Thành Đông đang hứng những cơn mưa đầu mùa mát lạnh, dù là ban ngày nhưng trời vẫn còn tối mịt mù, tất thảy vẫn không che giấu được sự náo nhiệt của phiên chợ buổi sáng.
“Ôi mẹ ơi, cái gì vậy?” Một lão già lụ khụ nhặt những miếng đồng nát bị vứt ở một xó, bỗng dưng chạm vào một vật mềm mềm, lại chỉa ra những đám đen mượt, lập tức sợ hãi tới hét lên. Tức thì, một đám tiểu thương đang buôn bán xung quanh cũng liền chạy tới xem, lúc vừa vén cái khăn chứa vật mềm ấy ra, tất cả đều bàng hoàng. “Trời ơi, là một đứa bé!”
Một bà lão nghe vậy liền lập tức chạy đến, ôm đứa bé đang nằm trong khăn lại, da thịt vẫn còn đỏ hỏn. Lúc nhìn thấy nhiều người như vậy liền bắt đầu oe oe những tiếng yếu ớt. Bà lão lập tức đưa tay vào bên trong kiểm tra một chút. “Là một đứa bé gái, hình như còn là vừa mới sinh. Quái lạ a, sao tóc lại nhiều vậy?”
Đám người xung quanh lập tức nhao nhao lên. Quỷ dị quá, chả trách sao lại có người đem bỏ. Nhìn xem đứa trẻ yếu ớt dưới trời mưa lạnh như này, nếu không được phát hiện hẳn là đã sớm chết rồi. Tuy nhiên cũng chẳng ai biết nên làm sao. Đứa trẻ vừa quỷ quái lại dơ bẩn, tất nhiên chẳng ai muốn động đến cả. Thế là đám người nhìn sang lão già nhặt đồng nát, lão ấy cũng lắc đầu lia lịa: “Ta chưa đủ thảm hay sao mà còn bắt phải nuôi thêm một miệng ăn!”
Mà bà lão đang bế đứa bé cũng đồng dạng gật đầu tán thành: “Nhà ta trên dưới mười mấy cái hài tử, e là…”
“Vậy đứa trẻ này tính làm sao? Phụ mẫu của nó hẳn là không muốn nhận rồi.” Đám người nhìn chiếc vải bao bọc lấy đứa trẻ, cũng chỉ là loại vải bố tầm thường, thì ra cũng chẳng phải dạng giàu sang phú quý gì. Tưởng rằng phụ mẫu của nó giàu sang, chịu khó nuôi nấng có khi nhận được bạc. Nhưng nhìn xem đứa trẻ nghèo khổ này, nuôi nó chẳng những không được gì mà lại phải tốn thêm một miệng ăn.
“Chuyện gì vậy?” Từ trong đám người bước ra một vị tiểu tăng, trên tay vẫn còn cầm một cái bình bát. Vạt áo vàng cũng đã sớm thấm những giọt mưa, trong dáng vẻ có phần hơi chật vật. Lúc đi đường thấy một đám đông nhao nhao ở bên này liền lập tức chạy đến xem tình hình. Nhìn thấy trên tay lão bà là một đứa bé, lập tức thốt lên: “Mô Phật, đứa trẻ sao thế này, mau mau đưa cho bần tăng.”
Lão bà nghe vậy liền vui mừng khôn xiết, nhanh chóng đưa đứa trẻ đến cho vị tiểu tăng nọ. Vị này thấy đứa trẻ trên tay, âm thầm cảm thán tội nghiệp. Đứa trẻ lúc này đã xanh ngắt, thân nhiệt lại lạnh tanh, lại liếc nhìn những người xung quanh, e là không thể tìm được tấm lòng hảo tâm nào rồi. Rốt cuộc không nói nhiều mà ngay lập tức ôm đứa trẻ vào trong lòng, lấy thân mình che chắn nó khỏi cơn mưa lạnh, nhanh chóng chạy về phía chân núi.
Ở thành Đông có một ngọn núi cao, trên đó xây một ngôi chùa rộng vô cùng. Chẳng biết đã ngụ tại đó từ bao giờ, nhưng bá tính ở thành này đã xem sự xuất hiện của nó là một điều hiển nhiên. Ngôi chùa lúc đầu cũng chỉ xập xệ, nhỏ xíu, sau này người người chăm chỉ cúng dường, hương khói không ngớt, thế là thành ra to lớn như bây giờ.
