Trong giây lát Helen không cử động. Phòng ngủ của cô rợp bóng, chỉ có ánh ban mai đang gạn qua những tấm rèm chiếu lờ mờ ánh sáng, và cô không thể nhìn thấy vẻ mặt anh. Dù có thấy cũng chẳng mang lại chút chỉ dẫn nào cho cô. Có cố hết sức thì Rafferty cũng khó là người dễ cởi mở trong tất cả đàn ông. Thậm chí giữa ánh nắng chói chang cô chắc chắn cũng không thể đoán nổi anh đang nghĩ gì.
“Anh muốn em hỏi lại lần nữa phải không?” Cô thản nhiên nói. “Lời tuyên bố chẳng ăn nhập gì cả
Cô biết anh đã bắt đầu ân hận. Cô tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu cô gạt những tấm mền sang một bên. Chiếc áo phông cô đang mặc chỉ dài đến giữa đùi, và cô biết anh đánh giá đôi chân cô ra sao. Cô sẽ gạt nó ra xa hết mức có thể. Lần đầu tiên trong đời cô muốn một ai đó, cô muốn Rafferty. Cô muốn anh cho cô thấy cô đã để lỡ điều gì, cho cô thấy tình yêu và sự dịu dàng.
Nhưng anh làm cô sợ. Đó có thể là tình yêu và sự dịu dàng, nhưng còn có cả mê say và một cả mảng tối cô không hiểu, cũng chưa sẵn sàng để đối mặt. Bởi vậy cô kéo mền lên che hết người, và chờ đợi.
“Anh sẽ pha cà phê”, anh nói. “Nếu em muốn nghe, anh sẽ nói với em. Nhưng em sẽ không tin anh”.
“Em không biết nữa”, cô nói. “Em đã nghe rất nhiều câu chuyện khó tin trong đời. Anh có thể thử”.
Lời đề nghị lơ lửng trong bầu không khí giữa hai người, và nụ cười giễu cợt không hề nở trên mặt Rafferty. “Anh sẽ pha cà phê”, anh lặp lại.
“Những hạt cà phê, nếu còn, được cất trong tủ lạnh”.
Anh ngây người nhìn chằm chằm cô. “Vì sao?”
“Để chúng tươi hơn”.
“Người ta không xay cà phê nữa à?”
“Vị của nó sẽ ngon hơn nếu anh tự xay”.
“Anh tưởng mọi thứ bắt buộc phải trở nên đơn giản hơn chứ”, anh lẩm bẩm.
“Ý anh là sao?”
“Trong nhà bếp”, anh đáp. Và anh đóng cánh cửa lại sau lưng khi anh bỏ đi.
Cô nhanh chóng mặc đồ, chui vào một chiếc áo phông cũ trước khi cắm cúi đi vào trong bếp. Rafferty đã tìm thấy cà phê hạt, nhưng anh đang bối rối nhìn chằm chằm vào nó. “Anh không thấy máy xay ở đâu cả”.
Cô nhấc chiếc máy dùng điện của cô lên, nhưng anh dường như vẫn không nhận ra nó. Anh không cài cúc, hai vạt cứ thế buông lơ lửng trên vòm ngực rắn chắc, đầy cơ bắp của anh. Anh có màu da rám nắng. Một lần nữa cô tự hỏi anh đến từ đâu, và anh sẽ đi về đâu.
Cô lấy túi hạt từ tay anh mà không nói một lời, và pha cà phê với tốc độ mau lẹ. Cô đợi cho đến khi cà phê bắt đầu nhỏ giọt xuống bình rồi mới quay sang đối diện với Rafferty, cố gắng tìm một chỗ để tập trung đôi mắt cô vào đó. Bộ ngực của anh khiến người ta quẫn trí quá mức.
“Anh có làn da đó ở đâu vậy?” Cô hỏi, không thể nào thôi thắc mắc. Thắc mắc lớp lông ngực rải rác kia sẽ ram ráp hay mềm mượt dưới bàn tay cô.
“Florida. Anh xuống đó hồi tháng Một gần đây”.
“Đấy có phải điểm đến của anh lúc anh rời khỏi đây không? Nơi anh sống ấy?”
Anh lắc đầu. Nhà bếp quá lớn đối với căn hộ, nhưng quá nhỏ với không gian Rafferty chiếm đóng. Cà phê đang nhỏ từng giọt, chậm rãi.
