Trong đại điện của Đông cung thái tử, Lưu Giám và các
mưu sĩ đang phân tích cảnh tượng diễn ra ở phủ An Thanh vương.
Trong mắt Lưu Giám lóe
sáng, vui mừng: “Ta thấy tứ hoàng đệ nhất định là tẩu hỏa nhập ma, hắn thật sự
si mê Lý Thanh La!”.
Một mưu sĩ nói: “Tấn trò
này, thần luôn cảm thấy rất kỳ lạ. Với tư cách con người của tứ hoàng tử, nhất
định không thể ngang nhiên cướp hôn thê của Bình Nam vương ngay lúc vương
thượng vừa băng hà, chuyện này, không đúng!”.
“Nhưng quả nhân đã tận
mắt chứng kiến, biểu hiện đó của Lưu Phi không thể là giả!”.
Một người khác nói: “Điện
hạ, thần cho rằng, cứ coi hai người đó cùng thích tam tiểu thư nhà Lý tướng,
nhưng tám vạn binh mã ở Biên thành có dấu hiệu điều động, chứng tỏ tứ hoàng tử
định tranh vương vị”.
“Hắn và Lưu Giác có tư
thù, hôm nay lại bị hạ nhục trước mặt mọi người, An Thanh vương nhất định không
đứng về phía Lưu Phi!”. Lưu Giám một mực tin Tử Ly và Lưu Giác trở mặt, những
lời như vậy, cũng không mấy để tâm.
Vương Yến Hồi thong thả
bước vào đại điện, nghĩ tới vẻ xúc động bất thường không thể kìm chế của Tử Ly
khi nhìn thấy A La, thở dài: “Điện hạ, điện hạ cảm thấy tứ hoàng đệ liệu có
đứng ra tranh giành vương vị?”.
“Ta đã nhận ra từ lâu hắn
sẽ tranh giành với ta! Lần này trở về, thái độ của hắn với ta khác hẳn trước
đây”.
“Vậy thì đúng rồi, vào
lúc này sao Lưu Phi có thể gây thù địch với cha con An Thanh vương?”. Vương Yến
Hồi nói.
Thái tử nghĩ một lúc, hơi
băn khoăn: “Nhưng hôm nay trong phủ, hai người đó quả thật không phải là diễn
kịch!”.
Vương Yến Hồi thong thả
đứng lên, nhìn những chồi non vừa nhú trên đầu cành, những lá cờ tang hưu hắt
cũng không che được sức xuân đang trỗi dậy, màu xanh của mùa xuân cuối cùng đã
tìm được không gian đâm chồi nảy lộc trong mênh mông màu trắng lạnh của đất
trời. Tử Ly chính là làn xuân xanh đó, cuối cùng đã giành được không gian và
địa vị của mình với tâm thái thực mạnh mẽ. Nàng khẽ cười: “Chỉ có hai khả năng,
một là tứ hoàng đệ đã có mưu kế chu toàn chờ chàng thay đổi thái độ, cũng không
sợ thế lực của cha con An Thanh vương. Hai là, họ đã liên thủ với nhau. Bất
luận là khả năng nào đều bất lợi đối với chúng ta. Nếu là khả năng thứ nhất,
không biết sâu nông thế nào, muốn tránh cũng không tránh được; nếu là khả năng
thứ hai, trong tay bọn họ nắm trọng binh, tình hình sẽ hết sức gay go. Hơn nữa,
Phong thành đã do An Thanh vương khống chế”.
Các mưu sĩ trong đại điện
nghe Vương Yến Hồi phân tích như vậy, ghé tai nhau bàn luận. Một vị nói: “Thần
cho rằng, như thái tử phi vừa nói, nếu là khả năng thứ nhất, trong tay tứ hoàng
tử tất có chuẩn bị mà chúng ta không biết. Còn nếu là khả năng thứ hai, nếu An
Thanh vương và tứ hoàng tử liên thủ thì đây sẽ một cuộc chiến gay go”.
Lưu Giám hơi cau mày:
“Các ái khanh có đối sách gì?”.
Bên dưới lần lượt lên
tiếng.
