Bắc Tống năm Thiên Hi. (từ năm 1017-1021)
Trong ngoài Khai Phong Phủ, nếu có người hỏi Khai Phong Phủ phủ doãn
(quan huyện) là ai, người qua đường có thể nhất thời không trả lời được, nhưng nếu hỏi nhà giàu nhất Khai Phong Phủ là ai, thì ngay lập tức trẻ
con đều có thể buộc miệng nói, đương nhiên là Bạch phủ*.
Từ con đường trước cửa lầu Tuyên Đức ngay trung tâm thành đi về hướng nam, đến được cửa Nam thì đi hết con đường cái về hướng Đông, đi qua
Đại Tướng Quốc Tự, cửa hàng Cao Dương, ngõ Điềm Thủy thứ hai, cây đồng
tử Hàn gia, gian thứ mười ba, ra khỏi Tống Môn về hướng đông nam, cách
đó không xa chính là Bạch Phủ độc chiếm một góc hơn trăm mẫu**. (Mẹ ơi,
cái địa chỉ!!!)
Bên trong Bạch phủ thứ nổi tiếng nhất không phải là cây cối xanh
tươi, kỳ hoa Chước Thiểm, không phải lan trắng mọc trên đá, hành lang
chín khúc, cũng không phải thanh lưu (dòng nước xanh) quang co, thềm đá
giữa đường, mà là ‘ngũ tọa tương gian’ chằng chịt xen lẫn vào nhau, vườn hoa và các tòa tháp bố cục tinh diệu, mỗi một chỗ đều có kiến trúc và
kết cấu vô cùng khéo léo.
Người đương thời có vần thơ: phủ nãi thanh việt trung, phi thiềm kiến thiên lý. (Hg: hok biết dịch thơ, nhưng đại ý là: Giữa phủ toàn là bóng mát, bay qua mái hiên thấy ngàn dặm).
Bạch phủ trở nên giàu có là có nguyên nhân sâu xa.
Bạch lão thái gia đã tạ thế là nghĩa huynh của đương triều Lưu thái
hậu, biểu cữu (chú họ) của Lưu Mỹ, lúc Lưu thái hậu còn trẻ là Lưu hoàng hậu, lão thái gia ở trong thành Biện Lương đã tự mình có không ít sản
nghiệp, khi đó Lưu hoàng hậu mới thượng vị lại muốn nắm trọn quyền hành
trong hậu cung, không thể không chuẩn bị một số tiền lớn hối lộ lung lạc nhân tâm, mà nguồn tiền chính là vấn đề nhức đầu của nàng.
Đương triều có luật hậu phi không được cùng họ ngoại qua lại thân
thiết, không có phe cánh Lưu hoàng hậu để tránh người đời lên án, tìm
được Bạch lão thái gia là người không phải là trực hệ hoàng thân quốc
thích, cứ như vậy mà mật đàm với hắn mấy canh giờ.
Không lâu sau, Bạch lão thái gia ‘thần không biết quỷ không hay’ liền tiếp nhận mấy lò sứ lớn ở kinh thành và các vùng lân cận.
Bạch lão thái gia bí mật đưa vào trong cung một số lượng lớn thỏi
vàng thỏi bạc để ủng hộ, Lưu hoàng hậu rốt cục đạt được ước muốn, không
tới mấy năm đã độc bá hậu cung, thậm chí còn đụng tới triều chính.
Bạch lão thái gia sau khi qua đời, buôn bán của Bạch phủ trong tay Bạch lão gia rất nhanh chóng được khuếch trương.
Chẳng những bên trong Khai Phong phủ náo nhiệt phồn hoa có được một
số lượng lớn tửu lâu (quán rượu), khách sạn, nhà hàng, phường trà,
chuồng ngựa, mấy huyện ngoại ô kinh thành còn có hằng hà sa số ruộng
đồng khế ước dưới danh nghĩa của Bạch phủ, tiếng tăm đã vang rất xa,
thực sự trong thất phủ cũng đã có vô số sản nghiệp.