“Minh Trí, làm sao vậy? Sao lại chật vật thế kia?” Vị trụ trì đang ngồi trước tượng Phật thiền định, bỗng nghe tiếng bước chân vội vàng đang chạy vào trong chùa. Lập tức quay sang nhìn người chạy tới, nhìn thấy vị tiểu tăng đang ôm trên tay một vật gì đó, liền đứng dậy nheo mắt mà xem.
“Sư phụ…sư phụ, đứa bé này là con nhặt được ở một xó trong thành, tội nghiệp vô cùng, người xem…” Minh Trí ngay lập tức trả lời, lại còn vén tấm vải ra một chút. Vị trụ trì bước đến gần nhìn đứa bé, chỉ thấy tiếng khóc bỗng im bặt, thay vào đó là một nụ cười nhỏ nhắn đáng yêu, bàn tay kia còn vươn lên chạm chạm vào gương mặt ông, liền cảm thấy một chút ấm áp trong lòng: “Vậy à, mau mau để vài vị tăng ni tắm rửa cho hài tử này, ta sẽ đi tìm xem có tấm vải nào vừa vặn không.”
Trong chùa trước nay thanh tĩnh bỗng có sự xuất hiện của một đứa bé, trở nên náo nhiệt lạ thường.
Đứa trẻ vừa được tắm rửa sạch sẽ xong, vị trụ trì liền dùng tạm cái áo cũ của mình để quấn lên dáng người nhỏ nhắn. Cả buổi bế đứa bé không rời. Đứa trẻ kia cũng đồng dạng giương đôi mắt to tròn lên nhìn ông, hàng mi dài lại cong vút, hàng mày tưởng như dùng bút mà vẽ lên. Mái tóc đã được cắt gọn gàng, không còn dài quỷ dị như trước nữa. Đứa bé giơ bàn tay của mình nắm lấy ngón tay của trụ trì, ánh mắt híp lại cười ha ha.
Tức thì, cả đoàn tăng lữ cũng vui vẻ cười theo, cảm khái đứa nhỏ này đáng yêu.
Vị trụ trì nhìn dung mạo đứa bé, lại trầm ngâm một hồi, cuối cùng nói: “Nữ hài này phi thường có duyên với cửa Phật, tiếc là vẫn còn bị nhân quả hồng trần quấy nhiễu. E là sẽ không ở lại được lâu.”
Minh Trí – cũng là vị tiểu tăng khi nãy bế đứa trẻ về - nghe vậy, liền ngay lập tức hỏi: “Sư phụ, làm sao mà ngài biết được?”
“Là ánh mắt của đứa trẻ này, có quá nhiều điều kì lạ. Hình như trong một khắc nào đó, ta đã thấy được những kiếp sống của nó.” Đôi mắt của vị trụ trì bỗng híp lại, những nếp nhăn nơi đuôi mắt hiện ra rõ ràng. Trong đôi mắt có kinh ngạc, có sợ hãi, lại có chút kinh hỉ, kì lạ khó một lời có thể giải thích. Minh Trí đối diện với tâm trạng này của sư phụ, tuy khó hiểu nhưng vẫn nhẹ nhàng chắp tay cúi đầu. Lát sau, chợt nghe vị trụ trì này nói tiếp: “Chiêu Hòa, gọi đứa bé này là Chiêu Hòa.”
Chỉ là sau lần đó, vị trụ trì đã không còn bước ra ngoài nửa, quanh năm suốt tháng ở trong một cái am nhỏ sau chùa đọc kinh, dường như tách ly khỏi thế sự. Đôi khi mới trở lại ngôi chùa thăm đứa nhỏ một chút, nhưng những lần gặp lại, vị trụ trì lại tiều tụy đi mấy phần.
“Sư phụ, có phải Chiêu Hòa…” Rốt cuộc có một ngày, Minh Trí không chịu nổi nữa, đem hết những nghi hoặc trong lòng mình ra giãi bày. Từ ngày đứa trẻ này được đem về, sư phụ liền có những biểu hiện vô cùng kì lạ.
“Minh Trí, con hãy đừng trách đứa bé vô tội này. Nó đã đủ đáng thương lắm rồi. Chỉ trách ta, là ta cố tình nhìn những điều mà bản thân không nên thấy, trái với thiên đạo. Đây chính là hậu quả.” Vị trụ trì lắc đầu thở dài, ánh mắt nhìn ra xa xa, chứa vô vàn những điều khó nói.
Minh Trí nghe vậy, rốt cuộc cũng hiểu ra một ít. Lại chắp tay cúi đầu. Sư phụ lại tiếp tục hỏi những câu như thường lệ: “Chiêu Hòa dạo này thế nào rồi?”