“Thần cho rằng, nếu nghĩ
theo hướng tốt, có thể được sự ủng hộ của An Thanh vương, ắt là nắm phần
thắng!”.
“Đúng, nếu được An Thanh
vương ủng hộ, tứ hoàng tử tất bại”.
“Điện hạ, mặc dù thế,
cũng không nên tin hoàn toàn! Nếu bọn họ liên thủ với nhau thật thì cục thế
Phong thành vô cùng nguy cấp!”.
“Thần cho rằng điện hạ
trị quốc anh minh, An Thanh vương và điện hạ xưa nay quan hệ tốt, chưa hẳn đã
đứng về phía tứ hoàng tử!”.
“...”.
Lưu Giám đã hiểu, các mưu
sĩ đều mong có được sự ủng hộ của cha con An Thanh vương. Chàng trầm tĩnh nói:
“Tình cảnh quả nhân chứng kiến hôm nay, mặc dù có hoài nghi, nhưng vẫn thấy
không giống diễn trò, bất luận thế nào ta không thể khinh suất bỏ qua sự ủng hộ
của cha con An Thanh vương!”.
“Điện hạ anh minh! Được
sự ủng hộ của cha con họ, cuộc chiến này, phần thắng của chúng ta càng chắc
chắn. Chỉ có điều thần cho rằng, ta không nên tin hoàn toàn”. Một mưu sĩ trầm
ngâm.
Thái tử cau mày: “Phải
tin, muốn mượn sức của họ, lại không tin họ hoàn toàn biết xử trí thế nào?!”.
Vương Yến Hồi cười nhạt:
“Điện hạ chớ lo, cha thiếp đã định xong kế hoạch, thay hết thị vệ trong cung.
Bình Nam vương khống chế được Phong thành, nhưng không khống chế được vương
cung, nếu có biến, vương cung sẽ là tuyến phòng thủ cuối cùng của chúng ta.
Chuyện này thần thiếp đã giao cho Thành thị lang đích thân lo liệu. Tấn công
vương cung mãi không thành, Ninh quốc tất đại loạn. Như vậy, binh mã bố trí ở
các nơi cũng sẽ chia thành hai phái, một ủng hộ chàng, một ủng hộ tứ hoàng đệ,
lúc đó ai chết trong tay ai, đành dựa vào bản lĩnh của mỗi người”.
Nỗi do dự băn khoăn trong
mắt Vương Yến Hồi dần dần thay bằng vẻ dứt khoát kiên định: “Ngày mười lăm
tháng ba, nếu tứ hoàng tử và Bình Nam vương giao chiến thật, chính là cơ hội
chúng ta quăng mẻ lưới bắt gọn, nếu bọn họ liên thủ, chắc chắn đã có bố trí,
như vậy bất luận là khả năng nào, chúng ta cũng phải khiến bọn họ không thể
thoát khỏi thung lũng”.
Thái tử trầm ngâm một
lát: “Nàng đừng quên, mười lăm vạn đại quân Nam lộ của Bình Nam vương đang đợi
chúng ta ra tay trước, chính là cho bọn họ cái cớ dấy binh, cách đại lễ đăng cơ
chỉ có ba ngày, tiêu diệt tứ hoàng đệ và Bình Nam vương, quần thần trong triều
ai phục?”.
“Điện hạ quên rồi sao,
muốn xuất binh, tất phải điều động hai vạn Bắc quân của thiếp ẩn trong rừng Hắc
sơn. Đội quân này không có quân chế, tra soát cũng không ra, thắng bại đều
không can hệ gì tới Đông cung và vương thất”. Nét mặt Vương Yến Hồi lộ vẻ tự
hào, “Hơn nữa, có thể đấu với tứ hoàng đệ và Bình Nam vương cũng là vinh hạnh
của Yến Hồi!”.
Mưu sĩ vui mừng thần
phục: “Thái tử phi nói chí phải”.
Lưu Giám thở phào: “Vậy
cứ làm như kế đã định, lui cả đi!”.
“Chúng thần cáo lui!”.
Các mưu sĩ thi lễ rời đi.
