Mưa đã trở nên nặng hạt. Chân tôi giẫm lép nhép trên phố, làm bùn bắn tứ tung lên bộ quần áo mới giặt. Tóc tôi rũ xuống mặt như rong biển. Đến trước một tòa nhà lớn xây bằng nhôm với một cây thánh giá gỗ ép trên mái, tôi quỳ xuống một vũng nước và vốc nước phả lên mặt. Tôi súc miệng bằng thứ nước cống bẩn thỉu ấy và nhổ cho đến khi tôi không thấy có vị gì trong miệng nữa. Cây thánh giá hình chữ T bằng gỗ vươn cao trên đầu tôi, và tôi tự hỏi liệu Chúa có tìm ra được lý do gì để chấp nhận tôi không, cho dù người có là cái gì và đang ở đâu đi chăng nữa.
Cậu đã gặp Người chưa, Perry? Người có còn sống không? Hãy nói với tôi rằng Người không chỉ là một cái miệng há hoác của bầu trời. Hãy nói với tôi rằng có cái gì đó khác đang nhìn xuống chúng ta, chứ không chỉ là cái hộp sọ xanh biếc trống rỗng.
Perry khôn ngoan không trả lời. Tôi chấp nhận sự im lặng đó, tôi đứng lên, và tôi tiếp tục chạy.
Tránh những ngọn đèn đường, tôi lần về nhà Julie. Tôi cuộn tròn người dựa vào tường, cố trú mưa dưới cái ban công trên đầu, và tôi đứng đợi ở đó trong khi mưa tuôn xối xả lên mái tôn. Hình như tôi đã đợi mấy tiếng đồng hồ liền thì mới nghe thấy giọng hai cô gái từ đằng xa, nhưng lần này nhịp điệu trong giọng nói của họ không hề khiến tôi vui thích. Điệu nhảy ấy chỉ còn là một bản điếu ca, và tiếng nhạc là một nốt giáng.
Họ chạy tới cửa trước, Nora trùm lên đầu cái áo khoác vải bò, Julie thì thắt chặt cái mũ của chiếc áo nỉ đỏ quanh mặt. Nora đến cửa trước và lao vào trong. Julie dừng lại. Tôi không biết là nàng đã nhìn thấy tôi trong bóng tối hay chỉ là vì nàng ngửi thấy mùi nước hoa sặc sụa của tôi, nhưng có cái gì đó đã khiến nàng nhìn sang phía bên ngôi nhà. Nàng thấy tôi ngồi co ro trong bóng tối như một chú chó con sợ sệt. Nàng từ từ tiến đến, tay nhét vào túi áo nỉ. Nàng quỳ xuống và nhìn tôi qua khe hở hẹp của cái mũ. “Anh không sao chứ?” nàng hỏi.
Tôi gật đầu mặc dù không phải thế.
Nàng ngồi xuống cạnh tôi trên khoảnh đất khô nhỏ và dựa lưng vào tường. Nàng bỏ mũ trùm xuống và cởi chiếc mũ len bên dưới ra để gạt mớ tóc ướt ra khỏi mắt, rồi lại đội cái mũ lên. “Anh làm tôi sợ quá. Tự nhiên anh biến đi đâu mất.”
Tôi khổ sở nhìn nàng, nhưng không nói gì.
“Anh có muốn kể cho tôi nghe xem chuyện gì đã xảy ra không?”
Tôi lắc đầu.
“Có phải anh đã, ờ... có phải anh đã đánh gục Tim và bạn anh ta không?”
Tôi gật.
Một nụ cười thích thú ngượng ngùng hiện lên mặt nàng, như thể tôi vừa tặng nàng một bó hoa hồng to tướng hoặc viết cho nàng một bản tình ca dở tệ vậy. “Anh... tốt quá” nàng nói, cố nén một tiếng cười khúc khích. Một phút trôi qua. Nàng chạm vào đầu gối tôi. “Hôm nay bọn mình đã rất vui, phải không? Mặc dù có những lúc hơi rắc rối?”
Tôi không cười nổi, nhưng tôi gật đầu.
“Tôi hơi ngà ngà say rồi. Anh thế nào?”