“Chúng ta lại sắp chơi trò hai mươi câu hỏi đấy à?” Cô lanh lảnh hỏi. “Hay anh sẽ nói cho em biết?”
Không có chút ấm áp nào trong đôi mắt anh, chỉ là vẻ hài hước trống trải và lạnh lẽo. “Nếu em muốn nghe. Anh không biết anh sẽ đi đâu. Anh không biết anh đến từ đâu. Màu da trên cơ thể anh có được từ chuyến ghé thăm cuối cùng của anh đến Florida, xảy ra vào cuối tháng Một năm 1929”.
Cô ngây người nhìn anh chằm chằm. “Thế nên tuổi chính xác của anh là bao nhiêu?” Cô hỏi, giữ giọng điềm tĩnh.
“Còn tùy vào cách tính của em. Anh sinh năm 1895, ở Columbus, Ohio”.
“Và giờ anh chín mươi tám tuổi. Anh được bảo quản rất tốt đấy”, cô nói cộc lốc. Tí tách, tí tách cà phê rơi.
“Em có thể nói thế. Anh chết lúc ba mươi tư tuổi. Vào ngày Valentine”.
Cô không biết có thể chờ đến khi cà phê được pha xong hay không. “Ngày Valentine, năm 1929”, cô nói. “Đừng có bảo anh cùng một toán tên găngxtơ khác bị bắn chết trong gara đấy. Và Al Capone là kẻ chủ mưu”.
“Phải”.
Cô lấy hai cái cốc, những cử động của cô nhanh và dằn mạnh khi cô đặt chúng lên mặt bếp. Cô kéo chiếc bình ra, lắng nghe cà phê nóng bắn tung tóe trên đế giữ ấm, và đổ đầy hai cốc. Cô quay lại, giữ cốc của mình trong cả hai tay, cố gắng giữ lấy một cái gì đó. “Vậy anh làm gì ở đây?” Sự bình tĩnh trong giọng cô rất đáng khen ngợi.
“Hàng năm anh quay trở lại Chicago trong hai ngày 13 và 14 tháng Hai. Rồi anh lại đi. Anh không biết anh ở đâu trong những ngày còn lại, hay chuyện gì xảy đến với anh. Chết tiệt, anh thật sự không biết anh có tồn tại hay không. Có lẽ anh chỉ là một giấc mơ”.
“Một cơn ác mộng”, Helen nói, nuốt chửng một ngụm cà phê đậm đặc để giữ vững các dây thần kinh của cô “Thế anh đang làm gì trong căn hộ của tôi?”
“Nó có chút khó giải thích”.
“Chắc chắn là không rồi. Ý tôi là, đến biên soạn một mớ rác như chuyện chết đi sống lại hàng năm chỉ có ở mấy phim vớ vẩn anh còn chẳng gặp rắc rối thì sao phải ngừng ở vấn đề tiếp theo?” Cô giận dữ gắt gỏng.
“Em không tin anh?” Anh trông có vẻ ngạc nhiên hơn là bị xúc phạm vì ý kiến đó.
“Đương nhiên tôi không tin anh. Tôi chưa bao giờ là người hâm mộ cuồng nhiệt của những câu chuyện rùng rợn - Đêm của thây ma không phải bộ phim yêu thích của tôi. Thực ra vì sao anh ở đây, và anh muốn gì từ tôi? Và vai trò của Billy Moretti là gì?”
Anh lưỡng lự khiến cô tự hỏi có phải anh sắp chuyển hướng sự thật hay không. Song rõ ràng không phải. “Billy là một trong những người bị giết ở gara”.
“Hẳn rồi, Rafferty”, cô gắt. “Vậy làm sao tôi nhìn thấy cậu ta không biết bao nhiêu lần và không thời điểm nào gần tháng Hai cả?”
“Cậu ta quay lại hẳn đây. Anh thì không”.
“Sao không?”
“Làm thế quái nào anh biết được? Có lẽ anh tệ hơn những người khác. Có lẽ anh không xứng đáng. Có lẽ…”
“Có lẽ toàn bộ con người anh là một đống nhảm nhí”.
Mắt Rafferty hẹp lại. Anh vươn tay qua người cô để lấy cốc cà phê, cánh tay dài đó lướt qua tay cô. Cô có thể cảm nhận được cơn râm ran chạy suốt cơ thể. Khối u, cô nhắc bản thân. Không phải ham muốn.
