Bride By Mistake

Chương 8: Chương 8




Làn sương mù lạnh giá buổi sáng châm chích vào hai má cô, bám vào lông mi cô và đọng lại như một tấm màn lấp lánh những giọt bạc trên lớp lông bờm xờm của con ngựa. Họ đang ở phía bên lạnh của ngọn núi nơi mặt trời vẫn chưa chạm tới. Sương mù treo dày đặc, bất động trong các thung lũng.

Họ phi nước kiệu dọc theo con đường đá hẹp men theo những ngọn đồi. Những cái cây mùa đông trơ trụi lá đứng thẳng đờ, bị sương mù phủ nhòe đi. Sự im lặng gần như là kỳ lạ, thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi một sinh vật nào đó giật mình hoảng hốt lao vụt đi tìm chỗ trốn, hoặc tiếng đập cánh đột ngột.

Cô chỉ một mình, trên đỉnh của thế giới.

Tự do. Cô hít thật sâu vào hai lá phổi. Chút không khí lạnh, tinh khiết ùa vào cô. Cô rùng mình, kéo chiếc áo choàng của Lord Ripton vào sát người hơn, và thúc ngựa đi nhanh hơn một chút. Sẽ tốt hơn khi cô được ở trong ánh nắng mặt trời trở lại.

Cô cảm thấy một sự bứt rứt tội lỗi với việc lấy áo khoác của anh cũng như ngựa của anh, nhưng anh đã ném chiếc áo choàng của cô đi và đã đưa cô cái này để mặc, vì vậy cô còn biết làm gì khác nữa? Áo anh rất ấm và mềm mại và thoang thủi mùi ngựa, và mùi của anh, một mùi hương sạch sẽ, nam tính. Một sự xao động dễ chịu.

Mặt trời buổi sáng mạ vàng những đỉnh đồi chạy dọc theo thung lũng. Ở tu viện giờ này chắc mọi người vừa hoàn thành xong lời cầu nguyện buổi sáng và nối gót nhau trong im lặng để vào ăn sáng. Tám năm, bữa ăn nào cũng giống bữa ăn nào: bánh mì nướng của tu viện và nước lạnh lấy từ suối. Chỉ có độ tươi mới của bánh mì là khác nhau. Và trong những ngày đen tối nhất – phải cám ơn vì bây giờ nó đã qua – là về số lượng.

Nếu bánh mì đã cũ, Dolores sẽ lại lần nữa hồi tưởng lại những ngày thanh bình của cô ở tu viện Aragon, nơi các nữ tu làm những chiếc bánh thật ngon và món sữa trứng với lòng đỏ trứng được các nhà làm rượu địa phương cho - họ dùng lòng trắng trứng để làm trong rượu nho.

Dolores sẽ bắt đầu miêu tả những cái bánh, và sau đó Luisa sẽ bảo cô là im lặng đi, cô chỉ đang làm họ đau khổ thêm mà thôi. Sau đó Alejandra sẽ bắt đầu kể về sô cô la và thật là thiếu văn minh thế nào khi bắt đầu một ngày mà lại không có nó. Và sau đó một trong số các xơ sẽ bảo họ im lặng, sáng đó sẽ là thời gian dùng để suy ngẫm cho ngày hôm đó, vì không được trò chuyện về những điều trần tục.

Isabella mỉm cười, nghĩ về tất cả bọn họ, và mỗi ngày đều giống nhau như thế, chỉ có biến thể trên các chủ đề hàng ngày. Cô có lẽ sẽ không bao giờ được gặp lại họ lần nữa. Cảm thấy thật kỳ lạ với cái ý nghĩ đó. Tu viện đã là nhà cô trong tám năm; gặp những người giống nhau hết ngày này qua ngày khác, cùng một giờ giấc, cùng một thức ăn, cùng những cuộc trò chuyện cho đến khi có những ngày cô đã muốn hét lên thật to.

Cô đã rất tuyệt vọng để được rời đi, cô chưa bao giờ nghĩ tu viện như là một ngôi nhà. Chỉ bây giờ khi mà cô phải rời đi mãi mãi thì cô mới bắt đầu nhận ra điều đó.

Còn bây giờ thì cô chẳng có ngôi nhà nào cả.

Valle Verde ư? Không, đó không phải là nhà. Nó chẳng còn thuộc về cô nữa, và cô cũng không thuộc về nó.

Cô chẳng thuộc về nơi nào hết.

Về phương diện hợp pháp thì cô thuộc về Lord Ripton. Nhà cô là ở nơi nào có anh.

Chàng ở đâu thiếp sẽ ở đó…Một sự cắn rứt khác của tội lỗi. Chắc chắn Thánh Kinh cũng có nói gì đó về việc cứu giúp các chị em mình. Nhưng cô không thể nghĩ nhớ ra. Đây là những gì sẽ xảy ra cho những ai không chú ý trong lớp, như có một nữ tu nói trong đầu cô. Một học sinh không ngoan và một người vợ tồi.

Cô đã không thật sự là vợ anh. Vẫn chưa. Không cho đến khi cuộc hôn nhân này được trọn vẹn. Và cô sẽ không chạy trốn khỏi anh, cô chỉ cần gặp em cô trước.

Nếu anh đã không quá vô lý như vậy…

Người đàn ông đó đã sắp xếp ưu tiên như thế nào? Một lời hứa không rõ ràng và một cô em vợ con hoang - à, một cô em cùng cha khác mẹ - hoặc là một điệu nhảy!

Một điệu nhảy! Không thể tin được.

Cô nghĩ về em gái anh. Một điệu nhảy có thể là một lý do phù phiếm đối với Isabella, nhưng chắc là không đối với Molly. Vũ hội đầu tiên của cô ấy, điệu nhảy đầu tiên của cô ấy, buổi ra mắt đầu tiên của cô ấy. Đó là đặc biệt.

Nhưng không phải điệu vũ đó là quan trọng; mà là lời hứa anh đã nói với cô em của anh, cô em yêu quý của anh.

Một người đàn ông không xem nhẹ những lời hứa.

Isabella cũng đã có những lời hứa của riêng mình, thậm chí là cho cô em không được yêu quý của mình.

Tình yêu, danh dự và sự vâng lời.

Cô sẽ tôn trọng những lời hứa đó, cũng vậy, cô cũng đã làm một lời thề thầm lặng. Cô sẽ là một người vợ tốt.

Chỉ là chưa.