Bạch lão gia không chỉ có chuyên kinh doanh lò sứ, còn nhắm tới Giang Nam bên cạnh Thái Hồ, thu nhận những tú nữ xuất sắc nhất dệt gấm, đồng
thời ra tiền ra sức hổ trợ sĩ tử có tài hoặc là phu tử giỏi võ trong
dòng họ vào triều làm quan, mỗi lần gặp hạn hán lũ lụt hay hoa mầu thất
thu thì lại càng hưởng ứng kêu gọi triều đình mở rộng kho lúa tiếp tế
người dân.
Trải qua hai đời Bạch lão thái gia cùng Bạch lão gia tích đức, địa vị của Bạch phủ được vô cùng tôn sùng, hần như chỉ đứng sau Hoàng Cung,
ngay cả quan lại cụng nhúng nhường hết ba phần.
Năm Thiên Hi thứ hai (năm 1018), hoàng tử do thị nữ Lý thị sinh ra
được Lưu Hoàng Hậu lấy làm con mình được sắc phong làm hoàng thái tử,
năm đó thái tử Triệu Trinh bảy tuổi.**
Cân nhắc kỹ càng, Bạch lão gia mới thỉnh cầu hoàng hậu, đem con trai
độc nhất đời thứ ba của Bạch gia là Bạch Thế Phi sinh cùng năm với thái
tử đưa vào cung hầu hạ thái tử học hành, Lưu hoàng hậu lúc nắm quyền tuy giáng chức không ít trọng thần, nhưng vẫn không hề quên ân tình của
Bạch gia năm đó viện trợ nàng, lúc này hạ chỉ đón Bạch Thế Phi tiến
cung.
Tiểu nhi Bạch Thế Phi chẳng những thông cơ trí hơn người, càng thêm
tài nghệ siêu quần, sau khi tiến cung rất được hoàng hậu sủng ái.
Năm Hưng Nguyên (năm 1022), tiên đế băng hà tại điện Diên Khánh, thái tử mười hai tuổi lên ngôi làm Thánh Đức hoàng đế, gọi Lưu hoàng hậu là
Hoàng thái hậu, cùng nhau xử lý quốc sự tại điện Cần Chính, được vài năm như vậy, Lưu thái hậu đã nắm quyền cả thiên hạ, duy ngã độc tôn.
Mà sau khi Lưu Thái Hậu buông rèm chấp chính nắm giữ triều chính,
Bạch lão gia lại nhẹ nhàng cự tuyệt ý muốn của thái hậu phong hàm tiến
tước cho Bạch Thế Phi, trái lại bắt hắn hồi phủ để hắn bắt đầu học kinh
doanh.
Lúc này Bạch phủ đã giàu nhất thiên hạ, cả nước không ai bằng.
Lại nói về năm đó, sau khi mùa đông bắt đầu, liên tiếp mấy ngày liền
gió bắc nổi lên dữ dội, bầu trời mây đen dày đặc, tuyết lớn rơi lả tả
mấy ngày mấy đêm, cả bầu trời đều là hoa tuyết, mái nhà khắp nơi đều bị
đóng băng, ban công thì phủ đầy tuyết.
Trời đông giá rét, chiều hôm mau tối, chưa kịp hoàng hôn mà nội thành đã gần như không còn người, riêng chỉ sâu trong một ngõ nhỏ dường như
có thấy một đám khói bếp mờ mờ ảo ảo, khói trắng lượn lờ mà còn ẩn trong tuyết tạo thành một mảng trời tối tăm mờ mịt.