“Em nghĩ anh bịa ra tất thảy?” Anh hỏi, uống một ngụm to.
“Tôi nghĩ anh hẳn là tác giả viết tiểu thuyết giả tưởng. Hoặc anh làm việc cho chương trình 'Máy quay trộm'“.
“'Máy quay trộm' là cái gì?”
Có thứ gì đó gãy vụn trong người cô. “Đừng lại nói kiểu ấy với tôi, Rafferty! Anh không phải thây ma của tên xã hội đen nào đó trở về từ cái chết, và anh cũng không đủ điên để tin vào nó. Anh chỉ đủ điên để nghĩ anh có một cơ hội chết giẫm để thuyết phục tôi mà thôi”.
Rafferty không cử động. Cảm giác sự tĩnh lặng đó đang âm u quanh anh, sự tĩnh lặng đáng sợ đó. Và rồi anh mỉm cưòi, một nụ cười nhăn nhó, tự giễu. “Em đã gây ấn tượng với anh là người cực kỳ cả tin”, anh nói, uống thêm ngụm nữa.
Đủ quá quắt rồi đấy, giờ đây khi anh thừa nhận anh nói dối, cô bắt đầu tự hỏi còn chút cơ may để anh nói sự thật không. Nhưng sau đó cô tự động lắc đầu như thể bị tâm thần. “Vì sao anh làm thế?
“Làm cái gì?”
“Nói dối tôi!”
Trong thoáng chốc cô không nhận ra anh ở gần đến mức nào. Anh di chuyển, nghiêng người về trước, và cơ thể anh ấn lên người cô, đẩy cô ép vào kệ bếp. Cô có thể cảm nhận hơi nóng từ cơ bắp, xương và những đường gân của anh, cô có thể cảm nhận anh muốn cô nhiều thế nào.
Anh cúi đầu xuống, và chạm môi lên môi cô, anh có vị của cà phê, thuốc lá, và mê đắm. “Bởi em quá cám dỗ!”
Cô để môi mình níu lấy môi anh một thoáng, trước khi giật ra. “Và anh là người có thể cưỡng lại được sự cám dỗ?” Cô thì thầm.
“Anh đang cố, luật sư ạ. Chắc chắn anh đang cố”. Rồi anh bứt người khỏi cô khiến cô đột nhiên thấy buốt lạnh. “Chúng ta sẽ làm gì hôm nay?”
“Chúng ta cái gì, anh chàng da trắng?”
Anh kinh ngạc trợn mắt nhìn cô, nhưng anh không bình luận, điều không cần thiết. Tất cả mọi người trên trái đất này đều đã nghe lời nói đùa của Lone Ranger[1] già. Tất cả mọi người, có vẻ thế, trừ Rafferty. “Hôm nay là Valentine, Helen. Theo những gì anh thấy, em không có một dàn đàn ông trẻ trung và hăm hở bên cạnh để ăn mừng ngày này. Em sẽ phải làm chuyện đó với anh thôi”.
[1] Một bộ phim truyền hình của Mỹ. Câu chuyện bắt đầu bằng việc một nhóm kỵ binh miền Texas truy đuổi một băng cướp nhưng bị phục kích và chỉ còn một người sống sót (Lone Ranger). Một cư dân Mỹ bản địa có tên là Tonto đã cứu sống và săn sóc Lone Ranger cho đến khi hồi phục. Lone Ranger chế tạo một chiếc mặt nạ và cưỡi một con ngựa bạch có tên là Silver, cùng Tonto săn đuổi bọn cướp để mang chúng ra ánh sáng công lý.
“Vậy chúng ta sẽ làm gì, đến thăm cái gara nơi anh bị bắn chết chăng?”
Anh lắc đầu. “Đã quá lâu rồi. Giờ có một viện dưỡng lão nằm ở đấy, và anh không có hứng thú ghé thăm nó. Đặc biệt khi tất cả những người ở đấy đều trẻ tuổi hơn anh”.
“Rafferty...” giọng cô rõ ràng đang cảnh cáo.
“Anh sẽ cư xử tử tế. Cứ giả vờ anh chưa bao giờ đề cập đến quá khứ đẫm máu của anh là được. Cứ coi anh là người chào hàng khô đến từ Ohio, dừng chân tại đây”.
“Người chào hàng?” Cô nói theo, bối rối. “Khô?”