Cô rẽ vào một khúc quanh, và một nhóm nhỏ các loài chim tụ tập quanh phần còn lại của vài cái xác động vật đã điên cuồng đập cánh bay vào không trung. Giật mình, con ngựa của cô đã lùi ngược lại. Một trong mấy mống phía sau của nó trượt đi, và nó tuyệt vọng cào cấu bấu víu vào mặt đường hẹp, đất đá lởm chởm.

Bella kẹp chặt hai đùi và ném người lên cổ nó, buộc nó đi qua. Trong hai giây dài, ngưng thở ấy, cô đã sợ rằng họ sẽ lao xuống sườn dốc đâm vào khe núi, nhưng sau đó nó đã đứng vững được và tiếp tục bước tới, hí lên vài tiếng, khụt khịt những âm thanh bực bội.

Bella thở dài nhẹ nhõm và thẳng người lên trở lại, tim cô vẫn đập thình thịch. Cô chắc là đã không thể qua được nếu ngồi một bên yên. Không phải như vậy một cách dễ dàng.

Ở phía bên này của núi, mặt trời chiếu sáng và ấm áp. Mặt trời đã lên. Chồng cô bây giờ chắc đã phát hiện ra lựa chọn duy nhất của mình là cưỡi ngựa với yên một bên.

Anh chắc sẽ rất tức giận, vì cô đã đi mà không nói lời nào, nhưng liệu anh có đi theo cô, hay là anh sẽ làm theo lời cô đề nghị trong tờ giấy để lại, tiếp tục đi về Anh? Và anh sẽ cố gắng để cưỡi con ngựa của cô?

Cô mỉm cười. Lord Ripton chắc sẽ rất xấu hổ vì đã cưỡi ngựa với cái yên của một phụ nữ. Chẳng đàn ông nào làm vậy cả.

Anh sẽ sục sạo khắp ngôi làng và sẽ thấy chẳng có con ngựa nào khác, huống chi một cái yên – người giữ ngựa đã bảo đảm với cô rằng trong làng này chỉ có lừa, thậm chí la cũng không có, và cô không thể tưởng tượng Lord Ripton trên một con lừa, không với hai cái chân dài như thế của anh.

Hoặc anh sẽ phải nhờ người tới thị trấn kế bên mua một cái yên hoặc là cưỡi ngựa không yên, cô rất nghi ngờ anh sẽ làm vậy. Cưỡi ngựa không yên chỉ ổn đối với đoạn đường ngắn và trong những trường hợp khẩn cấp, nhưng cưỡi cả ngày không yên sẽ rất khó chịu.

Bất kể anh sẽ làm gì, thì cô cũng đã có một khởi đầu tuyệt vời, và dù cô không biết đường rõ lắm, nhưng tất cả những gì cô phải làm là cứ hướng về phía đông, với những ngọn núi và mặt trời sẽ cho cô biết hướng đông là hướng nào.

Valle Verde mất khoảng hai ngày cưỡi ngựa từ đây, cô đoán thế; hoặc là ba nếu cô tính nhầm. Vùng đất này có thể không quen thuộc với cô, nhưng những ngọn núi này là máu thịt của cô. Thật tuyệt khi để lại đằng sau những bức tường cao của tu viện, giữa cô và đường chân trời chẳng có gì ngăn cách.

Cô không chắc mình sẽ ngủ qua đêm ở đâu. Có lẽ cô sẽ tìm thấy một kho thóc hoặc một ngôi nhà bỏ hoang nào đó. Cô có một chút lo lắng về viễn cảnh đó, nhưng Papa đã dạy cô cách để tự lực cánh sinh, cô nhắc nhở mình, cho dù điều đó cách đây cũng đã hơn tám năm rồi.

Liệu nó cũng sẽ như thế, khi sống ở Anh? Cái ý nghĩ này nghe còn nhiều đáng sợ hơn so với khả năng ngủ bên dưới một cây cầu. Nhưng cô cũng đã luôn mơ ước được đi đến Anh. Mama có một nửa dòng máu là người Anh, sau tất cả, và Bella cũng mơ hồ nhớ lại ông ngoại người Anh cao to, hàm râu đen, tặng cho cô một tượng cá heo nhỏ được chạm khắc tinh xảo từ phiến sừng ở hàm cá voi và kể cho cô nghe những câu chuyện kỳ diệu. Ông mất không lâu sau khi Mama mất, Papa nói với cô như vậy.

Cô rùng mình. Hầu như mỗi người thân của cô đều đã chết hết. Ngoại trừ Ramón đáng sợ, và vài người anh em họ xa mà cô thậm chí còn chưa bao giờ gặp mặt, chỉ có Mẹ Bề Trên - Không, Dì Serafina trong tu viện, và Perlita.

Vậy đó có phải là lý do tại sao cô lại tuyệt vọng đến vậy để tìm Perlita? Cô đã hầu như không biết gì về đứa em gái kế của mình.

Tại sao? Đó là cảm giác gia đình? Hay là tội lỗi và sự chuộc tội? Mỗi thứ một ít? Bella cũng không biết nữa. Mama đã từng nói với Bella là hãy lắng nghe trái tim mình và hãy làm những gì mà cô cho là đúng. Mama, người đã lắng nghe trái tim mình và đã kết hôn với Papa – và nó đã đưa bà tới đâu?

Cho dù đúng hay không, thì tất cả những gì Bella biết là trước khi cô bắt đầu cuộc đời mới của mình như là vợ của Lord Ripton, cô phải chắc chắn Perlita không bị gì. Cô đã quyết tâm sẽ sống hạnh phúc với Lord Ripton, sẽ xây dựng một cuộc sống tốt đẹp ở Anh và sẽ làm một người vợ tốt của anh, và cô sẽ không thể làm được điều đó với Perlita vẫn ở trong lương tâm của mình.

Và điều đó, Bella suy nghĩ chán chường khi cô vòng qua bên sườn núi tràn ngập ánh sáng mặt trời, đã trả lời cho câu hỏi của cô.

Cưỡi ngựa mà ngồi một bên rồi cũng sẽ quen, Luke quyết định, miễn là một người đàn ông không quan tâm tới những cái nhìn kỳ lạ - và tiếng vỗ tay của những nông dân xa xa phía sau anh bây giờ - thì đó cũng không là quá tệ. Thoải mái một cách đáng ngạc nhiên. An toàn hơn là anh mong đợi – Anh bắt mình bám vào cái ý nghĩ đó. Anh đã bao giờ thật sự nghĩ rằng cưỡi ngựa ngồi một bên là bấp bênh, thậm chí là có chút nguy hiểm không?