Thanh Lôi đi đến ngoài
cửa điện, cung nhân vào báo thái tử và Vương Yến Hồi. Vương Yến Hồi cười cười
nói với thái tử: “Lý lương đệ đối với điện hạ tình sâu nghĩa nặng, điện hạ chớ
phụ nàng”. Nói đoạn quay người tựa tràng kỷ, tươi cười chờ Thanh Lôi.
Ánh mắt thái tử lay động,
ý tứ sâu xa: “Kỳ thực có được tấm chân tình của Yến Hồi cùng Thanh Lôi, Lưu
Giám này đã mãn nguyện rồi”.
Thanh Lôi thong thả bước
vào, hành lễ xong đứng sang một bên: “Không biết tỷ tỷ gọi Thanh Lôi đến có
việc gì?”.
“Lôi Nhi chắc không
biết...”. Thái tử kể lại chi tiết sự việc nhìn thấy trong phủ An Thanh vương,
lại thở dài, nói: “Ta đang bàn với Yến Hồi, nên hóa giải thế nào?”.
Thanh Lôi kinh ngạc: “Sao
A La lại gây ra phiền phức lớn như thế! Phụ thân thiếp nói thế nào?”.
“Lý tướng chỉ kêu đau
đầu, phủ An Thanh vương không chịu thả Thanh La về nhà, ôi chà chà!”.
“Ý điện hạ là...”. Thanh
Lôi dè dặt hỏi.
Vương Yến Hồi giọng khoan
thai: “Theo thiếp, tốt nhất đón Thanh La vào cung, đợi qua lễ đăng cơ, điện hạ
đích thân ban tú cầu, ném tú cầu chọn rể là xong”.
Thanh Lôi cười khúc
khích: “Tỷ tỷ thực thú vị, chưa biết chừng hai vị vương gia tranh giành, làm
hỏng tú cầu cũng nên”.
“Còn không ư? Hôm nay nếu
không có mặt điện hạ, hai vị đó suýt phá tan phủ An Thanh vương. Ta thấy tiểu
muội Thanh La rất không muốn lưu lại phủ An Thanh vương, nhưng không cưỡng được
Bình Nam vương, về nhà lại sợ nghe Lý tướng phàn nàn, thà vào cung chơi với Tâm
Nhi cho khuây khỏa”. Vương Yến Hồi giọng vui vẻ, nhưng ánh mắt nhìn Thanh Lôi
lạnh như băng, thầm nghĩ, nhất định phải khống chế Lý Thanh La trong tay.
Thanh Lôi hơi run, gượng
cười: “Tỷ tỷ và điện hạ cũng suy nghĩ cho A La, thật là phúc của muội ấy. Tâm
Nhi sau khi gặp A La, suốt ngày hỏi bao giờ được gặp di nương. Thiếp nghĩ, A La
chắc cũng muốn gặp Tâm Nhi”.
Vương Yến Hồi cười tươi
như gió xuân: “Muội nghĩ rất chu toàn, Bình Nam vương là tổ kiến lửa, đừng chọc
giận y. À, ngày mười lăm tháng ba y còn giao đấu với tứ hoàng đệ. Chiến đấu vì
hồng nhan, thật nghĩa hiệp!”.
Thanh Lôi cười: “Có hai
vị vương gia như vậy chăm sóc, Thanh La cũng thực may mắn”. Mắt bất giác liếc
trộm thái tử, thấy chàng vẫn trầm tư, thầm thở dài, miệng vẫn tươi cười, “Thanh
Lôi cáo lui trước, còn đi báo tin vui với Tâm Nhi”.
Thanh Lôi cúi chào lui
ra, thái tử ngồi trong điện, mắt nhìn thái tử phi. Vương Yến Hồi lơ đãng nói:
“Yến Hồi hơi mệt, điện hạ đến thăm Tâm Nhi đi”.
Thái tử nắm tay nàng ta,
nhưng trên khuôn mặt tuấn tú của chàng không giấu nổi vẻ chán ghét, chàng mỉm
cười nói: “Ái phi nghỉ sớm đi”.
Vương Yến Hồi cười cười.