“Nhân viên bán hàng”, anh sửa lại. “Các loại vải vóc và quần áo thành phẩm. Anh đã bỏ các mẫu hàng trong xe Packard...”
“Rafferty”, cô lại cảnh cáo.
“Vậy chúng ta sẽ làm gì để tiêu tốn ngày hôm nay?”
Cô nên yêu cầu anh ra khỏi nhà cô. Cô nên gọi cho cảnh sát, hoặc trại tâm thần, cô nên viện vài lý do rồi tránh xa khỏi cái đồ quỷ nhà anh ta. Anh ta chẳng làm gì ngoài nói dối cô từ lần gặp mặt đầu tiên, về Billy, về anh ta, về tất cả mọi thứ. Và kỳ quặc ở chỗ, lời nói dối ác liệt nhất trong tất cả lại có vẻ đáng tin nhất.
“Tôi định đi dự tiệc”, cô phát hiện bản thân lên tiếng.
Anh trông không hài lòng với ý tưởng đó tí nào. “Em có hẹn?”
“Không phải. Tôi có một nhóm bạn thích ăn mừng vào những ngày lễ thường niên. Khi họ tổ chức một lễ trao giải Oscar vào mỗi năm, tất cả chúng tôi mặc quần áo dạ hội, ăn bỏng ngô và xem truyền hình trực tiếp lễ trao giải Oscar. Người ta tổ chức bắn pháo hoa vào ngày Bốn tháng Bảy, chúng tôi có cuộc săn lùng trứng Phục Sinh và tất cả đều mặc trang phục làm vườn”.
“Bọn em làm gì trong ngày Valentine?”
Cô ước mình đã không mở chiếc miệng rộng để trả lời anh. Sẽ không nếu cô tin anh, dù chỉ trong tích tắc. Nhưng rồi, cảm giác thật tồi tệ khi giải thích. “Chúng tôi có tiệc giễu cợt những tên găngxtơ trong gara nọ”, cô nói với giọng ngu ngốc nhỏ xíu. “Tất cả mọi người mặc quần áo thập niên hai mươi, uống rượu pha chế, nghe nhạc jazz và nhảy điệu Charleston[2]”.
[2] Điệu nhảy sôi động thịnh hành trong thập niên hai mươi.
“Và rồi khi kết thúc tất cả mọi người đều nằm đắp đống lên nhau bởi những khẩu tiểu liên?” Anh giả sử, giọng anh không gợn sóng, cô không có cách nào đọc được phản ứng của anh.
Anh không có quyền phản ứng, cô nhắc mình nhớ. Anh đơn giản chỉ cố qua loa giải thích với cô bằng một câu chuyện lố bịch mà thôi. Bữa tiệc thảm sát kéo dài cả ngày hàng năm là một trò đùa vô hại, và nếu Rafferty không thể liên quan đến chuyện đó thì anh có thể mang cơ thể thon dài, chiếc miệng gợi cảm và đôi bàn tay thông minh, khéo léo của anh đến một nơi khác.
“Không”, cô nói. “Kết thúc mọi người sẽ ghép đôi và ra ngoài ăn tối”.
“Và em định cặp với ai?” Lạy Chúa, giọng anh có vẻ ghen tuông. Một lời nói dối khác, đương nhiên là thế.
Cô bình tĩnh đón nhận luồng mắt anh. “Anh”, cô nói.
Anh thoáng nhắm mắt, và cô gần như đã nghĩ vẻ mặt của anh là biểu hiện của một loại nỗi đau. Rồi anh mở mắt ra, sự nhạo báng quay trở lại với toàn bộ sức mạnh. “Em đã từng được cảnh cáo về chuyện vuốt râu hùm chưa Helen? Em có thể sẽ hối hận vì trêu chọc anh. Anh đang cố trở thành một quý ông, nhưng mọi thứ đều có giới hạn của nó”.
Cô muốn đẩy anh qua những ranh giới đó. Hay không? Với cô giờ không còn gì chắc chắn. “Hãy nhìn theo hướng đó, chàng hổ”, cô nói. “Ít nhất anh sẽ không phải lăn mình vào mớ quần áo. Quần áo của anh hợp sẵn rồi”.
Cô lùi ra xa, trước khi anh có thể mở miệng. “Em sẽ đi tắm. Tất cả mọi người phải có mặt ở đấy lúc mười rưỡi”. Cô ngập ngừng. “Anh sẽ không hỏi em lý do tại sao phải không?”