Anh chưa bao giờ thấy cần thiết cho việc đặt câu hỏi đó, mặc dù mẹ anh và Moly đã cưỡi ngựa một bên – và cả vợ anh. Những người mà lẽ ra anh nên quan tâm đến sự an toàn của họ nhiều nhất.

Tệ nhất là sự khó khăn của việc nhảy lên ngựa. Một khi anh phải dừng lại để đi vệ sinh, thì việc leo lên ngựa trở lại là một việc khó hơn là anh tưởng - anh chắc chắn đã thực hiện một cảnh tượng lố bịch – mà đó là anh không bị vướng víu bởi chiếc váy dài nào khi cưỡi ngựa. Nếu Isabella phải cưỡi ngựa một bên, cô hẳn không biết phải xoay sở ra sao nếu không có ai giúp đẩy cô lên.

Cái ý nghĩ này đã xoa dịu đi sự tức giận của anh với cô. Một chút thôi.

Nếu may mắn anh tìm thấy cô – và xin Trời đất cho điều này sớm thôi, và cô ấy không bị gì – anh sẽ cho cô một bài học không bao giờ quên. Dám chạy trốn khỏi anh á? Lại còn hai phòng ngủ nữa chứ! Sẽ không bao giờ cô lừa anh được nữa. Khi nào anh bắt kịp cô, sẽ là một phòng, và một giường.

Anh sẽ cho cô thấy ai là chồng cô, và vì Chúa, cô sẽ phải học cách vâng lời anh như cô đã thề sẽ làm vậy. Chỉ mới một ngày bắt đầu cuộc hôn nhân của mình, cô đã cho anh chạy khắp Tây Ban Nha – trên một cái yên ngựa một bên! – và trong một cuộc đuổi bắt viễn vông!

Một chú thỏ rừng chạy vụt ra từ bên dưới một bụi cây và nhảy vọt băng ngang mặt đất phủ đầy đá, làm cho con ngựa của Luke phải né tránh. Việc kiểm soát nó trở lại phức tạp hơn so với thông thường. Bình thường anh chỉ cần anh áp chặt hai đùi mình vào nó, nhưng ngồi trên yên một bên như thế này thì chỉ có thể trông cậy vào dây cương và roi da.

Điều gì xảy ra nếu có một con thỏ làm giật mình ngựa của Isabella và cô ngã xuống? Ở đây trong những ngọn núi hoang vu như thế này, cô chỉ có thể nằm bị thương và bất lực trong mấy ngày mà không có bất kỳ ai có thể giúp đỡ. Và mấy con sói vẫn thường hay đi lang thang ở những ngọn núi thế này.

Anh đẩy cái ý nghĩ ấy ra khỏi đầu mình. Anh đã học được cách đây nhiều năm rằng thật vô ích khi lo lắng về những việc anh không thể kiểm soát.

Cô đang trên đường đi Valle Verde, anh biết, nhưng bằng con đường nào? Anh đã chọn con đường nhanh nhất thông qua các ngọn núi, cắt dọc theo rìa của các vách núi, tuyến đường khó đi và nguy hiểm nhất. Với may mắn, cô sẽ chọn tuyến đường dễ đi, chậm hơn, lâu hơn và ít nguy hiểm hơn. Dù bằng cách nào, thì anh hy vọng mình sẽ bắt kịp cô trước khi đêm xuống.

Anh biết những ngọn núi này, đã từng băng qua băng lại nó trong suốt thời chiến tranh. Với vốn tiếng Tây Ban Nha hoàn hảo và mái tóc cũng như đôi mắt sẫm màu của mình, anh thuận lợi rất nhiều trong việc thu thập tin tức tình báo địa phương, và một phần lớn công việc của anh là liên lạc với các nhóm phiến quân Tây Ban Nha.

Vài trong số đó thì chỉ tốt hơn một chút so với những tên cướp, đã khủng bố người dân địa phương như họ đã khủng bố người Pháp; trộm cắp, giết người, hãm hiếp – tất cả đều trong cái tên gọi của lòng yêu nước. Và theo những thông tin thu thập được vài trong số đó đã chẳng giải tán sau khi chiến tranh kết thúc.

Những ngọn núi này – như luôn luôn thế - cung cấp những cơ hội vô tận cho những tên đàn ông sống ngoài vòng pháp luật.

Cũng như những người đàn bà sống ngoài vòng pháp luật.

Anh thúc con ngựa cái chạy nhanh lên và hy vọng Isabella sẽ chọn tuyến đường an toàn hơn. Nếu cô ấy không…

Tai nạn, cướp, sói – con số những nguy hiểm cô có khả năng phải đối mặt làm anh sợ chết khiếp. Lần cuối cùng cô đã thấy mình một mình trong những ngọn núi này… Không, anh sẽ không nghĩ về chuyện đó – cái ý nghĩ chết tiệt, cô ấy nên biết! Không có cái gì là lo xa chết tiệt ở đây hết!

Nếu – khi nào – anh tìm thấy cô, anh sẽ cho cô một trận, quỷ tha ma bắt, và sẽ dạy cô những điều mà các nữ tu chết tiệt đã thất bại. Dạy cô phải vâng phục chồng mình.

Một cái bóng trắng bắt vào mắt anh, có cái gì đó lờ mờ đang di chuyển ở chân một vách núi.

Một cú đánh xoáy của sợ hãi vụt qua anh. Isabella?

Anh nhảy xuống ngựa và trườn người tới rìa của cái dốc đứng để nhìn cho rõ hơn, tim anh đập thình thịch trong lồng ngực. Những lời cầu nguyện không lời đến từ một nơi nào đó mà anh đã không nhận ra vẫn còn trong anh.

Anh treo người trên mép vực, căng mắt ra nhìn. Cái bóng mờ mờ đó di chuyển một lần nữa… và một con dê nhỏ màu nâu và trắng đi ra từ bóng râm, gặm cỏ khi nó đi tới.

Căng thẳng chảy ào ra khỏi anh trong một cơn lốc của sự nhẹ nhõm.

Anh tóm lấy con ngựa và leo lên lại. Khoảnh khắc đó đã làm anh run rẩy nhiều hơn là anh muốn tin. Làm thế nào mà cái mảnh ghép của sự nữ tính, mảnh mai, không vâng lời đó lại có sức mạnh làm anh có cảm xúc như thế này…

Anh cắt đứt cái suy nghĩ đó trước khi anh có thể hoàn thành nó. Cảm xúc ư? Anh hầu như không biết cô.

