Tứ Mạc Hí

Chương 74: Chương 74: Chương 29




Mấy ngày cuối cùng ở bệnh viện, phần lớn thời gian tôi đều ở trong phòng bệnh của Duran.

Duran là cao thủ cờ vua, tinh thần tốt thì sẽ cùng tôi hoặc Đồng Đồng chơi cờ, nếu tinh thần không tốt lắm thì chúng tôi lại luân phiên nhau kể những câu chuyện trinh thám cho ông ấy nghe, đôi khi Hứa Thư Nhiên cũng sẽ gia nhập. Có một buổi chiều sẩm tối tôi và Hứa Thư Nhiên sóng vai cùng nhau trở về phòng bệnh, đến nửa đường đột nhiên anh ta hỏi tôi: “Bệnh tình hiện tại của Jacob......” Anh ta lựa chọn từ ngữ một hồi lâu: “Cô cho rằng bác sĩ đã cung cấp phương pháp trị liệu tốt nhất cho ông ấy hay chưa?”

Tôi trầm mặc, sau đó trả lời anh ta: “Là tự ông ấy cự tuyệt.”

Hứa Thư Nhiên giật mình: “Vì sao?”

Tôi trả lời: “Ông ấy chắc chắn là không có cách nào chữa khỏi, không muốn chỉ vì một khả năng quá nhỏ mà cố gắng kéo dài sinh mạng, để cho bản thân không còn một chút hình tượng cắm đầy ống dây các loại trên người mà rời khỏi nhân thế.”

Hứa Thư Nhiên im lặng hai giây, nói: “Vạn nhất phát sinh kỳ tích thì sao. Người thiên tài như ông ấy, cả một đời huy hoàng, sáng tạo ra bao nhiêu kỳ tích cho lĩnh vực nhiếp ảnh.” Sau đó quay đầu nhìn tôi: “Ông ấy không tin bản thân có thể tạo ra kỳ tích cho sinh mệnh của chính mình sao?”

Tôi biết Hứa Thư Nhiên rất sùng bái Duran, anh ta kỳ thực vẫn không thể tiếp thu được hiện thực rằng một nhiếp ảnh gia vang danh thế giới lại khô héo khiến người ta không nỡ nhìn cứ như vậy sắp ra đi.

Tôi cười khổ: “Chuyện đó tôi không có cách nào khuyên ông ấy, đây là lựa chọn của ông ấy.

Hứa Thư Nhiên thở dài.

Sau khi xuất viện tôi và Đồng Đồng vẫn ở lại gần đó, mỗi ngày đến bệnh viện thăm Duran, Hứa Thư Nhiên đột nhiên biến mất rồi hai ngày sau lại xuất hiện, cũng gia nhập vào đoàn người đi thăm bệnh. Bố mẹ Duran mất sớm, ông ấy lại chưa kết hôn nên không có con cái, họ hàng huyết thống gần chỉ còn lại anh trai và chị dâu, nhưng có vẻ như quan hệ của họ cũng không tốt lắm, ở bệnh viện lâu như vậy mà từ đầu đến cuối đều không gặp anh trai và chị dâu ông ấy đến thăm. Vừa rồi ông ấy sốt cao hôn mê, sau khi tỉnh lại bác sĩ điều trị chính đến nói chuyện với ông ấy rất lâu, ngày hôm sau thì thấy bác sĩ tư của ông ấy dẫn theo một đoàn người từ Pháp vội vã bay tới.

Lúc chúng tôi đến gần phòng bệnh thì bị hai người mặc vest đen ngăn cản, đúng lúc có một người đàn ông trung niên từ trong phòng bệnh đi ra, có lẽ là luật sư của Duran. Cửa phòng một lần nữa mở ra, người thư ký mái tóc đã điểm bạc đi ra đưa tôi vào trong, lại quay sang tiếp tục nói chuyện với Duran. Bọn họ không hề kiêng kị tôi, đề tài nói chuyện đều là sắp xếp cho buổi tang lễ.