“Anh biết vì sao. Đấy là lúc vụ thảm sát bắt đầu. Em có một nhóm bạn sành điệu đấy, Helen
“Anh không phải đi với em đâu”, cô nói, cố gắng nghe không có vẻ phòng thủ.
“Không, anh sẽ đi”. Anh xoay người, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ lên bầu trời thành phố chầm chậm sáng lên. Cô nhìn anh, vào tấm lưng dài và thẳng bên dưới làn vải sơ mi trắng thanh lịch, vào lọn tóc quăn đen trên gáy anh, cô muốn bước đến chỗ anh và vòng tay quanh eo anh để ôm anh thật chặt. Mặc cho những lý do của anh có là gì, anh sắp đi, cô dù sao cũng không nghi ngờ về chuyện đó. Và cô biết mình không thể chịu đựng nổi nếu để anh đi.
Tivi không còn khả năng hấp dẫn Rafferty. Trong khi sở thích của gã đủ đại chúng để bao gồm cả những bộ phim hoạt hình sáng thứ Bảy và chương trình quảng cáo ngũ cốc bọc đường, gã có quá nhiều thứ trong tâm trí để tập trung vào bảo bối có công năng vô hạn của trẻ em trên tivi.
Gã chưa bao giờ phải vá víu một thứ gì đó trong đời. Trước tiên, bởi vì hôn cô. Thứ hai, bởi cố gắng nói cho cô sự thật. Đương nhiên cô không tin gã, ai có thể tin được đây? Gã thậm chí còn chưa từng nghĩ đến khả năng ấy. Gã không nghĩ sẽ nói với ai về nguồn gốc xuất xứ của bản thân nên đương nhiên cũng không bao giờ nghĩ đến khả năng họ sẽ không tin mình.
Gã không thể kể với cô về Ricky Drago. Cô đã nói rõ là cô không tin gã, nếu gã khiến mọi thứ trở nên phức tạp bằng việc cảnh báo cô về Drago, cô có thể sẽ đá gã ra ngoài vĩnh viễn. Chừng nào gã còn cư xử đàng hoàng, chắc chắn cô sẽ để gã bám đuôi theo cô.
Gã biết chính xác gã cần phải làm việc ấy ra sao. Gã cần tán tỉnh cô, chỉ vừa đủ để giữ cô bận rộn, nhưng không nên tiến thêm bất cứ bước nào. Chuyện tán tỉnh dường như đã trở thành một nghệ thuật được ghi vào sách đỏ ở thời nay, và gã không có điều kiện luyện tập, nhưng cách đây rất lâu gã từng là tay lão luyện. Mấy thập niên gần đây gã trở nên quá cay độc để thực sự lên tay, nhưng một khi lực hấp dẫn mạnh như thứ đã bột phát giữa gã và cô Emerson tồn tại, không cần quá nhiều quạt để thổi bùng ngọn lửa.
Sai lầm duy nhất của gã là nhượng bộ nó. Gã đã tiến đến rất gần, một sự thật khiến gã kinh ngạc. Gã tự hào vì luôn biết kiểm soát bản thân - những cảm xúc của gã, những thứ không hề tồn tại, cơn dục tình của gã, thứ mạnh mẽ một cách đáng chết lẫn cơn giận dữ của gã. Bởi gã không kìm nén được bất cứ thứ gì khác trong phần đời còn lại, gã cần đến từng mảnh nhỏ của sức mạnh.
Nhưng Helen Emerson đã lột bỏ thứ sức mạnh đó khỏi gã. Cô khuấy đảo những cảm xúc gã không hề biết vẫn còn đang hiện hữu, cô làm gã phát điên và cô khiến gã có cảm giác như thể một thằng nhóc chưa thành niên thừa hoóc môn, sẵn sàng nhảy chồm lên đứa con gái đầu tiên động đậy trong tầm mắt. Ngoại trừ gã không muốn nhảy chồm lên ai ngoài Helen.
Lạy Chúa, chuyện này sẽ càng lúc càng xấu đi. Gã bị mắc kẹt với việc dành hai ngày được cấp trên trái đất này để làm anh trông trẻ cho một trinh nữ lỡ thì đã đủ tệ rồi. Ấy thế mà gã còn phải đi và yê...