Phụ nữ chỉ đơn giản là đã không còn sức mạnh gì đối với anh nữa. Anh đã học được bài học cay đắng của mình cách đây bảy năm, và anh sẽ không phạm phải sai lầm tương tự một lần nào nữa. Kể từ sau khi vô số phụ nữ cố tranh thủ cảm tình của anh theo cách của họ, và anh chưa bao giờ có bất kỳ rắc rối nào trong việc cưỡng lại họ.

Anh cũng luôn có một tinh thần trách nhiệm; đó là tất cả. Cô là vợ anh, và đó là bổn phận của anh để bảo vệ cô.

Đó là bổn phận, không ít hơn. Và cũng chẳng nhiều hơn.

Càng đi xa về hướng đông, cảm giác quen thuộc với vùng đất này càng nhiều hơn với Luke, và càng làm có cảm giác kim châm ở sống lưng mình nhiều hơn.

Chiến tranh đã kết thúc, anh tự nhắc mình. Đã hàng năm trôi qua. Mọi thứ đã thay đổi.

Và vì thế anh cũng vậy. Chỉ có trò gian đó là đáng để nhớ.

Khi còn là một cậu bé, anh đã rất yêu thích đất nước này. Ký ức của anh về những mùa hè thời niên thiếu trong vườn nho đượm đầy màu vàng ma thuật. Là rong chơi trên những cánh đồng và các khu rừng, là việc cưỡi những con ngựa tốt của chú anh, là bơi lội trong ánh nắng hè, là học cách săn chim ưng, diều hâu, là sự rụt rè xâm nhập lần đầu vào thế giới tuyệt vời và say sưa của các cô gái.

Những cô gái Tây Ban Nha trong những ngày ấy là hiện thân của tất cả vẻ đẹp nữ tính trong tâm tưởng anh, với những đường cong căng đầy, làn da màu vàng kim, với đôi mắt và mái tóc màu đen, và đôi môi đầy đặn, đỏ mọng. Những cô gái Anh Quốc bằng cách nào đó mà có vẻ như nhợt nhạt và nhàm chán nếu so với họ, và mọi thứ về Anh Quốc – từ vùng đất, thức ăn, cuộc sống – dường như làm anh muốn bệnh sau đó.

Tất nhiên đó chỉ là sự khác biệt trong cuộc đời mà anh đã sống. Nước Anh là trường học và bổn phận và những bầu trời xám xịt, và sự đau buồn khi về nhà, với người mẹ vừa mới thành góa phụ. Tây Ban Nha là tự do và ánh nắng mặt trời và phiêu lưu.

Luke dừng lại, cởi nón ra, và lau trán, quét mắt ra hàng dặm của những ngọn đồi trải dài bên dưới các đường đứt gẫy. Chẳng có cái bóng nhỏ nào trên con ngựa màu đen với một bên chân trắng. Chẳng có dấu hiệu của bất kỳ ai.

Cao cao phía trên thung lũng một con diều hâu đang sải cánh lượn vòng, đáp những vòng tròn chậm rãi trên một rừng ô liu. Tự hỏi con chim săn mồi này có ý định gì, Luke nhìn xuống những cây cổ thụ xoắn vòng, và không một cảnh báo, anh nhớ lại cái buổi tối tĩnh mịch thanh bình ở một khu rừng ô liu, bỗng bị phá vỡ khi hai mươi người đàn ông nhô lên từ các chỗ ẩn nấp của mình như những bóng ma trong đêm, tàn sát một nhóm lính Pháp đang cắm trại ở đó, cũng như vài cô gái thôn quê địa phương đã tham gia cùng họ đêm đó. Đồ gái điếm phản bội, mấy kẻ du kích đã gọi họ thế.

Luke đã phản ứng để bảo vệ mấy người phụ nữ đó, nhưng tất cả đã xảy ra quá nhanh, anh chẳng thể làm gì.

Ngày hôm sau, anh đi qua chỗ cắm trại lặng như tờ đó, với ánh nắng mặt trời rọi vào những khuôn mặt bất động, đã chết. Anh đã nghe chuyện Napoleon ra lệnh cho những đứa trẻ mười hai tuổi vào quân đội, và bây giờ anh thấy tin đồn là sự thật. Không một người lính nào trông lớn hơn mười sáu tuổi một ngày; vài đứa chỉ là những cậu bé. Và những cô gái – có lẽ chỉ mười lăm hoặc trẻ hơn.

Quá trẻ để chết như vậy.

Anh nôn thốc ở trong khu rừng ô liu, một chút nước nôn ra chảy trên lớp cỏ phủ sương, khô, lạnh.

Mấy tay du kích cười cợt với cái dạ dày người Anh yếu ớt của anh.

Bây giờ, nhìn xuống khu rừng ô liu như không có tuổi này, Luke nhớ lại cái lạnh và ẩm ướt kinh dị của buổi sáng hôm đó lần nữa.

Anh ngứa ngáy muốn bỏ chạy…

Anh đã từng cảm thấy là một phần của đất nước này, cảm thấy ở đây thân thuộc còn hơn là ở trong chính ngôi nhà của mình.

Còn giờ thì anh không thể chịu đựng ở lại lâu thêm hơn nữa.

Anh không thể chỉ đơn giản là đổ lỗi cho chiến tranh. Anh luôn biết bạo lực, gần như là một sự bạo lực man rợ nằm ẩn bên dưới bề mặt của nó. Đó là một vùng đất dữ dội, hiếu chiến.

Nước Anh mà anh biết hiện đang khoác lên người một cái áo lịch lãm của cách hành xử văn minh, nhưng mặc khác anh chưa bao giờ nhìn thấy nước Anh đi chinh phục, mà người người ở bên dưới gót chân của một kẻ xâm lược tàn nhẫn. Anh cầu nguyện cho anh không bao giờ thấy.

Nhưng các cuộc chiến tranh giữa Anh với Scotland, vào thời của ông nội anh, thì khó có thể gọi là văn minh. Ông nội anh không bao giờ nói về chuyện đó, nhưng từ những gì Luke thu thập được thì đó là một sự tàn bạo lạnh lùng, một hành động hủy diệt nhẫn tâm và khát máu. Với hậu quả… những sự tàn phá…

Chiến tranh đã làm thế đối với mọi người, với mọi đất nước, lột bỏ khỏi họ lớp áo văn minh, lịch sự. Lớp áo bề ngoài…Một cách vô thức Luke xoa vai mình. Phần khó nhất là thay thế lớp áo đó, cố gắng để lấy lại vẻ bề ngoài của sự văn minh khi mà bạn đã nhìn thấy sự đen tối của linh hồn con người… linh hồn của chính bạn.