Vẻ mặt người thư ký phi thường nặng nề, trong lúc nói chuyện còn có mấy lần không nhịn được nghẹn ngào. Duran nửa ngồi nửa dựa vào đầu giường, biểu hiện lại vô cùng thanh nhàn. Chung quy là không hề sợ hãi cái chết đang đến gần.

(*)

Một ngày, Đồng Đồng đột nhiên mang theo vẻ mặt khó lường đến tìm tôi, điện thoại nắm chặt trong tay, môi đã bị cắn đến mức để lại dấu răng mà không hề biết. Lúc đi đến phòng bệnh tôi thường không mang theo túi xách hay điện thoại gì, hiện tại điện thoại trong tay Đồng Đồng chính là của tôi.

Giọng cô ấy cứng ngắc: “Trợ lý Chử nói đơn ly hôn đã hoàn thành, được gửi đến hòm thư, nói chị nhìn qua một lượt xem có cần phải chỉnh sửa gì hay không.”

Tôi nói: “À, chuyện này.”

Cô ấy lại nói tiếp: “Nghe nói Nhiếp thiếu đã trở về.” Sau đó ngẩng đầu nhìn tôi: “Đã về được mấy ngày rồi.”

Tôi nghẹn ứ một hồi lâu, cuối cùng cũng chỉ thốt ra được một tiếng: “À.”

Mắt cô ấy lập tức đỏ lên: “Không phải là anh ấy còn chưa gọi điện thoại cho chị đó chứ?”

Tôi nói: “Cũng không có cái đạo lý nào bắt anh ấy nhất định phải gọi cho chị nha.”

Đồng Đồng nghiến răng nói từng chữ: “Chị mang thai con của anh ấy, bị sảy thai, suýt chút nữa còn mất luôn mạng, anh ấy nhất định sẽ phải hối hận.”

Tôi nói: “Cũng không có nguy hiểm đến vậy, với lại anh ấy cũng đâu có biết.”

Đồng Đồng ngừng một lúc, rốt cuộc nói: “Em chưa từng hỏi chị, nhưng mà chị Phi Phi, rốt cuộc là vì sao chị không nói cho Nhiếp Diệc biết chứ? Anh ấy cần phải biết.”

Tôi nói: “Anh ấy là một người rất có trách nhiệm, nếu như nói cho anh ấy biết nhất định cuộc hôn nhân này sẽ không ngừng lại, nhất định chịu trách nhiệm với chị đến cùng.”

Đồng Đồng mở to hai mắt: “Đây không phải là rất tốt sao? Cho nên mới nói không phải càng nên......”

Tôi nói: “Nói như vậy chính là cuối cùng đều không có ai được hạnh phúc.”

Cô ấy không hiểu lắm: “Nhưng chị Phi Phi, bây giờ chị cũng đâu có hạnh phúc, khiến cho anh ấy cũng không được vui vẻ, như vậy không phải rất công bằng sao?”

Thời điểm tâm tình của tôi còn rất kích động đầu óc không thể nghĩ được nhiều, động một chút là khóc, tôi cũng đã từng nghĩ đến vấn đề này. Nói cho Nhiếp Diệc rồi sao nữa? Sau đó ép hắn cả đời ở bên tôi? Hắn nhất định sẽ đáp ứng. Nhưng đây không phải là một cách hay, hạnh phúc nếu cưỡng cầu sẽ chẳng một ai có được, chúng tôi hành hạ lẫn nhau chỉ càng thêm thống khổ, cuối cùng vĩnh viễn không thể giải thoát.

Tôi thở dài, vỗ lên bả vai Đồng Đồng làm công tác tư tưởng cho cô ấy: “Chị không muốn cả đời sống không được vui vẻ.”

Người hiểu biết sẽ biết làm thế nào để từ trong quá khứ đi ra, sau đó mới có thể gặp được một tương lai mới.

Buổi chiều hôm đó, Duran đột nhiên ngồi tán gẫu với tôi về Evans.