Gã ngừng lại để cái ý nghĩ phản chủ ấy nguội lạnh dần rồi biến mất hẳn. Thậm chí gã đâu có tin vào tình yêu. Gã tin vào tình dục, và tình bạn, và thậm chí cả tình thương của cha mẹ đối với những ai bị chia lìa. Nhưng tình yêu đích thực đã ra đi cùng với Romeo và Juliet. Cứ nhìn nơi sản sinh ra những kẻ như Ricky Drago mà xem. Còn điên hơn một con rệp hút máu, bởi hắn không thể sống mà thiếu người vợ đã qua đời của hắn.
Nó không dành cho những kẻ như thằng nhóc Jamey con trai bà Rafferty. Gã có thể đi xa đến chừng này mà không cần bất cứ ai. Cứ thế gã vẫn có thể sống tiếp, và làm một gã bảnh trai lêu lổng. Ngay khi gã chắc chắn Helen được an toàn.
Gã uống cốc cà phê đen thứ tư, xem hồi hai của thứ gì đó kỳ quái được gọi “Thiếu niên Ninja rùa đột biến” khi Helen xuất hiện từ phòng ngủ. Gã nhìn cô, ngay tức khắc choáng váng cả người.
Cô đang mặc loại váy mà những người phụ nữ thường mặc khi gã còn trẻ. Đó là một chiếc váy mỏng bằng nhung màu trắng ngà đính ngọc trai, hai cánh tay trần cùng cổ được tô điểm với những sợi dây chuyền và chuỗi hạt. Cô đi một đôi tất trắng, kéo cao lên đầu gối với sự táo bạo hiếm có, mái tóc búi cao và được giữ lại bằng sợi ruy băng đính ngọc buộc quanh trán. Cô kẻ mắt, môi và má phớt hồng trông hệt như người đàn bà trong mơ của gã.
“Em thấy sợ khi anh làm thế”, cô nói, ngượng ngùng kéo váy.
Gã tìm thấy giọng nói của gã ở nơi nào đó. “Làm gì?” Gã hỏi.
“Nhìn chằm chằm vào em như vậy”. Cô căng thẳng xoay người một chút, và gã để ý cô không nịt ngực theo cái cách hầu hết phụ nữ vẫn làm. Ý nghĩ ấy khiến gã căng cứng. “Em không giống gái bao đấy chứ?”
“Không”.
“Không ư?” Cô thử bĩu môi, và gần như đã thành công.
“Nó không phải váy của gái bao. Em tìm thấy nó ở đâu?”
“Từ một cửa hàng lưu niệm. Sao anh biết đây không phải váy của gái làng chơi? Em tưởng mấy lần hiện thân trước anh có mối quan hệ mật thiết với họ?” Cô đang học cách chế nhạo giống y như gã. Nếu câu nói không quá sức dễ thương đến thế thì rõ ràng nó đã chọc cho gã phát rồ.
“Vài người”, gã thừa nhận, tiếp tục chơi trò này. “Bao gồm Crystal Latour”.
Điều đó hạ gục cô trong chốc lát. “Không phải chứ!” Cô thở dốc, tin tưởng gã.
“Có đấy”.
“Người phụ nữ lớn tuổi ngọt ngào ấy á?”
“Cô ta trẻ hơn anh ba tuổi”.
Cô nhìn chăm chăm vào gã trong thất vọng lặng câm, rồi cô lắc đầu. “Anh giỏi lắm, Rafferty, em phải công nhận. Anh gần như làm em tưởng thật. Vậy nói em nghe xem ngài chuyên gia găngxtơ thập niên hai mươi, em đang mặc loại váy gì?”
“Một chiếc váy cưới”.
Cô đỏ mặt. Chết tiệt, gã thích những khi cô đỏ mặt. Sắc màu đó lan khắp ngực, lên gương mặt, thậm chí phủ xuống cả hai cánh tay cô. “Anh đang đùa!”
“Tất cả những gì em cần là một bó hoa và chiếc mạng che mặt”. Gã nhìn chăm chú về phía cô, tự hỏi liệu cô có hốt hoảng chạy trốn như một chú thỏ sợ hãi hay không. Cô đứng nguyên, nhưng không vững, khi gã đến được chỗ cô, cô ngửa đầu ra sau để nhìn gã với một thoáng thách thức. “Em trông hoàn hảo, luật sư ạ”, gã lẩm bẩm, giữ hai bàn tay ở yên hai bên sườn với những nỗ lực vĩ đại.