Cố gắng để quên đi.

Điều đó dễ dàng hơn khi ở London. Những ác mộng đó không đến quá thường xuyên, và khi chúng trở nên quá tệ, anh luôn có thể tìm kiếm sự phân tâm, sự giải trí ở đâu đó, hoặc là một cuộc đua…

Còn ở đây, mọi thứ dường như ào vào nhắc anh nhớ, để khuấy lên những ký ức mà anh đã cố gắng để xóa sạch; những mép núi lởm chởm của những ngọn núi cao xù xì, mùi của húng tây và kinh giới dại, và của những ngọn gió thổi qua những hàng cây thông, cây bách xù, quang cảnh của những ngôi nhà mái đỏ, quét vôi trắng trên các sườn đồi, tiếng leng keng của những chiếc chuông trên mấy con dê và cừu – cả vị vang, ấm áp và rót thẳng vào miệng anh từ một chiếc bình da, và mùi thơm của một món hầm, với hỗn hợp của cà chua, ớt và tỏi.

Mỗi thứ đều là những đặc trưng của Tây Ban Nha. Mỗi mùi vị giờ đều như thuốc đắng với anh.

Nhưng nó không phải là chiến tranh, không phải là cuộc tàn sát trong cánh rừng ô liu kia hay bất kỳ những cuộc giết chóc nào mà anh đã chứng kiến trong những năm tham gia chiến tranh.

Luke không bị mắc lừa ảo giác: nó là mối ác cảm hoàn toàn cá nhân, và anh biết chính xác nó có nguồn gốc từ đâu. Và với ai. Anh hy vọng mình đã nhận được sự trừng phạt đã đủ lâu.

Mặt trời đang từ từ chìm xuống trên bầu trời, đang đúc ra những cái bóng dài từ những ngọn núi và những vệt sọc của những đám mây trên cao với màu tím hoa cà, màu hồng và màu vàng đồng. Luke đang thấy tuyệt vọng trong việc tìm kiếm vợ trước khi trời tối, thì một chuyển động trên con đường phía xa bên dưới bắt vào mắt anh: một cái bóng nhỏ đi bộ dắt một con ngựa đen với một bên chân trắng. Tạ ơn trời đất. Tạ ơn trời đất.

Luke phi xuống dưới núi nhanh như anh dám, đâm sầm qua các bụi cây thấp, lờ đi các nhánh cây quét vào mặt và người, đâm chọt và làm trầy xước anh. Anh không quan tâm; anh chỉ muốn tới chỗ Isabella và tận mắt nhìn xem cô không bị làm sao.

Nhưng khi tới được con đường cặp theo bờ sông ở đáy thung lũng, thì không có dấu vết gì của Isabella, không dấu vết của bất kỳ ai.

Anh quét mắt vào con đường ở cả hai hướng, nhưng nó vẫn trống không và im ắng. Không ngay cả bất kỳ hạt bụi nào bay lên nếu có ai đó cưỡi ngựa đi qua. Cô ấy ở cái chỗ chết tiệt nào vậy? Anh chắc chắn cái bóng người nhỏ thó đang dắt ngựa là vợ anh.

Sau đó, “Ồ, thì ra là anh!” một giọng nói quen thuộc thốt lên từ đằng sau một cụm sồi, và Isabella xuất hiện, dắt con ngựa của anh.

Luke vung chân qua cái phần tròn của yên ngựa nhô lên phía trước, nhảy xuống đất, sải hai bước dài, và nắm lấy hai vai cô.

Cô cứng người, gồng mình cho bất kỳ điều gì sẽ xảy ra.

Luke, đã diễn tập bài Thuyết giảng cho Người Vợ Lang Thang của mình hàng tá lần, mài giũa nó cho hoàn hảo, đã nhận ra không thể nhớ nỗi một từ nào. Anh nhìn chằm chằm xuống cô, anh siết chặt lạ bởi sự thiếu quả quyết không thường thấy. Anh không biết là nên ôm cô, lắc cô, hay là siết cổ cô đây nữa.

Hoặc là hôn cô.

Một sự tạm dừng dài.

Cô nghiêng đầu và ngước lên nhìn anh. “Anh nắm vững nghệ thuật cưỡi ngựa một bên rất nhanh. Tốc độ mà anh phi xuống phía bên này của ngọn núi rất ấn tượng. Tôi không cho là anh có ngã lần nào, phải không? Ý tôi là sáng nay.” Cô gái tinh ranh này giọng nghe có vẻ rất hy vọng.

“Không,” Luke sẵng giọng. Không một chút cảm giác hối lỗi hoặc thậm chí là hối tiếc trong giọng hay thái độ của cô.

Đôi mắt cô có màu vàng nâu mật ong và hai rèm mi dày, ngắn, đen. Chúng có vẻ như kéo anh tới gần hơn. Anh cẩn thận nới lỏng cái kẹp tay của mình ra và bước lùi lại. Đó là mệnh lệnh mà anh thiết lập và duy trì sự kiểm soát của tình huống này, và anh không thể suy nghĩ ngay thẳng khi mà cô đang nhìn anh như thế và anh đang chạm vào cô như thế.

Vào lúc anh buông cô ra, cô rùng mình, như một con mèo nhỏ đang bước xuống nước.

Cô cho anh một nụ cười thăm dò. “Lúc đầu tôi đã tưởng anh là một tên cướp.” Anh kéo cái nhìn của mình ra khỏi miệng cô, lùi thêm một bước khác, và nhận thấy mình đang nhìn vào đôi chân dài và các đường cong mảnh mai của nữ giới.

Có lẽ đó là phản ứng hoàn toàn tự nhiên của cô, hoặc cũng có lẽ đó là bởi vì cô ấy an toàn và không có sao khi mà suốt cả ngày hôm nay anh toàn tưởng tượng ra cô phải đối mặt với một số tai họa.

Hoặc cũng có lẽ đó là bởi vì nhìn cô đang đứng giữa một con đường công cộng mà chẳng mặc gì trừ một chiếc quần chẽn da hoẵng, đôi ủng, -áo sơ mi cô-tông trắng, và một chiếc áo chẽn bằng da. Thoải mái – và quyến rũ! – mồi cho bất kỳ kẻ dâm đảng nào đã từng xảy ra với cô.