Chàng đâu phải ý trung nhân của ta, lần này coi như ta giúp chàng ta lần cuối,
nếu chàng không thắng được, ta cũng hết cách. Tại Thành phủ phía tây Phong
thành, Thanh Phỉ đang khâu áo sơ sinh. Thành Tư Duyệt đẩy cửa vào, Thanh Phỉ
ngẩng đầu, dịu dàng nhìn chàng, lại cúi đầu khâu tiếp: “Tướng công hôm nay về
sớm vậy, còn mấy mũi nữa, chờ thiếp một lát!”.
Thành Tư Duyệt đi đến
ngồi trước mặt Thanh Phỉ, chớp mắt nhìn nàng. Thanh Phỉ sắp làm mẹ mà vẫn đẹp
như vậy. Chàng nhẹ nhàng đưa tay, vuốt ve cái bụng đang nhô lên của nàng, còn
năm tháng nữa, chàng sẽ làm cha: “Hôm nay tình hình vẫn tốt chứ?”.
Thanh Phỉ thoáng đỏ mặt,
mắt long lanh cười nũng nịu: “Vâng, vẫn tốt”. Nói đoạn cúi đầu cắn sợi chỉ,
trải chiếc áo bé xíu ra, “Xinh không?”.
“Tốt, mọi thứ Phỉ Nhi làm
đều đẹp, sau này bảo bối chúng ta mặc không biết sẽ đẹp thế nào!”.
Thanh Phỉ dẩu môi, “Nhưng
chàng luôn bận rộn, mấy ngày không về nhà. Sau này nếu chàng cứ thế, bảo bối
của chúng ta sẽ không nhận cha đâu”.
Thành Tư Duyệt cười dịu
dàng: “Ta hứa với nàng, đợi ta bận rộn qua lễ đăng cơ, nhất định sẽ ở bên mẹ
con nàng”.
Thanh Phỉ mãn nguyện dựa
vào lòng chàng, những việc trong nhà nàng cũng đã nghe nói. Đại tỷ Thanh Lôi từ
nhỏ đã thân với nàng, nàng hiểu nỗi khổ của tỷ ấy, còn đối với tiểu muội Thanh
La tuy không thân, những cũng chẳng có ác ý. Trong bữa tiệc ở Đông cung, vì đại
tỷ, cũng vì Thành Tư Duyệt, nàng đã làm chứng đổ tội cho Thanh La, lòng vẫn áy
náy không yên, may mà Thanh La cũng không xảy ra chuyện gì, mọi chuyện cũng đã
qua.
Đại tỷ ở trong cung, mặc
dù đắc sủng, thực tế có trăm nỗi khổ, tiểu muội Thanh La bị hai vị vương gia
tranh giành đến giờ vẫn chưa ngã ngũ. Chỉ có bản thân, từ ngày được gả vào
Thành phủ, không hề bước chân ra ngoài, cùng với Thành Tư Duyệt ngâm thơ họa
vần, sống rất hạnh phúc.
“Phỉ Nhi, nàng có biết,
từ nhỏ ta là trẻ mồ côi, có gia đình như ngày nay, tình cảm trong lòng khác với
mọi người. Nàng là thiên kim tướng phủ, lấy ta nàng sẽ khổ”. Thành Tư Duyệt
than thở.
“Tướng công nói gì vậy,
bất luận tướng công làm gì, thiếp đều ủng hộ. Chàng tốt với thiếp như thế, bây
giờ chúng ta lại sắp có con, ngày xưa sống trong tướng phủ thiếp cũng không
thấy thoải mái như bây giờ. Phỉ Nhi rất biết tự bằng lòng”.
Thành Tư Duyệt cười: “Ta
biết vì ta, bảo nàng cầm dao giết người nàng cũng sẽ làm”.
Thanh Phỉ sung sướng, giơ
tay bịt miệng chàng: “Nói gì thế, không được làm con chúng ta sợ”.
Thành Tư Duyệt đỡ nàng
đứng dậy: “Ta đưa nàng đi dạo, đi bộ nhiều mới tốt”.