Lúc này trên đường cái cửa Nam không có một bóng người, một vị thiếu
niên áo xanh ước chừng mười lăm tuổi, trên lưng còn vác một bao đồ nặng
đi đông đi tây. (không thể đi thẳng)
Phía trước hắn không xa, có một thiếu nữ khoác áo tơ, cầm dù hướng về phía về hắn mà đi, phía sau thiếu nữ còn có một tiểu nha hoàn trong tay còn cầm theo một cái rổ, trong rổ có chứa đồ cúng tế, có thể thấy là
vừa hai người vừa mới từ Đại Tướng Quốc Tự cầu phúc đi ra.
Xa xa còn loáng thoáng nghe được âm thanh truyền đến
Lọc cọc, lọc cọc, lọc cọc lọc cọc…
Kèm theo tiếng vó ngựa dồn dập là tiếng gào thét lanh lảnh từ xa đến gần: “Gía! Gía!”
Thiếu niên giương mắt nhìn lên, một con tuấn mã giữa mênh mông tuyết
đang phi nhanh mà đến, bởi vì thế ngựa tới quá nhanh lại có bông tuyết
che mắt, nhất thời thấy không rõ dung mạo của người điều khiển đang nằm
sấp trên lưng ngựa, chỉ thấy lờ mờ thấy dưới lớp áo lông chồn trắng như
tuyết đang bị gió lớn thổi bật lên là một thân ảnh còn trẻ.
Ngay lúc tuấn mã phi nhanh tới sau lưng cô gái, một thân ảnh nhỏ bỗng nhiên từ trong ngõ Điềm Thủy đi ra, tiểu hài đồng bệt tóc vừa chạy vừa
không ngừng quay đầu lại, kinh hoàng bối rối, căn bản không có chú ý tới lại có một con tuấn mã chạy ra từ trong một cái ngõ nhõ dân cư thưa
thớt.
Bất ngờ có một đồng tử (bé trai) đột nhiên từ bên cạnh lao ra, ngay
lập tức vị thiếu niên kinh hãi, mắt thấy một đồng một ngựa sẽ đụng nhau, nói thì chậm nhưng xảy ra thì nhanh, dây cương trong tay hắn nhanh như
chớp bị ghìm lại, “Ơi — “
Kèm theo tiếng thét chói tai không ngừng của tiểu đồng, con ngựa
trắng đang phi nhanh bỗng nhiên dừng lại, phát ra tiếng hí mãnh liệt,
móng trước giương lên ngay giữa không trung, toàn bộ thân ngựa dường như dựng đứng, đem thiếu niên trên lưng ngựa vung lên cao hai thước, lúc
hắn bị ném huyết khí tuôn ra khiến đầu váng mắt hoa ngay lập tức, bất
ngờ dây cương trong tay khiến cho thân ngựa lệch phương hướng, móng ngựa hướng về phía có tiếng hốt hoảng đằng sau, nhắm vào thiếu nữ mà đá!
Thiếu niên khẩn trương, bàn chân mãnh liệt đạp vào thân ngựa, kéo dây cương trong tay, nhưng không cách nào khống chế con ngựa.
Đang lúc nghìn cân treo sợi tóc thì ngay lập tức, tiểu nha hoàn đứng
gần thiếu nữ bỗng nhiên bị một chưởng ngã về phía đống tuyết bên cạnh,
cùng lúc đó thiếu nữ đã sợ tới mức mặt mày tái mét đột nhiên cảm thấy
bên hông bị xiết chặt thân thể chợt nhẹ nhàng, vốn nghĩ móng ngựa sẽ
giẫm lên trán nàng nhưng tức khắc lại xa khỏi tầm mắt vài trượng, ầm một tiếng rơi ngay chỗ nàng đứng trước kia, đem tuyết trên đất đạp tung
tóe.
Phi thân xuống mặt đất ngay tức khắc, khuôn mặt tuấn tú phiêu dật của vị thiếu niên lộ ra vẻ bội phục, đi về phía thiếu áo xanh ôm quyền hành lễ, “Đa tạ huynh đài tương trợ, bằng không thì kẻ hèn này hôm nay đã
gây ra đại họa.” Lại nho nhã lễ độ hướng về thiếu nữ mà nói, “Kẻ hèn này nhất thời lỗ mãng, xông tới cô nương, vạn lần xin cô nương thứ lỗi.”