Tôi lắc đầu.
“Chán quá. Say thích lắm.” Nụ cười của nàng mở rộng hơn và mắt nàng nhìn xa vắng. “Anh có biết lần đầu tiên tôi uống rượu là hồi tôi lên tám không?” Giọng nàng hơi lè nhè. “Bố tôi rất sành rượu, và bố mẹ thường tổ chức những buổi tiệc nếm rượu khi nào bố không phải chinh chiến. Họ mời các bạn đến, mở một chai rượu nổi tiếng đắt tiền, và uống say túy lúy. Tôi cứ ngồi đó, ở giữa ghế xô pha và nhấp từng ngụm nhỏ từ nửa ly rượu tôi được phép uống và cười những người lớn ngốc nghếch mỗi lúc một ngớ ngẩn hơn. Bác Rosy cứ uống vào là mặt đỏ phừng phừng! Chỉ một ly thôi là trông bác ấy đã như Ông già Noel rồi. Có lần bác ấy với bố đã thi vật tay trên bàn nước và đánh vỡ một cái đèn. Hồi ấy... thật là vui.”
Nàng dùng một ngón tay vạch vạch xuống đất. Nụ cười của nàng có vẻ tiếc nuối, vu vơ. “R ạ, mọi chuyện không phải lúc nào cũng đen tối thế này đâu, anh biết không? Bố cũng có lúc rất dễ thương, và ngay cả khi thế giới sụp đổ chúng tôi vẫn có những khi vui vẻ. Cả nhà chúng tôi thường cùng nhau làm những chuyến thu gom nho nhỏ và nhặt về đủ loại rượu kỳ quái. Những chai Dom Romane Conti năm ‘97 đáng giá cả ngàn đô la, nằm lăn lóc trên sàn một hầm rượu bỏ hoang nào đó.” Nàng khẽ cười một mình. “Hồi đấy gặp những chai như thế là bố tôi lại điên lên. Đến khi chúng tôi chuyển vào đây thì bố đã có vẻ... im hơi lặng tiếng hẳn. Nhưng Chúa ơi, chúng tôi đã uống nhiều thứ rượu rất đắt tiền.”
Tôi ngắm nhìn nàng nói. Nhìn quai hàm nàng cử động và gom từng từ của nàng trong khi chúng tuôn ra khỏi miệng nàng. Tôi không đáng nhận được chúng. Những ký ức ấm áp của nàng. Tôi muốn dùng chúng tô vẽ cho những bức tường trát vữa trống trơn của tâm hồn mình, nhưng bất kỳ thứ nước sơn nào tôi tô lên cũng bong ra hết.
“Và rồi mẹ tôi bỏ đi.” Nàng nhấc ngón tay lên, ngắm nghía tác phẩm của mình. Nàng đã vẽ một ngôi nhà. Một ngôi nhà tranh xinh xắn với khói tuôn ra từ ống khói, một vầng mặt trời hiền từ mỉm cười nhìn xuống mái nhà. “Bố tôi nghĩ chắc mẹ đã say, nên mới đưa ra lệnh cấm rượu, nhưng tôi đã nhìn thấy mẹ, và mẹ không say. Mẹ hoàn toàn tỉnh táo.”
Nàng vẫn mỉm cười như thể đây là một hoài niệm bình thường, nhưng giờ nụ cười của nàng đã trở nên lạnh lùng, đờ đẫn.
“Tối hôm ấy mẹ vào buồng tôi và đứng ngắm tôi một lúc. Tôi giả vờ ngủ. Rồi đúng lúc tôi đang định chồm dậy kêu ‘hù’ thì... mẹ bước ra.”
Nàng đưa tay ra định xóa bức vẽ, nhưng tôi nắm cổ tay nàng ngăn lại. Tôi nhìn nàng lắc đầu. Nàng im lặng ngắm tôi một lát. Rồi nàng nhích sang bên để đối diện với tôi và cười, chỉ cách mặt tôi mấy phân.
“R này,” nàng nói. “Nếu tôi hôn anh thì tôi có chết không?”
Mắt nàng vẫn nhìn chăm chú. Nàng hầu như không say.
