khắc ở gian hậu cung cổ kính, mái trần hình vòm thấp lè tè trên đầu chúng tôi, một trong những công trình kiến trúc cổ xưa nhất theo phong cách Roman còn tồn tại ở châu Âu.
Tuy nhiên, tôi chỉ nhớ thoáng qua điều đó, bởi ngay sau đó một cái bóng ở bên kia cỗ quan tài đá liền tách mình ra khỏi một cái bóng đen hơn và đứng thẳng dậy: một người đang cầm ngọn đèn lồng. Đó là cha. Gương mặt cha trông tiều tụy dưới ánh đèn chập chờn. Tôi nghĩ, cha cũng nhận ra chúng tôi ngay khi chúng tôi nhìn thấy ông và thốt lên “Chúa ơi!” Chúng tôi nhìn nhau sửng sốt. “Con làm gì ở đây?” cha trầm giọng, hỏi, nhìn từ tôi đến Barley, đưa cao ngọn đèn lồng trước mặt chúng tôi. Giọng cha dữ dội - đầy giận dữ, sợ hãi, yêu thương. Tôi bỏ tay Barley ra chạy đến bên cha, vòng qua cỗ quan tài. Cha ôm tôi trong vòng tay. “Lạy Chúa Jesus,” cha nói, vuốt ve mái tóc tôi một lát. “Con không nên đến nơi này chút nào.”
“Con đã đọc chương cuối cùng ở trung tâm lưu trữ tại Oxford,’ tôi thì thầm. “Con sợ rằng cha đã...” Tôi không thể nói hết câu. Giờ khi chúng tôi đã tìm thấy cha, và cha vẫn còn sống, trông vẫn là cha, tôi lại run lên.
“Con phải ra khỏi đây ngay,” cha nói, nhưng rồi lại kéo tôi sát hơn. “Không, trễ quá rồi - cha không muốn các con ra ngoài đó một mình. Chúng ta chỉ còn vài phút trước khi mặt trời lặn. Đây,” - cha dúi cây đèn vào tay tôi - “con cầm lấy, còn cháu” - cha hướng về Barley - giúp ta đẩy cái nắp hòm này.” Barley bước đến ngay, mặc dù tôi nghĩ mình nhìn thấy đầu gối anh run run, và giúp cha tôi chầm chậm đẩy trượt nắp cỗ quan tài ra. Tôi đã nhìn thấy cha dựng một cây cọc dài vào vách tường gần đó. Chắc hẳn cha đã chuẩn bị cho việc nhìn thấy trong cỗ quan tài đá kia một con quỷ mà cha đã bỏ công tìm kiếm từ lâu, chứ không phải cho thứ mà cha thực sự nhìn thấy. Tôi nâng cao ngọn đèn cho cha, nửa muốn nửa không muốn nhìn, nhưng rồi tất cả chúng tôi đều nhìn trừng trừng xuống cái khoảng không trống rỗng kia: chỉ có bụi bặm. “Ôi trời,” cha thốt lên. Đó là một tiếng than mà từ trước đến nay tôi chưa từng bao giờ nghe trong giọng nói của cha, một âm thanh thất vọng não nề, tôi nhớ cha đã nhìn vào chỗ trống đó một lần nữa. Cha loạng choạng về phía trước, tôi nghe tiếng cây cọc rơi loảng xoảng trên nền đá. Tôi nghĩ cha sắp khóc, hoặc vò đầu bứt tai, cúi xuống cái hầm mộ trống rỗng kia, nhưng cha chỉ đứng bất động, mặt hằn lên nét khổ đau. “Trời ơi,” cha lại rền rĩ, gần như thì thào. “Ta cứ tưởng ta đã tìm ra đúng chỗ, đúng thời điểm, vậy mà rốt cuộc thì... cha cứ tưởng...”
Cha không nói hết câu vì lúc đó bỗng có tiếng bước chân trong bóng tối vang lên từ gian ngang cổ kính bên cạnh, nơi ánh đèn không thể chiếu đến, một hình bóng hoàn toàn khác hẳn với bất cứ những gì mà bất kỳ ai trong chúng tôi đã từng trông thấy. Một bộ dạng quá đỗi kỳ quái đến độ tôi không thể hét lên cho dù cổ họng không hề nghẹn lại ngay tức khắc. Ngọn đèn lồng trong tay tôi chỉ soi được bàn chân, cẳng chân, một cánh tay và bờ vai chứ không chiếu đến được gương mặt hắn, tôi quá khiếp đảm đến độ không thể đưa ngọn đèn lồng cao hơn. Tôi nhích sát gần cha hơn và Barley cũng vậy, như vậy không ít thì nhiều tất cả chúng tôi cũng đứng sau một rào chắn là cỗ quan tài đá trống rỗng đó.