Thiếu niên áo xanh buông thiếu nữ ra, thở dài trả lễ.
Cô gái kia đã định thần, nhưng sắc mặt có chút trắng bệch, hướng về
cả hai người cuối chào một cái, mắt nhìn thiếu niên áo trắng thuận tay
đỡ nha hoàn trong đống tuyết dậy mới chuyển hướng về phía tiểu đồng đang bổ nhào trên đường, nàng nhẹ nhàng bước tới, ngồi xổm xuống, đưa tay
định đỡ tiểu đồng lên, nhưng thình lình lại bị đối phương đẩy ra.
Nàng lúc này mới chú ý tới mu bàn tay phấn nộn của tiểu đồng nổi lên
màu đen, không khỏi giật mình, trong đống tuyết dày đặc như thế này, dù
cho ngã sấp xuống va chạm bị thương thì cùng lắm là chỉ bị trầy da mới
phải, nhìn đứa bé lại lần nữa, dường như chưa tới mười tuổi, trên khuôn
mặt nhỏ nhắn lại tràn đầy địch ý, trong hai con mắt trẻ thơ lại chứa đầy sự sợ hãi.
Thiếu niên áo trắng cùng thiếu niên áo xanh cùng nhau đi tới, quan tâm hỏi, “Làm sao vậy?”
“Có phải hay không bị té rồi hả?”
Lúc này trong ngõ nhỏ bỗng nhiên truyền đến một tiếng kinh hô từ xa: “Cháy rồi! Cháy rồi!”
Có người mở cửa đi ra, quan tâm hỏi, “Nhà ai cháy rồi sao?”
“Phải, nhà của Gián Nghị đại phu!”
“Đúng là kì lạ, trời tuyết rơi nhiều như vậy sao lại xảy ra hoả hoạn?”
“Đừng có đứng đó mà tán gẫu, đi hỗ trợ nhanh lên a.”
Mỗi hộ gia đình dọc theo con đường đều cầm thùng cầm chảo chạy ra, đồng loạt chung sức cứu hỏa
Cả hai thiếu niên có chút ngạc nhiên mà nhìn nhau.
Ánh mắt thiếu nữ nhìn vào cái cần cổ đang mang một cái khóa vàng được chế tạo tinh xảo của tiểu đồng, hình như nhớ tới cái gì, nhẹ nhàng a
một tiếng, nửa thương tiếc mà nói, “Thì ra là ngươi.”
Năm Thiên thánh thứ năm (năm 1208)
Bạch Thế Phi 17 tuổi vừa qua khỏi lễ nhược quán* không lâu sau, Bạch
lão gia cần cù thật thà vất vả lâu ngày thành bệnh, kéo dài được mấy
tháng, cuối cùng thuốc và châm cứu cũng khó trị, Bạch lão gia cả đời
chưa từng nạp thiếp, chỉ kết tóc duy nhất một thê tử, ân ái tình thâm,
sau khi hắn qua đời Bạch phu nhân thương tâm quá độ, cả ngày không ăn
không uống, cùng năm cũng buông tay nhân gian. (Hg: ước j lấy được ông
chồng jong zay, chết cũng mãn nguyện!!)
Đau khổ vì mất song thân, Bạch Thế Phi thương tâm gần chết, kiên trì
giữ đạo hiếu ba năm, đem toàn bộ tâm tư vùi đầu vào cơ nghiệp mà vong
phụ đã truyền lại, đối với chuyện mai mối một mực xin miễn.
Mặc dù hắn đã nói rõ ràng là sẽ không kết hôn, nhưng trong ba năm
cũng vẫn có vô số bà mối đạp đổ cổng Bạch phủ, tuy nhiên cuối cùng đều
đi về tay không.