“Nàng đang đọc sách viết chữ, đứa trẻ này thiên tư thông minh, học một biết mười. Kinh hay chú đều tụng không sai một chữ, so với những đứa trẻ năm tuổi bình thường, quả là nàng xuất sắc hơn bội phần.” Minh Trí thành thực trả lời, cũng có chút tự hào. Đứa trẻ này là do một tay mình dạy dỗ, nhìn thấy nó càng ngày càng biểu hiện xuất chúng liền thấy nở mặt nở mày.
Chiêu Hòa khác hẳn so với những vị tăng lữ ở đây, nàng ngoại trừ việc ăn chay tụng kinh thì đều được nuôi dưỡng như những nhà bình thường, tóc cũng không có cạo đi. Lần đó, trước khi sư phụ chuyển vào am nhỏ đã dặn dò kĩ càng, rằng đứa trẻ này không nên xuất gia, cho nên tóc cũng ngày một dài, lại càng phi thường mềm mại.
Cuộc sống của Chiêu Hòa vô cùng đơn giản. Sáng sớm tụng kinh niệm Phật, xong rồi thì học đọc sách viết chữ, rảnh rỗi liền đi quét lá đa trước sân hoặc đi tìm những vị ni cô mà chơi đùa, thập phần nhàn hạ. Đôi khi nàng lại đi đến am thăm sư phụ, nghe ngài thuyết pháp, ánh mắt ngập tràn ngưỡng mộ.
Trái lại vị trụ trì không có vẻ gì là ngạc nhiên, chỉ âm thầm thở dài cảm thán: “Vậy ra đã năm năm rồi sao…”
Đến nhiều năm sau nữa, Chiêu Hòa dần dần trưởng thành, đã mang một chút vóc dáng của nữ nhân. Gương mặt từ mi thiện mục, giọng nói thanh thúy dễ nghe, từng cái giơ tay nhấc chân đều ưu nhã mười phần, ngỡ như là tiên tử lạc xuống chốn này, cũng là một tuyệt thế giai nhân hiếm thấy trên trần gian. Minh Trí – lúc này đã là một vị hòa thượng - nhìn Chiêu Hòa, bỗng có một chút cảm giác kì diệu dấy lên trong lòng, đứa trẻ ngày nào đã lớn đến bực này rồi, sợ là ngôi chùa này không còn là nơi thích hợp để nàng ấy dừng chân nữa.
Vị trụ trì có một lần gọi Chiêu Hòa đến am để dặn dò một số việc. Lúc Chiêu Hòa bước vào am, nhìn dáng vẻ tiều tụy của sư phụ, lập tức ôm mặt lại muốn khóc. Chỉ mới một năm kể từ lần nghe thuyết gần đây, chân mày sư phụ đã hoàn toàn bạc đi, mà gương mặt cũng không còn là một vẻ hồng nhuận như năm nào, chỉ thấy những nếp nhăn chồng chất lên nhau, thập phần khắc khổ. Nhưng ánh mắt của người vẫn tinh tường như buổi đầu sơ ngộ.
Sư phụ dùng ánh mắt ấy nhìn nàng hồi lâu, rốt cuộc nói: “Chiêu Hòa, đừng khóc nữa, con người không thể thoát khỏi sinh lão bệnh tử, sư phụ cũng không ngoại lệ. Ta muốn hỏi con một việc, đã nhiều năm con ở đây rồi, không định xuống núi ngắm nhìn thế gian một lần nào sao?”
“Không phải là con chưa từng đi. Nhưng thế sự khó lường, lòng người hiểm ác, việc gì con phải sa vào nơi ấy?” Chiêu Hòa nhẹ nhàng lắc đầu.
“Phật pháp bất ly thế gian pháp. Đạo lí này con cũng hiểu, nếu con quyết tâm muốn giác ngộ, tại sao lại xa rời khỏi nhân thế?” Vị trụ trì xoay xoay chuỗi hạt bên tay, không có quá nhiều biểu tình. Lát sau, ông bảo Chiêu Hòa lại gần, rốt cuộc cầm chuỗi hạt của mình đeo lên tay nàng. Chiêu Hòa có chút hoảng hốt, đây là chuỗi hạt đã đi theo sư phụ từ những ngày đầu tu hành cho tới bây giờ, nhận lấy hoàn toàn không hay. Nàng định khước từ nhưng sư phụ đã lắc đầu trước.