Hình bóng kia lướt đến gần hơn một chút rồi dừng lại, khuôn mặt vẫn chìm trong bóng tối. Lúc đó, tôi đã có thể nhận ra nó có hình dáng của một người đàn ông nhưng là một kẻ không di chuyển giống như con người. Hai bàn chân giấu kín trong đôi ủng đen chật cứng hoàn toàn chẳng giống bất cứ đôi ủng nào tôi từng nhìn thấy, chúng chỉ vang lên âm thanh đùng đục trên nền đá khi hắn bước tới. Phủ xuống toàn thân hắn là một áo choàng không tay, hoặc có lẽ chỉ là một hình bóng lớn hơn, và đôi chân mạnh mẽ của hắn bọc kín trong hai ống quần nhung đen. Hắn không cao bằng cha, nhưng đôi bờ vai dưới lớp áo choàng nặng nề lại rất rộng và có điểm gì đó trong cái hình dáng lờ mờ kia tạo ấn tượng như hắn cao to hơn. Chắc hẳn chiếc áo choàng có mũ trùm bởi khuôn mặt hắn vẫn chìm hoàn toàn trong bóng tối. Sau những giây phút kinh hãi lúc đầu, giờ tôi đã có thể thấy tay hắn, trắng bệch như xương và nổi bật trên nền quần áo màu sậm, trên một ngón tay là chiếc nhẫn gắn đá quý.
Hắn hiện diện quá thực, quá gần gũi bên chúng tôi đến độ tôi gần như không thở nổi; nhưng rồi tôi bắt đầu cảm thấy nếu buộc được mình đến gần hắn hơn thì tôi có thể thở lại được, và rồi tôi bắt đầu nôn nóng muốn đến gần hơn một chút. Tôi có thể cảm nhận lưỡi dao bạc trong túi áo mình, nhưng tôi sợ không dám chạm đến nó. Một cái gì đó lấp lánh ở nơi chắc hẳn là khuôn mặt hắn - đôi mắt đỏ ngầu? hàm răng, hắn cười chăng? - và rồi hắn thốt lên, phun ra một tràng tiếng nói. Tôi gọi đó là một tràng bởi chưa bao giờ nghe một âm thanh nào như vậy, một dòng tuôn trào từ yết hầu những từ ngữ rất giống như lấy từ nhiều ngôn ngữ khác nhau gộp lại hoặc là từ một thứ ngôn ngữ lạ lẫm nào đó mà tôi chưa bao giờ nghe. Một lúc sau, dòng âm thanh đó tựa như tự phân giải thành những từ tôi có thể hiểu được, và tôi có cảm giác đó là những lời mà tôi đã biết từ trong máu thịt chứ không phải từ đôi tai mình.
Xin chào. Ta chào mừng các ngươi.
Nghe thấy thế, cha như tỉnh lại. Tôi không biết cha tìm đâu ra sức lực để nói. “Cô ấy ở đâu?” cha hét lên. Giọng run run vừa giận dữ vừa sợ hãi.
Ngươi đúng là một học giả đáng nể đấy.
Tôi không hiểu gì cả, nhưng ngay khoảnh khắc đó thân thể tôi muốn tự động di chuyển về phía hắn. Gần như đồng thời ngay lúc đó cha đưa tay ra chộp chặt cánh tay tôi, ngọn đèn lồng chao đảo, những hình bóng khủng khiếp và ánh sáng đèn như nhảy múa quanh chúng tôi. Trong giây phút chớp chớp lòa lòa đó, tôi nhận ra một nét gì đó trên khuôn mặt Dracula, chỉ là hàng râu mép đen cong quặp xuống, một gò má có thể thực sự chỉ còn toàn xương.
Ngươi đúng là kẻ quyết tâm cao nhất so với tất cả. Hãy đến với ta, ta sẽ trao cho ngươi kiến thức của cả vạn đời người.
Tôi không biết, vẫn không biết, làm sao tôi có thể hiểu được hắn, nhưng tôi nghĩ hắn đang mời gọi cha. “Không!” tôi thét lên. Trong khoảnh khắc, tôi quá khiếp đảm trước việc mình vừa thực sự mở miệng nói với cái dáng người kia đến mức đầu óc quay cuồng như không còn ý thức. Tôi có cảm giác hắn đang mỉm cười, dù khuôn mặt hắn đã lại chìm vào bóng tối.
Hãy đến với ta, hoặc để con gái của ngươi đến.
“Cái gì?” cha hỏi tôi, giọng gần như không thể nghe được. Đến lúc đó tôi biết là cha không thể hiểu được tiếng nói của Dracula, và thậm chí có lẽ cũng chẳng nghe được hắn. Cha chỉ hỏi vì tiếng hét của tôi.
Hình dáng kia như im lặng suy nghĩ một lúc. Hắn ngọ nguậy đôi ủng kỳ lạ trên nền đá. Trong hình dạng dưới những thứ trang phục cổ xưa có cái gì đó không chỉ là gớm ghiếc mà còn thanh nhã, một kẻ vốn đã quen với quyền lực.
Ta đã chờ đợi quá lâu một học giả tài ba như ngươi.
Giọng nói đó vẫn nhẹ nhàng nhưng đầy vẻ hăm dọa. Chúng tôi đứng như bị chìm ngập trong một thứ bóng tối phát xuất từ cái hình dáng đen kịt kia.