Thiên thánh năm thứ tám (năm 1031), Bạch Thế Phi hai mươi tuổi mãn tang.
Ngày hôm đó từ trong điện Thừa Minh bỗng nhiên tuyên hạ một đạo chỉ, thái hậu sai người triệu hắn vào cung gặp mặt.
Bên trong cái bình hương lô được chạm hoa tinh xảo bằng vàng im ắng
có đốt một loại hương liệu không biết tên, một mùi thơm kỳ dị nhạt nhẽo
mà tỏa ra khắp phòng, nhẹ nhàng thổi qua chóp mũi, hít một chút là thấm
vào tim gan, cực kỳ thanh nhã dễ chịu.
Trên chiếc ghế làm bằng cây tử đàn sát cửa sổ có phủ một lớp nệm mềm mại được thêu hình hoa mẫu đơn bảy màu.
Bạch Thế Phi điệu bộ lười nhác, ngồi dựa vào ghế, mái tóc đen bóng
được buộc gọn gàng bằng một sợi dây vàng dưới chiếc mũ bằng gấm tinh
xảo, trên chiếc mũ đó có một viên dạ minh châu còn lớn hơn con mắt phát
sáng mờ mờ ảo ảo vô cùng uyển chuyển, chiếc mũ thêu vàng còn rủ xuống
hai bên khuôn mặt tuấn tú trắng như tuyết, trên ngọc diện (khuôn mặt như ngọc) còn trẻ là hai hàng lông mày xéo xéo, hai con ngươi như hai ngôi
sao bởi vì nắng chiều mà lộ ra chút quỷ quyệt, sống mũi thẳng đứng được
đặt đúng chỗ, bạc môi vì nở nụ cười mà khóe miệng cong lên.
Hắn tiện tay cầm lấy cây mơ trên bàn trà bỏ vào trong miệng, khi thì
hai bên má phồng lên, khi thì đôi môi anh đào cong lên, phảng phất có
tiếng mút khe khẽ hút lấy tư vị tuyệt duyệt của quả mơ, nhưng lại không
hề nóng lòng mà nhai, gần như chỉ chầm chầm ngậm trong miệng, mặc kệ
trong miệng tạo ra nhiều nước bọt.
Thái hậu Lưu Nga đã hơn 60 tuổi ngồi ngay ngắn ở giữa giường, màu da
trên mặt vẫn trắng nõn nà như xưa, không tỉ mỉ xem xét căn bản sẽ không
nhìn ra dưới khóe mắt ẩn lên một ít nếp nhăn nhàn nhạt, dường như đối
với cái tính trẻ con của Thế Phi không hợp quy củ không hề trông thấy
chút nào, nàng từ từ nghiêng đầu mà hớp ngụm trà, khép lại cái chén nhẹ
nhàng đưa về phía bên cạnh, cung nữ hầu hạ kế bên lập tức tiến lên nhận
lấy.
“Thế Phi.” Nàng rốt cục mở miệng, giống như mỉm cười, lại như xúc
động “Thời gian qua thật nhanh, nháy mắt mà cha mẹ ngươi đã qua đời được ba năm.”
“Vâng, kẻ hèn này lúc nào cũng nằm mơ thấy họ”. Đặt quả mơ ngay giữa hàm răng, hắn ‘mạn bất kinh tâm’ (thờ ơ) mà đáp.
Lưu Nga than nhẹ, “Hiếm thấy, ba năm qua ngươi thủy chung kiên trì
giữ đạo hiếu, phần hiếu tâm này quả thực đáng khen.” Liếc hắn một cái,
“Hôm nay đã mãn tang, có tính toán gì không?”
Bạch Thế Phi miễn cưỡng lên tiếng, “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại** (Trong ba điều bất hiếu, không con là tội nặng nhất), việc cấp bách tất nhiên là phải kết hôn trước.”