“Anh cũng vậy!” Cô đáp, giọng nói khàn khàn. Và sai lầm cực đại cô mắc phải là chạm vào gã, là đưa hai tay cô lên hai ve áo của bộ comple, là di chuyển lại đủ gần để gã có thể hít vào hương hoa hồng trắng từ nước hoa của cô, để gã có thể cảm nhận hơi nóng từ làn da cô, và gã không thể ngăn bản thân mình nữa. Gã lùa hai bàn tay vào mái tóc suôn dầy và nhìn đăm đắm xuống cô với thứ gì đó rất gần với nỗi tuyệt vọng.
“Anh đang cố làm một việc đứng đắn, Helen”, gã rì rầm. “Và em khiến nó bất khả thi”.
“Những chú hổ biết gì về sự đứng đắn?” Cô thì thầm lại. “Hoặc những tay găngxtơ đã chết? Nếu anh thực sự là người như anh nói, anh sẽ không nghĩ đến lần thứ hai về chuyện quyến rũ và bỏ rơi em”.
“Đấy là những gì em muốn?” Miệng cô quá mềm, quá gần đến đau đớn với gã.
“Em không muốn bị bỏ rơi”.
“Ôi, mẹ kiếp!” Gã khẽ rên rỉ. Và gã không thể làm bất cứ chuyện gì ngoại trừ hôn cô.
Cô giờ còn hơn cả thông thạo trong chuyện này. Môi cô ngay lập tức hé mở bên dưới môi gã, cô ngọt thơm như son anh đào và kem đánh răng, cô có vị của hy vọng, trinh nguyên và tình yêu. Và gã muốn nhiều, nhiều và nhiều hơn nữa.
Cô trượt hai tay dưới áo khoác của gã, ôm lấy eo gã, rồi cô trở nên cực kỳ bất động và lạnh lùng, khi bàn tay cô tìm thấy khẩu súng gã giắt sau lưng.
Cô giằng người ra khỏi tay gã, gã để mặc cô. “Vì sao anh mang theo một khẩu súng?”
“Nó là của em”.
“Sao anh lại lấy nó?
Gã xem xét các khả năng trả lời của gã, và chọn cách đơn giản nhất. “Anh được cho là một tên găngxtơ, đúng chứ? Cho bữa tiệc? Em không có một khẩu tiểu liên quanh đây, nhưng anh nghĩ cái này sẽ phù hợp”.
Cô không trông có vẻ bị thuyết phục, nhưng cô đang cố gắng. “Anh có thể giả vờ là Elliott Ness[3]”.
[3] Đặc vụ của cục chống rượu mạnh ở Mỹ, nổi tiếng vì những nỗ lực cấm rượu ở Chicago.
“Là ai?”
“Thôi ngay, Rafferty. Em không hứng thú với trò chơi nho nhỏ của anh. Anh thừa biết cũng như em, Elliott Ness là người cuối cùng đã đưa Capone vào ngục”.
“Thật vậy sao? Ông ta đã xoay sở buộc hắn vào tội gì? Giết người? Rửa tiền? Hay buôn lậu rượu?”
“Trốn thuế”.
Rafferty chỉ nhìn cô. “Em đang bảo anh là một kẻ gian ngoan nổi tiếng nhất lịch sử Chicago đã đi bóc lịch vì một vấn đề liên quan đến thuế đấy à?” Gã hoài nghi. “Em hẳn đang đùa”.
Cô không còn biết cái gì làm nên gã nữa, từng ấy đã đủ rõ ràng. Cô đơn giản chỉ nhún vai. “Là sự thật”, cô nói. “Và em không nghĩ anh giống một nhân viên FBI. Anh trông quá khiếp đảm”.
“Được lắm”, gã làu bàu. Gã liếc nhìn đồng hồ, loại ngừng sản xuất hơn năm mươi năm nay. “Gần đến giờ biến thân rồi. Em chắc muốn đến bữa tiệc đó chứ?”
“Em đảm bảo”. Gã hơi hài lòng khi nhận ra cô không còn nghĩ đó là một ý hay nữa. “Bên cạnh đó, cả hai ta trông hoàn hảo. Sẽ là lãng phí nếu không để người khác chiêm ngưỡng chúng ta”.
“Một sự lãng phí”, Rafferty nói. “Em vẫn muốn mặc chiếc áo khoác đệm ấy à? Nó không thực sự vừa với chiếc váy”.