“Sư phụ, Chiêu Hòa trước nay vẫn chưa được một lần cạo tóc xuất gia, nhưng rõ ràng đây là điều con mong muốn, tại sao sư huynh cùng người lại một mực ngăn trở? Tu hành còn không được, huống hồ nói đến giác ngộ.” Chiêu Hòa chắp tay, ánh mắt thập phần chờ mong. Nàng đã ở đây rất lâu, tới khi có ý thức liền biết mình bất đồng so với những vị tăng lữ nơi này, nhưng đây quả thật không phải là điều nàng mong muốn. Minh Trí sư huynh thường hay ngăn cản không cho nàng cạo tóc, nhưng đến cuối cùng vẫn chẳng nói lý do vì sao.
“Đây không phải là điều con mong muốn.” Có vô vàn những điều muốn nói, nhưng rốt cuộc chỉ có một câu này ra khỏi miệng. Vị trụ trì nhìn gương mặt của Chiêu Hòa, ý cười hiện lên rõ ràng trong đôi mắt, thập phần hoài niệm.
“Thời gian đã trôi qua lâu như vậy rồi, ta nhớ lần đầu con đến đây là vào trời xuân, cũng có một chút mưa bụi lâm râm như thế này.” Nói đoạn, ông nhìn sang đóa hoa mai rơi rụng trước cửa, lại nói tiếp: “Con có nhớ về kiếp nạn của con hay không?”
“Con vẫn nhớ, kiếp nạn đầu tiên là khi sinh ra, con bị phụ mẫu vứt bỏ. Kiếp nạn thứ hai, sau này mới có thể rõ ràng. Nhưng sư phụ, dù thế nào con cũng không muốn thoát ly nơi này.” Chiêu Hòa cúi đầu, thành khẩn nói.
Vị trụ trì thấy vậy, liền nhẹ nhàng lắc đầu, cuối cùng cười: “Con người không thể thay đổi càn khôn. Tôn Ngộ Không nhào lộn, đạp mây có xa đến đâu, rốt cuộc cũng không thể thoát khỏi bàn tay của Phật Tổ. A Di Đà Phật…”
“Sư phụ?”
“Sư phụ!”
Đáp lại nàng chỉ là tiếng gió thoảng vào am. Vị trụ trì vẫn ngồi thiền ngay ngắn ở đó, da dẻ đã trở nên hồng hào, miệng cười tươi tắn, dường như đã tìm được chân lý giác ngộ. Có điều hơi thở đã không còn, da thịt cũng dần dần lạnh lẽo.
Bên ngoài, trời đổ cơn mưa ngày càng lớn, kèm theo tiếng khóc thê lương của đoàn tăng lữ trong chùa. Minh Trí bắt đầu nối gót sư phụ mà trở thành trụ trì, gương mặt không giấu nổi nét sầu khổ. Sư phụ đã nuôi đoàn tăng lữ ở đây từ nhỏ đến lớn, lúc này người ra đi, dù không muốn để linh hồn của người luyến tiếc, nhưng những giọt nước mắt trào ra hoàn toàn không cách nào che giấu được.
Vị trụ trì được chôn cất ở một nơi đất đẹp trên núi, nơi có thể nhìn ra biển, quanh năm hoa cỏ um tùm.
Đến tháng sau, Chiêu Hòa thu xếp hành lí, khấu đầu trước mộ phần của sư phụ rồi nói tạm biệt các vị tăng lữ trong chùa. Ai nấy nghe đến việc này đều thập phần ngạc nhiên, chỉ có Minh Trí là tỏ tường, cuối cùng gật đầu đưa tiễn nàng đi.
“Chiêu Hòa, sư phụ có dặn dò. Sau khi xuống núi, hãy khởi hành đến thành Tây rồi đi đến Tam Bảo Tự. Vị trụ trì ở đó cùng sư phụ là đồng đạo nhiều năm, thập phần thân thiết. Sau khi xuống núi cứ tá túc ở đó vài tháng.” Trước khi đi, Minh Trí còn không quên dặn dò. Tuy rằng lòng vẫn ba phần không nỡ, nhưng bản thân cũng biết rằng, không còn điều gì có thể ngăn cản bước chân ấy được nữa rồi.