“Anh đã nói là không, đúng không? Tôi sẽ không bị lây nhiễm phải không? Bởi vì tôi rất muốn hôn anh.” Nàng cựa người. “Và nếu anh có lây cái gì cho tôi thì có lẽ cũng không tệ lắm. Ý tôi là, giờ anh đã khác rồi mà, đúng không? Anh không phải là Xác Sống. Anh là... một cái gì đó mới.” Mặt nàng gần sát mặt tôi. Nụ cười của nàng xịu xuống. “Thế nào, R?”
Tôi nhìn vào mắt nàng, nhìn trong làn nước lạnh băng của chúng như một thủy thủ đắm tàu cố với lấy cái bè. Nhưng chẳng có cái bè nào cả.
“Julie,” tôi nói. “Tôi phải... cho cô thấy cái này.”
Nàng ngoẹo đầu vẻ tò mò. “Cái gì?”
Tôi đứng lên. Tôi nắm lấy tay nàng và bắt đầu bước đi.
Đêm tĩnh lặng, chỉ trừ tiếng xào xạc nguyên sinh của màn mưa. Mưa nhỏ ướt đẫm nền đất, làm mặt đường nhựa trơn trượt, làm những cái bóng tan chảy ra thành những vết mực đen loang loáng. Tôi bám theo những con phố sau nhỏ hẹp và những ngõ ngách không có đèn. Julie đi theo sau tôi một quãng, mắt không rời mặt tôi.
“Mình đang đi đâu đây?” nàng hỏi.
Tôi dừng một ngã tư để dò tấm bản đồ trong ký ức đánh cắp được của mình, nhớ lại hình ảnh những nơi chốn tôi chưa bao giờ đến, những người tôi chưa bao giờ gặp. Sắp... đến rồi.”
Sau khi cẩn thận nhìn qua mấy góc quanh và lén lút lao qua các giao lộ, chúng tôi đã đến nơi. Một ngôi nhà năm tầng vươn lên trước mặt chúng tôi, cao gầy lênh khênh và xám xịt như tất cả những ngôi nhà khác trong cái thành phố xương xẩu này, những ô cửa sổ lập lòe ánh đèn vàng như những con mắt cảnh giác.
“Cái quái gì thế này, R?” Julie ngước lên nhìn ngôi nhà và thì thầm. “Đây là...”
Tôi kéo nàng đến cửa trước và chúng tôi đứng dưới hàng hiên nhô ra, trong khi mái nhà rung lên dưới màn mưa như đánh trống trận. “Cho tôi mượn... cái mũ nhé?” tôi hỏi mà không nhìn nàng.
Nàng không cử động hồi lâu, rồi nàng cởi mũ ra đưa cho tôi. Mũ len xanh sẫm với một sọc đỏ quanh vành...
Bà Rosso đã đan cái mũ này cho Julie làm quà sinh nhật năm mười bảy tuổi. Perry nghĩ khi đội nó trông nàng giống một con yêu tinh và mỗi khi nàng đội nó lên là gã lại nói với nàng bằng tiếng của Tolkien. Nàng gọi gã là tên ngộ chữ ngớ ngẩn nhất nàng đã từng biết, và gã cũng đồng tình trong khi vừa cười vừa hôn lên cổ nàng và...
Tôi kéo cái mũ len sụp xuống mặt và khe khẽ gõ cửa, mắt dán xuống đất như một đứa bé nhút nhát. Cửa hé mở. Một người phụ nữ trung niên mặc quần thể thao ngó ra nhìn chúng tôi. Mặt bà sưng húp, đầy nếp nhăn, cặp mắt đỏ ngầu thâm quầng. “Cô Grigio à?” bà lên tiếng.
Julie liếc nhìn tôi. “Chào bác Grau. Ờ...”
“Cháu làm gì ở đây? Nora có đi cùng cháu không? Quá giờ giới nghiêm rồi mà.”
“Cháu biết, chúng cháu... bị lạc sau khi ra khỏi Vườn Quả. Tối nay Nora sẽ ở lại nhà cháu nhưng ờ... chúng cháu vào một phút được không ạ? Cháu cần nói chuyện với các em.”