Trong sân nhỏ, mấy nhành
nghênh xuân ra hoa rất đẹp, Thành Tư Duyệt hái một bông, nhẹ nhàng cài lên tóc
Thanh Phỉ: “Phỉ Nhi đẹp thật, sắp làm mẹ rồi, mỗi lần nhìn nàng ta đều thấy
hình như nàng lại đẹp hơn”.
“Ba chị em thiếp, đại tỷ
là đẹp nhất”. Thanh Phỉ cười.
“Theo ta, luận về nhan
sắc có lẽ Thanh La đẹp nhất”. Thành Tư Duyệt nói.
“Sao? Ba năm thiếp không
gặp A La, bây giờ A La còn đẹp hơn đại tỷ hay sao?”. Thanh Phỉ kinh ngạc.
Thành Tư Duyệt cười:
“Đúng thế. Có điều ta chỉ yêu một mình Phỉ Nhi của ta”. Chàng dừng lại, ánh mắt
thâm trầm nhìn nàng, mỉm cười, “Bởi vì Phỉ Nhi đã vì ta mà vứt bỏ cả lương tâm
của mình”.
Thanh Phỉ biết chàng đang
nói chuyện xảy ra trong bữa tiệc ở Đông cung ba năm trước, bất giác vừa buồn
vừa hối hận: “Chàng còn gợi chuyện cũ trêu thiếp!”.
Thành Tư Duyệt ôm nàng
vào lòng, “Lúc đó ta đã biết có ẩn tình, nhưng Phỉ Nhi có thể vì ta bất chấp
lương tâm để nói dối, mặc dù người khác chê cười nàng, nhưng trong lòng ta nàng
vẫn là người hiếm có. Bắt đầu từ lúc đó ta đã quyết lấy nàng làm vợ”.
Thanh Phỉ bỗng đỏ mặt,
bẽn lẽn: “Làm gì có lối thích người khác như thế!”.
“Ta khác người thường.
Phỉ Nhi, nàng là vợ ta, một lòng một dạ với ta, như vậy ta đã mãn nguyện rồi”.
Thành Tư Duyệt trang nghiêm nói, chần chừ một lát, lại tiếp: “Phỉ Nhi, sắp tới
tình hình rất căng thẳng, ta muốn nàng hứa với ta, không được rời phủ nửa bước.
Bất luận là ai, cho dù mẹ nàng đích thân đến đón, nàng cũng tuyệt đối không
được rời phủ!”.
Sắc mặt trầm lặng, chàng
nhìn Thanh Phỉ, vẻ rất nghiêm túc. Thanh Phỉ cười: “Thiếp hiểu, tướng công cần
làm gì cứ đi, thiếp biết, lúc này càng gần lễ đăng cơ, tình hình càng căng
thẳng”.
Mắt Thành Tư Duyệt lóe
sáng: “Nhất thiết không được vào cung, bất luận là đại tỷ cầu khẩn thế nào,
nàng đều không được đi. Trong cung rất nguy hiểm, không được giẫm vào vũng lầy
đó, càng không nên vì ta làm bất cứ chuyện gì. Chỉ cần mẹ con nàng bình an, là
ta không lo gì hết”.
Thanh Phỉ gật đầu, cười:
“Tướng công, căng thẳng như vậy sao? Bình thường chàng bận đến đâu, mấy ngày
không về nhà, cũng không thấy chàng nghiêm túc như vậy”.
“Con người ta luôn có
điểm yếu, bây giờ điểm yếu của ta là mẹ con nàng”. Thành Tư Duyệt nói nhỏ. “Ta
đã thu xếp người bí mật bảo vệ nàng, ngộ nhỡ có biến cố, sẽ đón nàng đi. Nhớ kỹ
trừ phi có người đưa mảnh ngọc bội giống như mảnh nàng mang trong người, nếu
không nhất định không được tin ai. Cho dù cha nàng đến đón, nàng cũng không
được đi”.
Thanh Phỉ không nén nổi,
bắt đầu lo lắng: “Chàng có gặp nguy hiểm không, tướng công? Thiếp sợ lắm!”.