“Cái váy của cô đâu rồi?” anh cắn cảu.

“Trong túi đồ của tôi. Tôi nghĩ sẽ an toàn và tiện lợi hơn nếu di chuyển như là con trai.”

“Như là con trai á?” Cô không thể ngây thơ như vậy chứ.

“Vâng, con trai đi một mình ít bị chú ý hơn nhiều so với một phụ nữ mà đi một mình.

“Cô trông chẳng giống con trai một chút nào hết.”

Cô mỉm cười. “Không với anh thôi, có lẽ thế, bởi vì anh đã biết trước tôi không phải là đàn ông.”

“Xin Chúa cho con sức mạnh!” anh lẩm bẩm. “Cô trông chẳng con trai một chút nào.”

“Có mà. Tôi đã mặc những bộ đồ này trong nhiều năm, và không ai từng nghi ngờ tôi có phải là con trai hay không.”

“Đi đây đó trong một vương quốc mù à?”

“Tất nhiên là không.”

“Vậy là giả trang trong tu viện? Và các nữ tu bảo với cô là cô trông giống một đứa con trai?”

“Không, không phải là một trò chơi. Có nhiều lần-“ cô dừng lại. “Mẹ Bề Trên thỉnh thoảng cho phép tôi đi ra ngoài tu viện mà ăn bận như thế này, giữa những người bình thường. Tất cả họ đều tin tôi là một cậu bé.”

Anh không tin cô. “Tại sao Mẹ Bề Trên cho phép cô làm một chuyện quá rủi ro dại dột như vậy chứ? Hơn nữa, bà ấy đã rất khó chịu khi thấy cô trong cái quần ống chẽn ngày hôm qua.”

“Bởi vì bà ấy nhìn thấy khuôn mặt anh khi anh nhìn thấy cái quần ống chẽn đó.”

Luke không nghi ngờ chuyện đó. Có khả năng cô cũng đã nhìn thấy cái ham muốn thô thiển mà anh đã cảm thấy cũng nên. “Cô nói cô đã mặc những chiếc quần ống chẽn thế này trong nhiều năm. Vậy lần cuối cùng cô mặc nó là khi nào?”

Cô cau mày. “Cách đây ba hoặc bốn năm gì đó. Nhưng chúng vẫn còn vừa y.”

Anh khịt mũi. “Giờ chật hơn nhiều, tôi đánh cược thế.”

Cô vênh mặt. “Anh đang nói là tôi béo chứ gì?”

Anh trợn mắt. “Tôi đang nói cô nhìn chẳng giống con trai gì hết.”

“Tôi không đồng ý. Các cô gái trong tu viện lúc nào cũng nói tôi nhìn như con trai ấy. Tôi hầu như không có ngực.” Cô ra hiệu, nhưng anh từ chối liếc xuống.

Anh sẽ không để bị lôi vào cuộc tranh luận về ngực cô. Anh biết thực tế là cô có chúng; anh có thể nhìn thấy những đường cong mềm mại của chúng thậm chí bên dưới lớp chiếc áo chẽn bằng da. Mấy người bạn học ngốc nghếch của cô bị mù rồi.

Cô tiếp tục, “Sự thật là-“

“Sự thật là, cô đã cố ý không vâng lời tôi, cô nhìn chẳng giống một đứa con trai trong bộ quần áo đó, và tôi có thể dễ dàng là một tên cướp!” Làm cái quái gì mà anh phải giải thích với cô chứ? Anh không bao giờ thấy mình giải thích trong quân ngũ. Anh ra lệnh và mọi người phải tuân theo.

Đàn ông tuân lệnh.

“Nhưng tôi chẳng thấy một linh hồn sống nào cả,” cô quả quyết với anh một cách vô tình. “Và khi tôi tưởng anh là một tên cướp, tôi đã trốn đi – khá thành công, anh phải thừa nhận như vậy. Anh đâu có biết tôi ở đó nếu tôi không gọi ra với anh.”

“Tôi đã nhìn thấy cô từ bên trên,” Luke nghiến răng.

“Vâng, và tôi cũng nghe tiếng anh va quẹt với mấy bụi cây từ cách đây hàng dặm. Vì thế-“

“Nếu tôi là một tên cướp, và ngựa của cô khịt mũi hay phát ra âm thanh thì sao? Thì sao, hả?”

“Nếu anh mà hăm dọa tôi, tôi sẽ bắn anh,” cô nói một cách điềm tĩnh.

“Cái gì?”

“Bắn anh. Với cái này.” Cô với ra đằng sau và rút ra một khẩu súng giấu trong thắt lưng của chiếc quần chẽn. Anh nhận ra nó từ tám năm trước.

“Nó nạp đạn rồi?”

“Tất nhiên! Làm gì với một khẩu súng không có đạn chứ?”

Anh nhìn chằm chằm vào cô, vẫn còn sôi máu, cố gắng không nhìn cô trong chiếc quần ống chẽn đó, cái cách mà lớp da hoẵng mềm mại bám dính vào thân người cô. “Vậy nếu tôi là hai tên cướp – hoặc hơn nữa thì sao? Mấy tên cướp thường đi thành băng, cô biết mà.” Anh đã thất thế và anh biết điều đó. Người ta không bao giờ nên tranh luận với một phụ nữ. Chỉ đơn giản là ra lệnh. Hoặc yêu cầu. Anh cố gắng lấy lại quyền hành của mình. “Sao cô dám chạy trốn khỏi tôi hả!”

“Tôi không chạy trốn,” cô nói một cách phẫn nộ. “Tôi chỉ đơn thuần là tạm rời khỏi anh. Tôi đã hứa chắc chắn là sẽ gặp lại anh ở Anh Quốc ngay khi tôi tìm thấy em gái tôi rồi mà. Anh không đọc thư tôi à?”

“Vấn đề không phải chỗ đó.”

“Không, vấn đề là em gái tôi đang trong tay một kẻ ghê tởm. Anh có để Molly tùy vào lòng thương xót của một tên đàn ông như anh họ Ramón của tôi không?”

Anh sẽ không, tất nhiên, nhưng anh sẽ không để bị đánh lạc hướng. Anh trở lại trọng tâm câu hỏi. “Cô đã bỏ đi mà không được sự cho phép của tôi.”

“Nhưng khi tôi hỏi, anh từ chối, vậy thì tôi còn có thể làm gì khác chứ?”

“Hãy vâng lời tôi! Như cô đã thề.”