Evans từng kể với tôi lần đầu tiên gặp Duran là lúc ông ấy mười tám tuổi, bọn họ học cùng nhau trong một trường đại học, ông ấy học khoa nhiếp ảnh, mà Duran thì đang vô cùng chăm chỉ làm nghiên cứu sinh ở khoa thiên văn học. Gặp nhau là lúc hai người cùng gia nhập một câu lạc bộ. Nhưng câu lạc bộ này không hiểu sao, dù không liên quan gì đến thiên văn hay nhiếp ảnh, mà là chuyên quan sát lai giống thực vật, hơn nữa lịch sử ngắn ngủi, có người nói Evans gia nhập lúc câu lạc bộ này mới thành lập được hai năm, ngoài ra bình thường cũng không có hoạt động gì, căn bản không biết mọi người gia nhập rốt cuộc là làm cái gì. Nhưng hàng năm sinh viên của trường đều tranh nhau đến sứt đầu mẻ trán, lý do cũng chỉ vì câu lạc bộ này lấy khu biệt thự độc lập lớn nhất của trường học làm nơi hoạt động, có thể cung cấp một địa điểm cho việc sáng tạo không mất phí.

Nghe nói mấy người trong ban điều hành đều có một phòng riêng trên tầng cao nhất, khi đó Duran ở một mình trong một căn phòng ở đó.

Evans từng nói ông ấy gia nhập câu lạc bộ này nửa năm sau mới phát hiện ra không hiểu vì sao câu lạc bộ lại có thể chiêu mộ được Duran. Khi đó Duran 21 tuổi, trong giới nhiếp ảnh danh tiếng đã rất vang dội, tuổi trẻ anh tuấn lại tài hoa hơn người, nên khi nghe đến tên ông ấy còn có cảm giác ông ấy là một người cao ngạo khó tiếp cận. Mặc dù Evans trong câu lạc bộ có quan hệ rất tốt với mọi người, như cá gặp nước, cũng không tìm được ai có thể mang theo ông đến giới thiệu cho Duran. Nhưng vì quá muốn kết bạn với vị tuổi trẻ thiên tài này nên cuối năm đó, tại một tiệc đứng trong ngày lễ Noel, mượn rượu lấy bạo gan mò lên trên tầng bốn gõ cửa phòng Duran. Nhưng ngay sau khi gõ cửa xong lại nghĩ muốn bỏ chạy, tiếc là vừa nhích được nửa bước thì Duran đã mở cửa, mặc quần áo ngủ đứng cạnh cửa có chút nghi hoặc nhìn ông. Phía sau ông ấy là một không gian rất rộng, đầu cuối bên kia còn có một cánh cửa to sát đất, ngoài cửa sổ tuyết đang rơi.

“Cậu ấy uống say.” Duran vừa hồi tưởng lại vừa kể cho tôi nghe: “Lỡ tay gõ cửa tôi, lúc tôi mở cửa thì đứng đó nhìn chằm chằm tôi một hồi lâu, sau đó hỏi tôi là ai, hỏi vì sao tôi lại ở trong phòng cậu ấy? Không chờ tôi trả lời liền trực tiếp đi đến, dù đã say đến mức bước đi ngả nghiêng nhưng lại giống như rất quen thuộc phòng tôi tự mình đi rót nước, dựa vào tường uống xong thì ngồi lên giường của tôi.”

Toàn bộ câu chuyện này tôi đều đã được Evans kể qua, thật sự là một đoạn ký ức thú vị. Lúc này hồi tưởng lại đoạn quá khứ đó lại nhìn Duran rất vui vẻ, khiến cho tôi cũng vui vẻ theo, ôm cốc nước hỏi ông ấy: “Vì sao lúc ấy ngài không đuổi thầy ấy ra ngoài?”