Thành Tư Duyệt trầm
giọng: “Phỉ Nhi của ta là người cứng rắn, cho dù ta có bất trắc gì, vì con của
chúng ta nàng phải kiên cường sống tiếp, hiểu không?”.
Thanh Phỉ đỏ mặt, Thành
Tư Duyệt khẽ thở dài, “Không có đâu, trên đời chẳng ai cần cái mạng của tướng
công nàng”. Chàng lấy lại tinh thần, tươi tỉnh hẳn, ngây người nhìn Thanh Phỉ,
cảm giác bình yên lại dâng trong lòng.
Theo bố trí của An Thanh
vương, Thành Tư Duyệt bắt đầu tráo đổi người vào cung. Tương ứng, những quần
thần trung thành với Tử Ly cũng bố trí tai mắt trong cấm vệ quân. Ngày mồng
mười tháng ba, Cố tướng lấy cớ thăm con gái, sải bước dài đi vào phủ Ly Thân
vương. Tổng hợp các nguồn tin ở Phong thành, điều động binh mã ở Biên thành
khiến Tử Ly bận tối mắt, khi Cố tướng đến, chàng đang xem bản đồ địa hình khe
núi Hoàng Thủy.
“Nhạc phụ đại nhân!”. Tử
Ly cúi người hành lễ, bình tĩnh đỡ Cố tướng an tọa, “Chuyện ở An Thanh vương
phủ đã làm nhạc phụ không vui”.
“Ôi dào, đàn ông năm thê
bảy thiếp chuyện thường, huống hồ sau này con...”. Cố tướng thở dài, không muốn
nhắc lại chuyện đó, nói đến là đau đầu, quên cả thân phận của Tử Ly.
Tử Ly nói thẳng: “Nhạc
phụ hiểu lầm rồi, đó là mưu kế của Tử Ly và vương thúc, dù thái tử có tin hay
không, cũng ít nhiều mê hoặc thái tử. Sau này bất luận thế nào Thiên Lâm đều là
chính thê kết tóc xe tơ của con, con sẽ đối xử tốt với nàng”.
“Lão cáo già đó, ngay cả
ta cũng giấu!”. Miệng nói vậy mà lòng nở hoa, Cố tướng nói, “Có An Thanh vương
hỗ trợ, chuyện này sẽ thuận lợi vô cùng. Danh tính trong tờ kê này là người của
chúng ta trong cung, điện hạ hãy thu nạp”.
Tử Ly trịnh trọng tiếp
nhận: “Con và Bình Nam vương đã suy nghĩ kỹ, giao đấu ở khe núi Hoàng Thủy nên
như thế nào, nhạc phụ có cao kiến gì không?”.
“Thế nào? Đánh cho Đông
cung xem ư?”.
Tử Ly trầm ngâm rất lâu:
“Vương thúc từng trải qua trăm trận, ý của vương thúc là, đây là kế trong kế,
chúng ta định ra kế này, nhưng cũng đề phòng Đông cung tương kế tựu kế. Nghe
đồn Vương Yến Hồi mưu lược hơn người, hành quân bố trận đều tinh thông, Vương
thái úy từng nói, có đứa con gái này có thể địch với mười vạn tinh binh, không
biết thủ pháp của nàng ta thế nào”.
“Thiên Tường thống lãnh
thủy quân Nam quân đã lâu, khi luận đàm binh pháp với thống lãnh lục quân Nam
quân, người này từng nói, Vương Yến Hồi tiểu thư bài binh bố trận đều thích lưu
lại một nước cờ bất ngờ, trong mọi tình huống đều có một chiêu sau cùng, thông
thường chính chiêu này mới là tinh binh tối hậu”. Cố tướng suy nghĩ rồi trả
lời.