Tôi vẫn cúi đầu xuống trong khi bà Grau liếc qua tôi một cái. Bà mở cửa cho chúng tôi với một tiếng thở dài bực bội. “Cháu biết là cháu không thể ở lại đây được. Đây là trại trẻ chứ không phải là quán trọ, và anh bạn của cháu thì quá lớn để xin vào đây rồi.”
“Cháu biết, xin lỗi bác, chúng cháu sẽ...” Nàng lại liếc nhìn tôi. “Chúng cháu chỉ ở lại một phút thôi.”
Lúc này tôi không chịu nổi những lời xã giao nữa. Tôi đi qua người phụ nữ và tiến vào nhà. Một đứa bé mới lẫm chẫm biết đi ngó qua cửa buồng ngủ và bà Grau lườm nó. “Ta vừa nói gì hả?” bà quát, đủ to để đánh thức những đứa còn lại. “Quay về giường ngay lập tức.” Thằng bé biến vào bóng tối. Tôi dẫn Julie lên cầu thang.
Tầng hai cũng giống hệt tầng một, chỉ khác là có một đám trẻ độ dưới mười ba tuổi ngủ trên những tấm đệm nhỏ xếp thành hàng trên sàn. Nhiều quá. Những trại trẻ mới mọc lên chẳng khác nào nhà máy trong khi các ông bố bà mẹ biến mất, bị nhai và nuốt chửng bởi dịch bệnh. Chúng tôi bước qua những tấm thân nhỏ bé của chúng để lên cầu thang và một cô bé yếu ớt với tay về phía cổ chân Julie.
“Em bị ác mộng,” nó thì thầm.
“Chị xin lỗi, cưng ạ,” Julie thì thầm đáp lại. “Giờ thì em an toàn rồi, được chưa?”
Cô bé lại nhắm mắt vào. Chúng tôi lên cầu thang. Bọn trẻ trên tầng ba vẫn còn thức. Bọn thiếu niên và thanh niên râu đã bắt đầu lún phún đang ngồi trên những chiếc ghế xếp, cúi gập người bên bàn viết lia lịa vào vở hoặc giở qua những quyển sách hướng dẫn. Có mấy đứa đang ngáy khò khò trên những chiếc giường tầng trong các buồng ngủ hẹp. Tất cả cửa đều mở trừ một chiếc.
Một nhóm thanh niên lớn hơn ngạc nhiên ngước lên khỏi đống bài tập. “Ơ, chào Julie. Mọi chuyện thế nào rồi? Chị ổn chứ?”
“Chào các em. Chị...” Giọng nàng kéo dài dần, và dấu ba chấm trong lời nói của nàng biến thành dấu chấm hết. Nàng nhìn cánh cửa đóng kín. Nàng nhìn tôi. Tôi siết chặt tay nàng, tiến về phía trước, mở cửa ra, rồi đóng nó lại sau lưng chúng tôi.
Căn buồng tối om, chỉ trừ ánh đèn đường vàng vọt bên ngoài hắt vào qua cửa sổ. Trong buồng không có gì ngoài một cái tủ bằng gỗ dán, một cái giường trống trơn, với mấy bức ảnh của Julie dán lên trần nhà bên trên giường. Không khí trong buồng ngột ngạt, và lạnh hơn nhiều so với phần còn lại của ngôi nhà.
“R...” Julie nói bằng giọng run run đầy nguy hiểm. “Vì lý do khốn kiếp gì mà chúng ta lại đây?”
Tôi quay lại đối mặt với nàng. Trong cảnh tranh tối tranh sáng vàng vàng, chúng tôi trông như hai diễn viên trong một bộ phim câm bi kịch. “Julie,” tôi nói. “Giả thiết... về việc tại sao... chúng tôi lại... ăn óc người.”
Nàng bắt đầu lắc đầu.
“Là sự thật.”
Tôi nhìn vào đôi mắt đang đỏ dần lên của nàng một thoáng, rồi quỳ xuống và mở ngăn kéo dưới cùng của tủ. Trong đó, dưới hàng đống tem cũ, một cái kính hiển vi, một đội lính chì, là một xấp giấy buộc bằng dây đỏ. Tôi lôi nó ra đưa cho Julie. Theo nhiều cách kỳ lạ và bệnh hoạn nào đó thì tôi cảm thấy như bản thảo ấy là của mình. Như thể tôi vừa đưa cho nàng trái tim rướm máu của tôi trên một cái đĩa. Tôi đã sẵn sàng chờ đợi nàng cào xé nó.