“Áo khoác đệm? Ý anh là chiếc áo choàng của em?”
“Anh đoán vậy. Trông như một chiếc phao cứu hộ quá khổ”.
“Em có thứ này đẹp hơn”. Cô biến mất trong phòng ngủ, vài phút sau trở ra với một chiếc áo khoác lông thú che hết chiều dài cánh tay cô. Và nó cũng không phải một chiếc áo khoác bất kỳ. Đây là chiếc áo chồn bạc dài toàn thân Crystal Latour đã lừa được từ Bugs Moran. Rafferty nên biết mới phải. Gã là người đã đưa nó đến, khoảng sáu mươi tư năm trước. Và gã là người đã được thưởng công vì nó.
“Vậy Crystal cũng để lại con chồn cho em?” Gã hỏi, lấy nó từ cô giúp cô mặc nó. Thứ chết tiệt này không mang lại cảm giác nhiều tuổi hơn gã chút nào.
Cô liếc nhìn gã qua vai khi cô trượt vào nó. Cô mảnh dẻ hơn Crystal, và cao hơn, chiếc áo trông đẹp khủng khiếp trên người cô. “Sao anh biết đây là áo của Crystal?”
“Em có hai lựa chọn. Một, anh đã nhìn thấy cô ta mặc nó khoảng sáu mươi năm trước. Hai, đây là một suy luận logic. Hầu hết các công tố bang không mặc áo lông chồn. Em chọn đi”.
“Thực ra em không thích mặc áo lông thú. Em ghét phải nghĩ những con vật bé nhỏ tội nghiệp đã bị lột da vì thói hư vinh của một người phụ nữ. Nhưng bởi những con vật đặc thù thế này đã bị giết từ nửa thế kỷ trước, em nghĩ chắc sẽ không sao”.
“Ừ, em sẽ không muốn sự hy sinh của chúng trở thành vô ích”, Rafferty dài giọng. Gã để hai bàn tay lướt lên hai tay áo mềm mượt, và gã có thể cảm nhận cái run rẩy của cô.
“Bên cạnh đó, chiếc áo chưa bao giờ được mặc”.
Điều đó đủ khiến gã giật mình để lùi lại, rồi với tay lấy chiếc áo choàng dệt từ lông cừu của gã. “Sao không?”
“Crystal bảo em người đàn ông mang nó đến bị giết vào ngày hôm sau, và bà ấy không thể mặc nó mà ngừng nghĩ về anh ta. Thế nên bà cho nó vào kho”.
“Lãng phí chiếc áo khoác một nghìn đô chết giẫm”.
“Giờ còn đắt hơn nhiều”.
“Vậy tốt nhất em nên chăm sóc cẩn thận cho nó, luật sư ạ. Để đảm bảo không ai lấy một khẩu tiểu liên chĩa vào em”.
“Điều nhắc em nhớ. Khẩu súng anh đang mang - nó không được nạp đạn, phải không?”
“Tin anh đi, Helen”, Rafferty nói, “không có chuyện gì xảy ra nếu anh bóp cò đâu”.
Cô sẽ không bị đánh lừa với những gì chỉ chứa nửa sự thật. Cô ngừng ở ngưỡng cửa, túm lấy chiếc ví quá khổ của cô. “Anh không trả lời câu hỏi của em. Nó có được nạp đạn không?”
Tình huống xấu xảy ra. “Anh biết dùng súng thế nào, Helen. Nếu anh ngắm bắn, lên đạn và kéo cò, nó sẽ không nổ. Giờ chỉ có ba khả năng giải thích cho chuyện đó. Một, nó không được nạp đạn. Hai, khẩu súng bị hỏng, nhưng em là hậu duệ của một gia đình toàn cảnh sát, và em am hiểu về súng đạn đủ để giữ khẩu súng của em luôn sẵn sàng hoạt động. Khả năng thứ ba là có cái gì đó trong những điều anh cố nói với em về chuyện anh là ai và anh là thứ gì. Sẽ là khả năng nào đây?”
Trong một thoáng cô do dự, và gần như có thể thấy những gì đang lướt qua đầu cô. Gã quan sát đôi mắt nâu ấm của cô khi một lần nữa cô bác bỏ sự thật quá sức hăm dọa. “Khẩu súng không được nạp đạn”, cô dứt khoát nói. “Lại đây, Rafferty, nếu anh muốn đi. Và lần này em sẽ lái”.