“Lời của nhạc phụ cũng
tương tự dự đoán của vương thúc và Bình Nam vương, đây là khe núi Hoàng Thủy,
phía bắc là phần kéo dài của dãy Ngọc Tượng, giấu binh ở thảo nguyên không
thích hợp, muốn phục binh ở khe núi cũng rất khó, bởi vì trên đó chắc chắn có
binh mã của chúng ta mai phục, cho nên họ đành từ bên này núi đánh sang khe núi
đó. Nhưng cách này rất ngốc, bởi vì chỗ cao là người của chúng ta, từ trên cao
nhìn xuống, đối phương nằm gọn trong tầm mắt chúng ta, họ bại là chắc. Chúng ta
mai phục chặn cửa khẩu vào khe núi cũng dễ, cái khó là làm thế nào để dụ địch
vào trong hẻm núi đó”.
Ngoài cửa có tiếng cười
khẽ: “Ám Dạ cầu kiến”.
Tử Ly hơi bực mình, mỗi
lần Ám Dạ đến đều nhẹ như cái bóng, chàng hạ giọng: “Mời vào!”.
Ám Dạ từ cửa sổ vọt vào,
chắp tay chào Cố tướng nhưng không lên tiếng, lôi ra từ trong người một vật để
lên án thư, nói khẽ: “Bản đồ bố trận chủ nhân giao cho”. Nói đoạn, chắp tay
hành lễ, lại vọt ra ngoài.
Cố tướng kinh ngạc: “Ô y
kỵ của An Thanh vương phủ ư? Sao ta chưa bao giờ biết bên cạnh Tử Ly cũng có Ô
y kỵ?”.
Tử Ly cười: “Vương thúc
rất tín nhiệm người này, con cũng coi trọng y”. Nói đoạn mở bản đồ bố trận, hít
một hơi, cười phấn khởi: “Đúng là diệu kế, vương thúc bản lĩnh thực cao cường!
Tử Ly khâm phục!”.
Cố tướng nghiêng đầu
nhìn, vuốt chòm râu bạc trắng, cười khà khà: “Nếu kế này mà thành, sau trận
này, Đông cung không còn khả năng tranh giành với chúng ta nữa. Lão cáo già
đúng là cáo già”.
Tử Ly đốt tấm bản đồ,
quay người hành lễ: “Như vậy, ngày mười lăm tháng ba mọi sự trong vương cung
xin trông cậy vào nhạc phụ và quần thần tâm phúc. Nhạc phụ đừng lo cho Thiên
Lâm, con đã để năm trăm thiết vệ quân trong vương phủ, binh mã còn lại đều giao
cho vương thúc, An Thanh vương sẽ đích thân chỉ huy trấn thủ Phong thành, khống
chế cục diện trong thành”.
Sau khi Cố tướng đi ra,
Tử Ly mở cửa sổ, trong gió đêm vẳng lại tiếng đàn thấp thoáng, trong đó hàm ẩn
một chút trách móc nhẹ nhàng. Sau khi trở về Phong thành, chàng chỉ gặp Cố
Thiên Lâm hai lần, những ngày này luôn một mình trong thư phòng, nàng... Tử Ly
thở dài, lặng lẽ đóng cửa sổ, tiếng đàn bị chặn lại bên ngoài, yếu dần rồi tắt
hẳn.
Chàng lấy ra bình rượu từ
Biên thành mang về, thong thả uống, cố gắng gạt đi những suy nghĩ lan man.
Chàng tự nhủ, việc quan trọng lúc này không phải là tình cảm nam nữ, tuy nhiên
khuôn mặt A La cứ hiện lên trước mặt chàng không thể khống chế, đôi đồng tử
lóng lánh, sinh động. Chàng ngửa cổ tu cạn bình rượu, cuối cùng đầu hơi chếnh
choáng. Chàng mỉm cười, như thế này có thể ngủ được rồi.
Mùa xuân bước nhanh chân,
bảy ngày đại tế đã qua, quan tài bằng ngọc của Ninh vương được chuyển lên táng
trên đỉnh núi, những lá phướn trắng trong cung được hạ xuống, núi Ngọc Tượng lộ
ra một màu xanh nhung, dần dần khôi phục sinh khí ngày xưa. Cùng với lễ đăng cơ
của tân vương đang tới, không khí cảnh giác trong vương cung càng tăng. Vương
cung đồ sộ vắng tiếng tơ trúc do Ninh vương băng hà, đêm vừa xuống càng trở nên
vắng lặng, im lìm.