Ông ấy ngược lại vô cùng nghiêm túc suy nghĩ vấn đề này, sau đó nói: “Cô chưa từng nhìn thấy Jacques năm mười tám tuổi.” Trầm ngâm một lúc lại thay đổi đề tài: “Học viện nghệ thuật của bọn họ mỗi học kỳ đề sẽ tổ chức triển lãm các tác phẩm chụp bởi các sinh viên, tôi nhìn thấy tác phẩm của cậu ấy, phi thường rực rỡ đặc sắc. Mà cậu ấy cũng rất thích đi đến mấy buổi tiệc đứng.” Ông ấy dừng một chút: “Khi đó tôi không hay đi đến mấy nơi như vậy, nhưng mỗi lần đi đều có thể thấy được bóng dáng của cậu ấy.” Ông ấy nói: “Cô vẫn biết là tướng mạo của Jacques rất thanh tú.”

Tôi gật đầu.

Ông ấy miêu tả cho tôi nghe: “Khi đó cậu ấy một nửa tóc nuôi dài, mặt mày tinh xảo xinh đẹp, lúc nói chuyện sẽ khiến cho người khác thấy được là một người thanh niên trẻ tuổi nhiệt huyết tràn đầy sức sống, đặc biệt xinh đẹp đến chói mắt.”

Tôi nghĩ nghĩ, nói: “Tôi nghĩ ngài cũng không có nói quá.”

Ông ấy ưu nhã nhíu mày, bên môi mang theo một tia cười cười: “Giờ thì cô có thể hiểu được vì sao tôi không đuổi cậu ấy ra ngoài rồi chứ.”

Ông ấy tiếp tục nói: “Cậu ấy ngồi mép giường, một bộ dạng muốn cùng tôi tán gẫu, nhỏ giọng oán giận những chuyện xui xẻo gần nhất cậu ấy gặp phải. Bởi vì uống say mà nhầm nước súc miệng thành rượu đổ xuống, một hơi uống hết cả bình, sau đó bạn cùng phòng phải vội vội vàng vàng đưa đi viện cấp cứu; còn có thức đêm viết luận văn ngủ quên, sau đó không cẩn thận bị kẹo cao su dính chặt lên tóc mái, vốn định lấy keo cắt bã kẹo cao su cắt đi, tay run đã cắt hỏng cả mái tóc.” Ông ấy dừng một chút, giọng điệu ôn nhu mà hoài niệm: “Cảm giác ấy rất kỳ diệu, hôm ấy là lễ Giáng Sinh, cậu ấy đột nhiên xuất hiện trong phòng tôi muốn tán gẫu, dù tôi không nói lời nào nhưng vẫn có thể một mình luyên thuyên đến hài lòng, giống như chỉ cần tôi đứng đó tức là biểu thị đồng tình rồi. Nhưng mỗi chuyện của cậu ấy thật sự là rất buồn cười, khiến cho người ta nguyện ý ngồi nghe cả đêm không muốn đứng dậy. Sau đó cậu ấy nói mệt, không để ý gì mà ngủ thiếp đi mất.” Nói tới đây có lẽ là hơi mất sức, ông ấy điều chỉnh tư thế nằm một chút, tôi tiến lên trợ giúp, giúp ông ấy kê thêm hai cái gối sau lưng, ông ấy hơi nhắm mắt lại.

Một đoạn này tôi cũng đã nghe Evans kể, ông ấy nói khi đó thật ra là vô cùng tỉnh táo, tính táo đến mức còn có thể phân biệt được loa bluetooth trong phòng đang phát một bài hát tôn giáo. Duran vẫn không nói một lời, giống hệt như trong truyền thuyết cao thâm khó dò, khiến trong lòng ông ấy gấp gáp muốn chết. Ông ấy sợ mình bị đuổi ra ngoài, bởi vậy không thể làm gì hơn là giả bộ nói chuyện, làm bộ chính mình thật sự say đến mức không biết trời trăng gì nữa, nói đến khi không còn gì để nói nữa liền nằm ở giường giả bộ ngủ thiếp đi, mà không nghĩ tới giả bộ một chút như vậy cuối cùng lại thành ngủ thiếp đi thật.

Sau lần gặp phải Duran đó, ông cũng không cần phải đứng trong góc âm thầm lo lắng không có ai có thể giúp ông dẫn đến giới thiệu nữa. Mỗi lần gặp đều có thể rất tự nhiên mà chào hỏi, sau đó tán gẫu linh tinh.