Nàng đón lấy tập bản thảo. Nàng tháo sợi dây ra. Nàng nhìn trang bìa suốt một phút đồng hồ, hơi thở run rẩy. Rồi nàng lau mắt và hắng giọng.
“Răng Đỏ,” nàng đọc. “Tác giả Perry Kelvin.” Nàng nhìn xuống cuối trang. “Tặng Julie Cabernet, ánh sáng duy nhất còn lại.” Nàng đặt tập bản thảo xuống và nhìn đi chỗ khác hồi lâu, cố nén một tiếng nghẹn ngào trong họng, rồi lấy lại tinh thần và giở sang chương một. Trong khi nàng đọc, một nụ cười yếu ớt hiện ra qua hàng nước mắt. “Chà,” nàng nói, đưa một ngón tay lên quẹt mũi rồi sụt sịt. “Thật ra cũng... khá hay đấy. Anh ấy thường viết những truyện khô khan xa vời chán chết. Cái này... hơi sến... nhưng sến theo kiểu rất chân thật. Giống bản chất của anh ấy hơn.” Nàng lại nhìn vào trang bìa. “Anh ấy bắt đầu viết cách đây chưa đầy một năm. Tôi không biết là anh ấy vẫn còn viết cơ đấy.” Nàng giở đến trang cuối. “Chưa xong. Một câu bị bỏ dở giữa chừng. ‘Bị bất lợi cả về sức người lẫn vũ khí, cận kề với cái chết, chàng vẫn tiếp tục chiến đấu, bởi vì...’”
Nàng xoa xoa ngón cái lên tờ giấy, cảm nhận bề mặt của nó. Nàng áp tập giấy lên mặt và hít một hơi. Rồi nàng nhắm mắt, gập bản thảo vào, và buộc lại sợi dây. Nàng ngước lên nhìn tôi. Tôi cao hơn nàng cả một cái đầu và có lẽ nặng hơn gần ba chục ký, nhưng tôi cảm thấy mình thật bé nhỏ, nhẹ cân. Tựa hồ nàng có thể đánh ngã tôi và đè bẹp tôi chỉ với một lời thì thầm.
Nhưng nàng không nói gì. Nàng đặt tập bản thảo trở lại vào trong ngăn kéo và nhẹ nhàng đóng ngăn kéo vào. Nàng đứng thẳng dậy, lau mặt vào tay áo, rồi ôm lấy tôi, áp tai lên ngực tôi.
“Thình - thịch,” nàng khẽ nói. “Thình - thịch. Thình - thịch.”
Hai tay tôi buông thõng bên người. “Tôi xin lỗi,” tôi nói.
Mắt vẫn nhắm nghiền, giọng nghẹt đi vì vướng cái áo của tôi, nàng nói, “Tôi tha thứ cho anh.”
Tôi đưa tay ra chạm vào mớ tóc vàng rơm của nàng. “Cảm ơn.”
Ba câu nói ấy, thật đơn giản, thật nguyên sơ, nhưng chưa bao giờ chúng lại trọn vẹn đến thế. Không gì chối bỏ được ý nghĩa cơ bản của chúng. Tôi cảm thấy má nàng cử động trên ngực tôi, cảm thấy cơ má nàng kéo miệng nàng thành một nụ cười mủm mỉm.
Không nói thêm một lời, chúng tôi đóng cửa phòng Perry Kelvin và rời khỏi nhà của cậu ta. Chúng tôi bước xuống cầu thang, đi qua những thiếu niên đầy lo lắng, những đứa trẻ đang trằn trọc, những em bé đang mơ màng say ngủ, và ra ngoài phố. Tôi cảm thấy có gì đó thúc trong ngực mình, gần tim hơn là bụng, và một giọng nói nhẹ nhàng trong đầu.
Cảm ơn, Perry nói.
* * *