Hãy tự nguyện đến với ta.
Lúc đó, cha có vẻ như khẽ chồm về phía hắn, vẫn nắm chặt cánh tay tôi. Có vẻ như cha cảm nhận được những gì mình không thể nghe thấy. Dracula co vai, chuyển sức nặng kinh khủng qua bên chân kia. Bóng dáng thân hình hắn giống như sự hiện diện thực sự của thần chết, vậy mà hắn vẫn sống và đang di chuyển.
Đừng để ta chờ đợi. Nếu ngươi không đến, ta sẽ tìm đến ngươi.
Lúc đó, có vẻ như cha gom hết tất cả sức lực của mình. “Cô ấy ở đâu?” cha thét lên. “Helen đâu?”
Dáng người kia bật lên, và tôi nhìn thấy răng, xương, mắt hắn ánh lóe lên giận dữ, bóng tối từ chiếc mũ trùm lại đong đưa trên mặt hắn, trong cái bàn tay không phải của con người đang nắm chặt lại trong vùng rìa ánh sáng đèn. Ngay cả trước khi hắn chuyển động, tôi đã có cảm giác khủng khiếp rằng hắn như một con thú đang thu mình để chuẩn bị ra đòn, chồm tới chúng tôi, rồi bỗng có tiếng bước chân trên cầu thang tối mờ mờ phía sau hắn và một ánh chớp do sự chuyển động mà chúng tôi chỉ cảm nhận trong bầu không khí vì không thể nhìn thấy. Tôi đưa cao ngọn đèn lồng với một tiếng thét nghe như thể vọng đến từ đâu đó bên ngoài tôi: tôi đã nhìn thấy khuôn mặt Dracula - một gương mặt không bao giờ có thể quên được - và rồi, kinh ngạc tột độ, tôi nhìn thấy một dáng người khác, đứng ngay sau lưng hắn. Người thứ hai này dường như vừa đi xuống cầu thang, một hình dáng đen và lờ mờ như hắn, nhưng vạm vỡ hơn, mang vóc dáng của một người sống. Người đó di chuyển rất nhanh, cầm một vật gì đó sáng lóe trong bàn tay đang giương lên. Nhưng Dracula đã cảm nhận được sự hiện diện của người đó, hắn xoay người vung tay xô bật người kia văng ra. Sức mạnh của Dracula chắc hẳn vô cùng kinh khủng, bởi bóng dáng mạnh mẽ của con người kia đã lập tức văng mạnh vào vách tường hầm mộ. Chúng ta nghe một tiếng uỵch câm lặng và rồi là một tiếng rên. Dracula quay lại, trong một vẻ điên cuồng khủng khiếp, trước tiên là về phía chúng tôi và sau đó là về con người kia, giờ đang rên rỉ.
Đột nhiên lại có tiếng bước chân trên cầu thang, lần này là những bước chân nhẹ nhàng, đi cùng là một chùm ánh sáng của ngọn đèn pin cực mạnh. Dracula bị mất thăng bằng, hắn xoay người quá trễ, một hình ảnh lờ mờ đen kịt. Người đó giương đèn chớp nhoáng quan sát hiện trường, rồi nâng súng bắn ngay.
Dracula không di chuyển giống như tôi đã nghĩ một lát trước đây: lao đến phía trên cỗ quan tài đá về hướng chúng tôi. Thay vì vậy hắn ngã xuống, trước tiên là ngã vật về phía sau, vì vậy khuôn mặt tái nhợt như tượng của hắn lại một lần nữa bị phơi bày dù chỉ trong khoảnh khắc, và sau đó là gục về phía trước, về phía trước, cho đến lúc có một tiếng thịch trên nền đá, một âm thanh khô khốc như tiếng xương gãy nát. Hắn nằm đó, co giật một lát và sau cùng bất động hẳn. Rồi thân xác hắn dường như biến thành tro bụi, không còn gì cả, thậm chí những trang phục cổ xưa kia cũng đang mục rã chung quanh hắn, tan biến trong ánh sáng chập chờn.
Cha buông tay tôi ra, chạy về hướng chùm ánh sáng đèn, vòng qua cái đống trên sàn. “Helen,” cha kêu lên - cũng có thể đó là tiếng khóc, hoặc tiếng thì thầm.
Rồi Barley cũng lao đến, chộp lấy ngọn đèn lồng của cha. Một người đàn ông to lớn nằm sóng soài trên nền đá, lưỡi dao găm bên cạnh. “Ôi, Elsie,” một giọng tiếng Anh run rẩy thốt lên. Đầu ông ta rỉ một ít máu đen bầm, và ngay cả khi tất cả chúng tôi đang kinh hoàng sững sờ nhìn vào, đôi mắt ông ta vẫn bất động.
Barley vật mình xuống đất bên cạnh hình dáng tả tơi kia. Có vẻ như anh đang bị sự ngạc nhiên lẫn nỗi khổ đau bóp nghẹt. “Thầy James phải không?”