“Đã chọn trúng khuê nữ nhà ai?” Lưu Nga thuận miệng hỏi.
“Thiệu Ấn đã chọn vài gia đình để cho kẻ hèn này xem qua, luận hình
dáng chính là trưởng nữ của đương nhiệm tham tri Yến Thư: Yến Nghênh Mi, luận tài tình chính là ái nữ của Binh Bộ Thượng Thư Hạ Kính: Hạ Nhàn
Phi, nhưng mà luận tri giao vẫn là con gái của Tụ Hiền điện Đại học sĩ
Trương Sĩ: Trương Lục Dạng, cũng coi như là thanh mai trúc mã của kẻ hèn này.” Đảo trái mơ trong miệng, một bên má hắn phồng lên, khuôn mặt lộ
vẻ u sầu “Ai, hoa nhiều loạn mắt, cũng không biết chọn cái nào mới tốt.”
Lưu Nga điềm đạm cười cười, “Ngươi đúng là thằng nhóc con” Cổ tay vừa nhấc, trà đã tiện tay, chậm rãi uống một ít rồi mới nói, “Ngược lại,
người nữ nhi chưa lấy chồng kia của Hạ Kính ta đã có dịp gặp qua một
lần.”
Qủa mơ kẹp ở giữa hai hàm răng, không muốn người khác biết mà hắn nhẹ nhàng cắn xuống hai đạo lằn sẹo “A?”
Tiếng chưa dứt, ngoài cửa bỗng nhiên vang lên một tiếng vái chào “Hoàng Thượng giá lâm.”
Đang mặc một bộ thường phục màu tím, Triệu Trinh nhanh chóng tiến
vào, “Mẫu hậu.” Xoay người đưa tay ngăn Bạch Thế Phi không quỳ lạy cũng
không sao, vẻ mặt hắn hưng phấn, “Hảo tiểu tử, trẫm tìm ngươi thật vất
vả ah, nửa tháng nay người trong phủ ngươi một mực nói ngươi đang ở
Giang Nam, như thế nào hôm qua mẫu hậu kêu ngươi tiến cung thì ngươi
cũng đã trở về?”
Bạch Thế Phi cười hắc hắc hai tiếng, “Thật sự thì đúng là trùng hợp như vậy, khuya ngày hôm trước ta vừa về tới nhà.”
“Hãy bớt sàm ngôn đi, ngươi theo trẫm đến đây, lần trước ngươi bày ra cái ván cờ kia, trẫm đã có thể tìm được cao nhân giải trận.” Triệu
Trinh đi đến bên người Lưu Nga, gương mặt cầu xin mà kéo ống tay áo
nàng, “Mẫu hậu có thể kết thúc ở đây được không?”
Lưu Nga nhịn không được hắn quấn lấy, cười một tiếng, “Được được được, Thế Phi ngươi hãy theo Hoàng Thượng đi.”
“Vâng.” Bạch Thế Phi bất đắc dĩ đứng dậy, miễn cưỡng hành lễ, theo sau lưng Triệu Trinh mà rời khỏi.
Đưa mắt nhìn hai người cười cười nói nói mà đi ra bên ngoài, vẻ tươi
cười nhợt nhạt trên mặt Lưu Nga cũng tự nhiên biến mất, ánh mắt dần dần
trở nên thâm trầm, đem chén trà nhỏ đưa xuống, nàng nghiêng đầu về phía
sau.
Một thân hình to lớn đang mặc trang phục thị vệ từ sau bình phong đi tới.
“Ngươi thấy thế nào?” Nàng nhàn nhạt lên tiếng hỏi.
Chu Tấn nói, “Thuộc hạ cho rằng, thời điểm Hoàng Thượng tới đây thật là trùng hợp.”