Chiêu Hòa nghe vậy, liền quỳ xuống, khấu đầu với Minh Trí. Lúc này Minh Trí mới bàng hoàng, ngay lập tức đỡ người đối diện đứng dậy: “Này, muội mau mau đứng lên, làm gì vậy…”
“Đa tạ ơn dưỡng dục của sư huynh, cũng nhờ huynh năm đó hảo tâm nhặt về, muội mới có thể sống tiếp.” Lần ly biệt này không nén nổi đau lòng, Chiêu Hòa đã mang một bụng thê lương. Mà Minh Trí nghe vậy, tròng mắt cũng có chút đỏ ửng. Cuối cùng vẫn đỡ Chiêu Hòa dậy, tỏ ý bảo không sao. “Sau này rảnh rỗi, liền về đây một chút, các vị ni cô rất thương muội.”
Chiêu Hòa cười cười, nụ cười tươi mới như gió xuân, nhưng đáy mắt vẫn chứa một tia buồn bã. Nàng không biết mình có trở về được hay không, nhưng vẫn gật đầu với Minh Trí cùng các vị đồng môn, khiến cho bọn họ an tâm phần nào.
Nàng xuống núi, bắt đầu cuộc hành trình đi đến thành Tây. Suốt một đoạn đường, nhìn cả thế giới xa lạ mà lần đầu nàng được gặp, nhưng tâm tình vẫn cứ bình bình đạm đạm. Nàng gặp nhiều loại người, có kẻ kiếp sống khổ ải lầm than, coi trời là mái nhà, đệm là đất; cũng có kẻ từ nhỏ giàu sang phú quý, chăn ấm đệm êm. Có người đôn hậu chân chất, lại cũng có kẻ gian trá lừa lọc. Nhưng tất cả đều không khiến Chiêu Hòa phải lưu tâm dù chỉ một chút.
Trên suốt đường đi, nàng đều đội chiếc mũ rộng vành, che đi hết cả dung nhan. Bỗng dưng có một hôm gió thổi mạnh, chiếc mũ của nàng cũng vì thế mà rơi ra, trùng hợp là có một vị công tử đi ngang nhìn trúng, ngay lập tức nhất kiến chung tình, hẹn ước được nên duyên với nàng giữa chốn thanh thiên bạch nhật.
Vị công tử ấy à, nổi tiếng khắp nơi là người một bụng thi ca, gia tộc lại có hoàng ân. Nữ tử muốn gả đến nhiều không đếm xuể, nhưng người này trước nay vẫn một lòng phụng sự cho đương kim hoàng thượng, chưa một lần để ý đến chuyện bái đường thành thân. Ấy vậy mà trong một lần vô tình dạo chơi liền gặp Chiêu Hòa, thế là lại nhất quyết đòi lấy nàng, không phải nàng tuyệt đối không cưới. Lại còn hứa rằng sẽ cho nàng sống trong nhung lụa cả đời, nguyện xây cho nàng tháp vàng để nghỉ ngơi. Tao nhân mặc khách nghe đến điều này liền tốn giấy mực khen ngợi hết lời, quả là tình đẹp như thơ.
Đáng tiếc một chỗ, người mà hắn ta đòi cưới lại là Chiêu Hòa. Dù cho nghe biết bao nhiêu lời mật ngọt bên tai, nàng vẫn không có một chút động tâm, trái lại thẳng thắn khước từ: “ Sự giàu sang chỉ là pháp hữu vi, là vô thường. Tại sao người ta cứ đắm chìm trong một loại vô thường? Thất lễ, tiểu nữ vốn không quen xa xỉ, đành phụ chàng một tấm chân tình.”
Cả thành Đông chứng kiến sự việc này, lập tức “Ồ” lên đáng tiếc.
Nghe đâu sau lời chối từ ấy, công tử nọ ôm tâm bệnh rất lâu, lại không còn tận tụy với việc nước như trước nữa, khiến cho hoàng thượng quở trách không thôi. Mà câu chuyện li kì này cũng được đồn đại đến khắp thiên hạ. Ai ai cũng đều thắc mắc trước thân phận của vị cô nương này, rốt cuộc là ai mà lại ngạo mạn chê cuộc sống cẩm y ngọc thực? Có người bảo nàng to gan, cũng có kẻ bảo nàng kiêu kì quen thói.
Mà Chiêu Hòa bỏ ngoài tai những lời đồn, nhẹ nhàng nhặt lại chiếc mũ bị rơi xuống đất đội vào ngay ngắn, lại tiếp tục chuyến đi của mình. Tâm trí của nàng thôi thúc lên từng hồi, rằng nàng nhất định phải đi đến thành Tây. Không rõ ràng vì sao, cũng chẳng biết là loại ma lực nào mà có thể lôi kéo nàng đến vậy.