“Tôi thề hồi nào- à, ý anh nói là lời thề hôn nhân. Tôi chỉ là một đứa trẻ khi đó-“

“Nhưng nó vẫn hợp pháp và đã bị ràng buộc.”

“Anh đã sẵn sàng để mà hủy nó đó thôi.”

“Tôi không có.”

“Anh đã đi hủy nó.”

“Vì.Chúng.Ta.Đã.Đồng.Ý.Lúc.Đó.”

Cô nhún vai, rõ ràng là không mấy ấn tượng, rồi bỏ đi.

Luke siết chặt nắm tay, đang chiến đấu với cái ý muốn kinh khủng là lật cô xuống đầu gối anh mà đét vào mông. Vào cái mông trần trụi của cô. Anh bước về phía trước.

“Anh có một con dao không?” cô hỏi.

Luke chớp mắt. “Dao?”

“Một cái đồ cạy móng sẽ thích hợp hơn, nhưng không có nên một con dao nhỏ chắc cũng được. Ngựa của tôi bị găm một viên đá trong móng nó và tôi không thể lấy nó ra.”

“Ngựa của cô á?” anh nói với vẻ mỉa mai.

“Ngựa của chúng ta, nếu anh thích thế.”

Cái giọng đơn giản của cô làm anh tức điên. Cô hoàn toàn không một chút hối hận cho các hành động của mình. Anh đi vơ vẩn về phía cô. Anh sẽ cho cô thấy một lần cho tất cả-

“Đừng quên con dao,” cô nhắc anh và cúi xuống để nâng cái móng con ngựa bị khập khiễng lên. Cái quần da hoẵng mềm căng sát vào mông cô như một lớp da thứ hai.

Luke dừng lại chết sững. Miệng khô ran.

Đây là lý do tại sao phụ nữ không được mặc quần ống chẽn, và anh đang nhìn thẳng vào nó. Một người đàn ông sẽ không thể nghĩ gì khác khi anh ta phải đương đầu với…với cái đó. Nó còn tệ hơn là cô không mặc gì.

Gần như. Anh nén lại tiếng rên.

Cố dời mắt khỏi cái cảnh tượng thú vị đến điên tiết đó, anh kéo một con dao nhíp ra khỏi túi áo và khom người làm nhiệm vụ lấy đá ra khỏi móng con ngựa.

Anh làm sạch móng và lấy đá ra, sau đó đổi hai cái yên ngựa. Trời trở lạnh hơn sau đó, vì thế anh rút chiếc áo khoác của anh ra khỏi túi cô và ném nó cho cô, cộc lốc nói, “Mặc vào.”

Một cái nhìn lướt qua khuôn mặt cô như thể cô muốn tranh luận, nhưng sau đó cô đầu hàng và trượt vai mình vào nó.

Nó phủ tới gần mắt cá chân cô, và khi cô gài nút, anh cảm thấy sự căng thẳng của mình đã giảm đi một chút. Anh cột túi anh và túi cô vào con ngựa bị khập khiễng, sau đó leo lên con ngựa cái.

Anh đưa tay ra với Isabella. “Lên phía sau tôi.”

Cô nhìn chăm chăm lên anh, một biểu hiện chống đối trên gương mặt cô. “Tôi sẽ không từ bỏ việc tìm kiếm em gái tôi. Tôi đi với anh bây giờ bởi vì tôi không còn lựa chọn nào khác, nhưng tôi cũng cho anh biết là tôi sẽ chạy trốn lần nữa nếu tôi có thể.”

Anh cho cô một cái nhìn cứng rắn. “Cô được mời để thử.”

Không nói thêm một lời nào, cô nắm lấy cánh tay anh, đặt chân lên bàn đạp, và vung người ra phía sau anh. Anh cảm thấy sự ấm áp của cô ở sau lưng anh, sau đó cô trượt hai cánh tay mình quanh eo anh. Anh cứng người nhưng không nói lời nào.

Anh không muốn lời qua tiếng lại với cô thêm nữa. Tối nay, khi họ đã riêng tư trong phòng ngủ, anh sẽ thực thi bài học đầu tiên cho cô trong việc là một người vợ làm vừa lòng chồng.

Hành động có ý nghĩa hơn là lời nói.

Trời đã gần như tối đen và trăng cũng đang lên, như một lát chanh nhạt. Họ đang đi về hướng đông. Anh có nhận ra không vậy? Bella tự hỏi. Cô cứ ngỡ là anh đã quay lại và đi trở lại theo hướng họ đã tới.

Hướng đông là đường đi đến Valle Verde.

Cô không nói gì. Nếu anh có nhầm hướng, cô cũng không muốn nói cho anh biết.

Anh di chuyển với tốc độ đều đều, con ngựa khập khiễng chậm rãi đi sau họ. Cô với hai cánh tay choàng quanh eo anh, má cô nghỉ ngơi trên lưng anh. Anh ấm áp và mạnh mẽ, và bất chấp sự tức giận của anh đối với cô, cô cảm thấy rất an toàn.

Anh đã rất tức giận, nhưng anh không đánh cô. Cô công khai không vâng lời anh, bỏ đi, mà anh đã hầu như không chạm vào cô, chỉ nắm chặt vai cô, nhìn chằm chằm vao cô, sau đó thả ra.

Theo giáo lý của Nhà thờ, chồng có quyền đánh những người vợ không vâng lời, và khi anh nắm lấy cô như thế, cô đã chắn chắn là anh sẽ lắc cô cho tới khi răng cô lung lay. Ít nhất thì là vậy. Nhưng anh đã không.

Một bong bóng nhỏ của hy vọng nở ra bên trong cô. Anh đã không muốn kết hôn với cô; đã cố để hủy hôn. Anh có thể để mặc cô cho số phận của mình, vậy mà anh đã đi ngần ấy đường theo sau cô.

Mặc cho ấn tượng cô đã cố nói cho anh, cô cũng không ảo tưởng về những nguy hiểm liên quan đến chuyến trở về Valle Verde của cô. Tốt hơn là anh hãy nghĩ cô trẻ người và non dạ hơn là cô đã đánh giá những rủi ro và nhận thấy chúng có thể chấp nhận được.