Lưu Nga bất động thanh sắc (bình tĩnh) “Như vậy ngươi cho rằng là
Bạch Thế Phi đã lợi dụng Hoàng Thượng, hay là Hoàng Thượng đã cùng hắn
liên thủ đối phó với ai gia?”
“Cái này… Thuộc hạ không dám đoán bậy.”
Lưu Nga thần sắc đọng lại, phất phất tay, “Ngươi xuống dưới đi.”
Chu Tấn nhanh chóng lui ra.
Ra khỏi Khánh Thọ cung, Triệu Trinh cùng Bạch Thế Phi hai người cùng nhau hướng về Sùng Chính điện mà đi.
“Mẫu hậu có ý gì?” Triệu Trinh hỏi.
Bạch Thế Phi nhổ ra hạt mơ từ trong miệng vào trong tay, đầu ngón tay bắn ra, cái hạt mơ kia chui vào trong đám hoa cỏ bên ngoài hành lang
liền biến mất không thấy gì nữa, “Thái Hậu hi vọng ta lấy nữ nhi của Hạ
Kính.”
Triệu Trinh khẽ cong khóe môi, “Lúc trước khi trẫm lập hậu, vốn nhìn
trúng cháu gái của kỵ binh thượng vệ tướng quân Trương Mỹ, thế nhưng mà
mẫu hậu lại cho rằng nàng không bằng cháu gái của Lô Quân Tiết Độ Sứ
Quách Sùng , cuối cùng trẫm vẫn lập Quách Thị làm hoàng hậu.” Hắn liếc
nhìn Thế Phi, “Ngươi phải tự mình cân nhắc đi.”
Bạch Thế Phi nhợt nhạt cười “Đúng là phải hao tâm tổn trí mà.”
Lúc hoàng hôn, một cỗ kiệu quý giá từ Đông Hoa môn (cửa) xuất cung,
xuyên qua Tang Gia, ngõ hẻm Du Lâm, ra khỏi Tống môn, về đến cánh cổng
có mái hiên cao chót vót của Bạch phủ.
Lúc Bạch Thế Phi đi qua tiền đình trải đầy đá trắng, đại quản gia Thiệu Ấn từ trong sảnh đi ra nghinh đón.
Thiệu Ấn này đã ngoài năm mươi, lớn lên rất có phúc tướng, quản lý
mọi chuyện lớn nhỏ trong phủ, tính tình thật là đôn hậu, cũng không bao
giờ trách phạt nô bộc, từng trải qua hai đời Bạch gia hắn đối với các
loại người phú quý cùng phô trương thân thế sớm nhìn quen lắm rồi, chẳng những xử sự chu đáo, cộng thêm bụng đầy kinh luân (cách kinh doanh),
thường khéo léo ứng phó với các quý nhân quan lớn đến phủ, phong thái so lão gia các gia đình có tiền còn thông suốt hơn.
“Trang Trung Vệ sai người đưa tới cho công tử một phong thơ.” Thiệu Ấn đưa qua một phong thư.
Bạch Thế Phi tiếp nhận, một bên xem thư một bên đi về phía thư phòng, hai mắt xẹt qua nội dung trong thư, môi của hắn cong lên, đem thư bỏ
vào trong tay áo, nói, “Ngươi nhanh chóng chuẩn bị một phần thiệp đưa
đến Yến phủ.”
Thiệu Ấn ngừng lại một hồi, “Ý của công tử là — “
“Ta muốn kết hôn với con gái của Yến Thư: Yến Nghênh Mi làm vợ, việc
này làm càng nhanh càng tốt, ngươi tranh thủ thời gian đi làm.”
“Vâng.” Thiệu Ấn kinh ngạc, mặc dù không rõ vì sao gần đây chủ tử đối với hôn sự nhắc tới cũng lười, mà bỗng nhiên lại trở nên nhiệt
tình,nhưng cũng không có hỏi nhiều, chỉ là vội vàng nhận lệnh mà đi.