Sau đó bọn họ dần dần xây dựng lên một tình bạn.

Evans nói với tôi những lời này là bởi vì khi ấy tôi hiếu kỳ tính cách quái gở của Duran như vậy, làm thế nào mà ông có thể trở thành bạn của Duran được. Lúc đem đoạn ký ức này kể ra đã có Chu Bái ở cùng, nhưng ông cũng hoàn toàn không kiêng dè gì cả mà còn nói đùa Duran là người duy nhất trên đời này ông phải dùng trăm phương ngàn kế theo đuổi, bởi vậy ông không chỉ là bạn của Duran, mà còn là bạn tốt nhất của Duran, không có một trong. Khi đó sắc mặt Chu Bái trở nên trắng bệch, nhỏ giọng hỏi tôi Duran là ai. Nhưng chúng tôi không để ý đến lắm, Evans thì ngồi tựa trong ghế cười: “Đúng thật, cậu ta ấy à, không thể coi là con người được nữa, cả đời chỉ thích Muse, coi nhiếp ảnh là vợ.”

Trong phòng bệnh yên tĩnh rất lâu, Duran rốt cuộc cũng có sức lực tổng kết lại duyên phận của ông ấy và Evans: “Có thể cùng cậu ấy quen biết hoàn toàn là do ngẫu nhiên, sau đó có thể trở thành bạn thân của cậu ấy, đối với tôi mà nói chính là may mắn cả đời này.”

Tôi đấu tranh trong đầu một hồi lâu, nói: “Cũng không phải là ngẫu nhiên đâu.”

Ông ấy hơi nghiêng đầu: “Gì cơ?”

Tôi nói: “Đêm đó không phải là ngẫu nhiên, thầy đã từng kể cho tôi nghe, thầy ấy luôn mong muốn được gặp ngài, khổ nỗi mãi không có thời cơ. Đêm hôm đó là do thầy cố ý đó.”

Trong phòng yên lặng rất lâu, Duran không nói, ngồi đó ngẩn người.

Lòng tôi bỗng nhiên phát lạnh, tôi nói: “Tôi không biết trong lòng thầy đối với ngài là loại tình cảm gì, tôi chỉ muốn nói, ngài đối với thầy ấy vô cùng quan trọng, ngài luôn là xếp ở hàng quan trọng ưu tiên hàng đầu, sở hữu hết thảy yêu mến của thầy.”

Hồi lâu trong phòng bệnh mới vang lên tiếng của Duran: “Là chúng tôi đã từng bỏ qua nhau hay chưa từng đây. Sự thật thì đoạn tình cảm này đã ôm trọn lấy cuộc đời tôi, nhưng vẫn nghĩ không được đáp lại. Tôi nếm mùi vị của sự đố kị, chán nản, nhẫn nại, bi ai, cũng trải qua hạnh phúc và vui sướng. Hết thảy những thứ đó đối với tôi mà nói đều rất mới mẻ.”

Tôi nói: “Tôi cũng không muốn khiến ngài thương tâm.”

Ông ấy đột nhiên thở dài, rất ôn hòa nhìn tôi: “Tôi không có thương tâm.”

Ông ấy hỏi tôi: “Cô có biết trên trái đất này tổng cộng có bao nhiêu người không?”

Tôi không chắc lắm “Hơn bảy tỷ?”

Ông ấy gật đầu: “Trong số hơn bảy tỷ người này, có rất nhiều người cả đời không được chân chính yêu một người, cô cảm thấy, đến cùng có loại trải nghiệm này là may mắn hay là không trải nghiệm mới là may mắn?”

Tôi sững sờ nhìn ông ấy, một hồi lâu mới trả lời: “Tôi nghĩ là vế trước đi, có thể có thời điểm......” Tôi liếm môi một cái: “Giống như lời ngài nói, tình yêu khiến cho người ta đố kỵ, chán nản, nhẫn nại, thận chí là bi ai.”