Đi lại ở Tây Ban Nha bây giờ cũng nguy hiểm như hồi chiến tranh – có thể còn nhiều hơn, bởi vì không thể nói ai có ý định gì. Cô đã căng mắt ra nhìn con đường phía trước, thường xuyên quay lại phía sau, và kiểm tra các ngọn đồi ở phía trên cô. Cô đi men theo các thị trấn và làng mạc hơn là đi xuyên qua chúng, và tránh xa mỗi một lữ khách trước khi cô có thể bị nhìn thấy, bảo đảm liên tục khẩu súng của cô vẫn ở thắt lưng, kể cả cầu nguyện cô sẽ không phải dùng nó.

Một người chồng thực sự muốn ruồng bỏ một người vợ không mong muốn sẽ phủi sạch tay với cô và để mặc cô cho các nguy cơ.

Luke Ripton đã cưỡi ngựa theo sau cô, đã đi một chặng đường dài, ghồ ghề, khó khăn qua những khu vực không biết rõ, với cái yên ngựa một bên, chế nhạo những rủi ro, cũng như nguy hiểm. Chỉ duy nhất ghét sự không vâng lời, nhưng dù vậy, Bella không thể không thấy đó là một dấu hiệu tích cực.

Cô ôm anh chặt hơn, hít vào mùi hương của anh. Cô nhớ nó từ khi cô còn là một cô gái trẻ, khi họ lần đầu tiên gặp nhau. Anh đã cưỡi ngựa đến để cứu cô, và sau này, anh vẫn đang làm việc đó bây giờ.

Trăng đã lên cao hơn. Ánh sáng lạnh của nó mạ bạc trên những mái nhà và tháp pháo của một tòa lâu đài trông quen thuộc. Khi họ tới gần hơn, cô nhận ra nó.

“Ell Castillo de Rasal!” cô kêu lên.

“Hả?”

“Lâu đài đó – nó là Castillo de Rasal, nhà của Marqués de Rasal,” cô hào hứng nói. “Tôi không nhận ra là chúng ta đã đến rất gần. Marques (*) là – đã là một người bạn cũ của cha tôi. Tôi biết ông ấy kể từ khi tôi còn là một cô bé. Chúng ta có thể ở qua đêm ở đó.” Cô cảm thấy một sự đột biến của niềm vui ở viễn cảnh được nhìn thấy ai đó từ quá khứ sau một thời gian rất dài. Ngài marqués đã luôn rất tử tế với Bella.

(*: hầu tước – ND)

“Ông ấy có thể không còn – không ở nhà.”

Anh định nói là ngài marqués ấy có thể không còn sống, cô nghĩ. “Chuyện đó không quan trọng. Các người hầu của ông ấy sẽ nhớ tôi và sẽ mời chúng ta ở lại, tôi biết.” Dạ dày cô kêu ầm ầm. “Ông ấy có một người đầu bếp nấu ăn rất ngon – castillo (*) nổi tiếng vì điều đó.”

(*: lâu đài – ND)

Anh không trả lời.

Bella lẩm bẩm trong vui vẻ. “Anh không thể nhìn thấy chúng trong bóng tối, nhưng điền trang này có những vườn nho rất tốt – rượu vang của Castillo de Rasal được uống khắp Tây Ban Nha. Tôi đã đến đây vài lần với cha tôi khi tôi còn nhỏ. Castillo là một lâu đài từ thời trung cổ, anh biết không, rất cổ và thiếu tiện nghi, mặc dù các phần của nó khá đẹp. Anh sẽ thấy thích khi nhìn nó trong ánh sáng ban ngày.” Cô dụi má mình vào áo khoác của anh. “Anh biết không, tôi đã nghĩ là mình sẽ phải ngủ qua đêm ở dưới đất, hoặc là bên dưới một cây cầu, nhưng thay vào đó chúng ta sẽ được ngủ trong một lâu đài.”

Cô cảm thấy anh cứng người. “Bên dưới một cây cầu?”

“Tôi không có tiền cho một nhà trọ.”

Anh khịt mũi nhưng không nói gì thêm. Họ đã đến một cái cổng đá cao.

“Đó là đường xe chạy,” Bella nói. “Rẽ vào đây.”

Anh làm ngơ. Họ đi qua cánh cổng.

Cô ấn nhẹ vào vai anh. “Dừng lại! Anh đã đi qua nó rồi! Lối rẽ vào ở đằng kia kìa.”

“Chúng ta sẽ không ở đó.”

“Nhưng tại sao không chứ? Tôi đã nói anh rồi mà, ngài marqués là một người bạn cũ của gia đình. Ông ấy sẽ rất vui khi gặp lại tôi, tôi biết mà.”

“Không.”

Bella không thể tin vào tai mình. “Nhưng tại sao chứ? Đó là một nơi tuyệt vời để ở lại.”

Không câu trả lời.

“Ngài marqués sẽ rất thất vọng vì không gặp tôi –“ cô bắt đầu.

“Vậy cô đã viết thư để ông ấy chờ cô à?”

“Không, nhưng mà-“

“Vậy thì ông ấy không lý do gì để mà thất vọng.”

Thật sự thì không có lý do gì để mà cáu kỉnh như thế. Anh lẽ ra nên biết ơn vì có thể đến thăm một marqués và ở lại trong một castillo cổ. “Tôi sẽ rất thất vọng,” cô nói với anh.

“Cô sẽ quên thôi. Chúng ta sẽ ở trọ tại Ayerbe. Chỉ còn cách vài dặm nữa thôi.”

“Nhưng tại sao phải ở trong một quán trọ làng khi mà chúng ta có thể ở trong một lâu đài chứ?”

Anh làm lơ.

Chẳng ích gì để mà tranh luận. Cái người này cứng đầu như một tảng đá ấy. Thay vào đó Bella đấm thùm vào anh. Anh chẳng có dấu hiệu gì cho thấy anh để ý tới.

Cảm thấy cú đấm giữa hai bả vai mình, Luke tự mỉm cười với mình. Cô sẽ quen với chuyện này.

Anh không nghi ngờ họ sẽ được chào đón với vòng tay rộng mở ở Castillo de Rasal, và sẽ được uống rượu vang và ăn tối xa xỉ như một vị vua, nhưng chết tiệt anh đi nếu anh phải trải qua đêm đầu tiên một mình với vợ trong một ngôi nhà của một ông lão lẩm cẩm nào đó, người sẽ tung hứng cô trên đầu gối ông như một đứa trẻ.

Luke sẽ giải quyết một lần cho tất cả đối với cái người đã mặc quần ống chẽn như thế này, và anh không muốn có nhân chứng cho cuộc đối đầu này.

Một chiến binh sẽ chọn lãnh địa của anh ta cho một cuộc đối đầu.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.