Ông ấy cười cười: “Thế nhưng bất luận là cô yêu loại người gì, hay là chỉ có mình cô yêu người, vẫn sẽ làm cho cô bước vào một thế giới hoàn toàn mới, vô cùng bất đồng.”

Tôi lẩm bẩm: “Đây là điều tốt sao?”

Ông ấy gật gật đầu: “Rất tốt đẹp.” Lại nói: “Không phải từ đầu cô vẫn luôn thấy là rất tốt hay sao?”

Tôi xoa xoa huyệt thái dương cười cười: “Có lẽ gần đây tôi hơi mất niềm tin một chút.”

Ngày hôm sau trước khi ngủ tôi nhớ đến bản ly hôn của trợ lý Chử bèn mở ra xem.

Thật là mạnh tay. Tôi đọc mà sững sờ.

Người làm nghề bác sĩ rốt cuộc có thể kiếm được bao nhiêu, tôi cảm thấy cuộc ly hôn này của mình cũng quá có lời rồi.

Cả đêm cũng không ngủ ngon, sau đó còn gặp mộng, trong mơ gặp được Nhiếp Diệc.

Hôm sau Duran thấy tôi vành mắt thâm quầng liền hỏi thăm, tôi nghĩ nghĩ, cảm thấy không việc gì phải kiếm cớ làm gì, có chút ngẩn ngơ kể cho ông ấy con số tài sản khổng lồ trong đơn thỏa thuận ly hôn.

“Có một căn biệt thự, ” tôi nói: “Xây trong một ngọn núi, ngọn núi đó vốn là tài sản riêng nhà anh ấy, vậy nên căn biệt thự kia đặc biệt yên tĩnh......” Tôi dùng một chút: “Cũng đặc biệt mỹ miều. Xuân có cành lá sum suê/ Hạ có trăng thanh gió mát/ Thu kết sương trên lá/ Đông có tuyết trắng mênh mang.”

Duran: “Cô như là đang đọc thơ ấy nhỉ.”

Tôi gật đầu: “Đó chính là một nơi xinh đẹp nên thơ như thế, chúng tôi đều rất thích.”

Ông ấy ngừng một chút: “Hai người? Cô và chồng mình sao?”

Tôi đáp: “Nói chính xác thì chẳng mấy chốc nữa sẽ thành chồng cũ rồi.” Tiếp tục nói: “Sau khi biết anh ấy đem toàn bộ biệt thự này cho tôi, đêm đó tôi liền nằm mơ mình về đó, nhưng mà lại bị khóa bên ngoài. Tôi leo tường vào đến trước cửa, nhưng không có biện pháp nào vào trong phòng, đành phải đứng ngoài cửa phòng khách.”

Tôi giơ tay quơ loạn lên miêu tả cho ông ấy: “Phòng khách có một cánh cửa sát đất hướng về sân trước của nhà chính, tôi đứng đó có thể nhìn thẳng vào phòng khách. Sau đó tôi nhận ra nơi đáng ra quầy bar không biết từ khi nào đã bị sửa thành một nhà bếp mở.”

Tôi thất thần mất mấy giây, Duran hỏi tôi: “Sau đó thì sao?”

Tôi đi đến ghế sô pha: “Sau đó sao, sau đó tôi thấy anh ấy và cô gái anh ấy thích thân mật dựa vào nhau nấu cơm, cảnh tượng rất ấm áp tự nhiên, khiến cho người ta sinh ra ước ao. Nhưng trong lòng tôi lại phát lạnh, cúi đầu không biết từ bao giờ tờ giấy ly hôn đã ở trong tay, mờ mịt nhớ lại phần thỏa thuận này tôi có bao nhiêu tiền, liền an ủi chính mình: có cái gì phải tuyệt vọng hả Nhiếp Phi Phi, không còn tình yêu và hôn nhân, chí ít mày vẫn còn có tiền.”

Duran giương mắt nhìn tôi: “Nếu đã có thể nghĩ như vậy rồi, cô còn phải đau khổ vì cái gì đây?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.