Trong Ngọc Phượng cung,
Vương hoàng hậu, thái tử, Vương Yến Hồi và Vương thái úy tề tựu tại chính
đường. Ngày mai đã là ngày mười lăm, không khí bức bối trước cuộc giao chiến
khiến thái tử nóng ruột, nhưng lại khấp khởi mừng thầm. Chàng hạ giọng hỏi:
“Mẫu hậu, tại sao phụ hoàng vừa ra đi, tứ hoàng đệ cơ hồ biến thành một người
khác hẳn? Không có phụ hoàng che chở, sao hắn dám to gan như vậy?”.
Vương hoàng hậu suy nghĩ
hồi lâu nói: “Thực ra mẫu hậu luôn muốn trừ khử Lưu Phi, ai dè hắn ta bề ngoài
cơ hồ chỉ có một mình, lại luôn có thị vệ lẩn quất xung quanh, bao nhiêu năm,
chưa một lần đắc thủ. Chúng ta cũng không thấy di chiếu của phụ hoàng con, liệu
có phải đã âm thầm hạ chiếu muốn truyền ngôi cho hắn?”.
“Lo lắng của muội không
hẳn không có lý, thái tử còn nhớ chứ, khi tuyển lập thái tử phi, vương thượng
một mực muốn ban con gái Cố tướng cho Ly Thân vương? Cố tướng là nguyên lão hai
triều, môn sinh vô số, đích tử là Cố Thiên Tường nhiều năm trong quân ngũ, uy
tín rất cao, Tử Ly nếu được Cố tướng ủng hộ, tất sẽ như hổ mọc cánh. Ta thấy
lúc đó vương thượng đã có ý bồi dưỡng thế lực cho Tứ điện hạ”. Vương thái úy
nói.
Thái tử quay sang Vương
Yến Hồi: “Lúc đầu nếu không phải nghe kiến nghị của nàng, trong tay Lưu Phi đâu
có binh quyền? Khống chế hắn trong thành, giết hắn dễ như giết kiến!”. Khẩu khí
đã thoáng ý chỉ trích.
Vương Yến Hồi giật mình,
nhưng vẫn bình tĩnh nói: “Nếu không tước Hữu quân trong tay An Thanh vương, cha
con cùng dấy binh, chàng và tứ điện hạ đều không có cơ hội. Hiện nay ít nhất An
Thanh vương bề ngoài tỏ ra ủng hộ Đông cung chúng ta, cho dù ông ta liên thủ
với tứ hoàng đệ, lực lượng của bọn họ và chúng ta cũng tương đương! Nên biết
Hữu quân trên danh nghĩa là do Ly Thân vương thống lĩnh, Ly Thân vương khi sử
dụng cũng đâu có thuận lợi như An Thanh vương? Vì vậy sức chiến đấu cũng sẽ yếu
vài phần. Nam quân trong tay Bình Nam vương cũng vậy, lực lượng của họ Vương
chúng ta, cho dù bị bọn họ diệt bảy tám phần, cũng vẫn còn hai ba phần trong
tay”.
Nàng từ từ liếc nhìn mọi
người xung quanh, nhìn phụ thân Vương thái úy. Vương thái úy cười hà hà, thần
sắc ngạc nhiên: “Nội ứng của chúng ta ở Nam quân cho biết, Nam quân trấn giữ
bên ngoài cổng nam thành, ba vạn binh mã đã chia ra trấn thủ các cổng của Phong
thành, không thể khinh suất điều động, vì vậy chỉ có một vạn quân sĩ điều về
phía tây. Tin từ Biên thành cho biết, Ly Thân vương chỉ mang hai vạn Hữu quân,
hai vạn quân này lập trại ở khe núi Hoàng Thủy”.
“Có nghĩa là có hai khả
năng, một là hai người đó định giao chiến một trận thật sự, hai là hai người họ
liên thủ bày trận định nuốt chửng một phần binh mã chúng ta. Nếu là khả năng
thứ nhất, đợi hai người đánh nhau một chặp, chúng ta tiện thể cất một mẻ lưới
bắt giết Ly Thân vương! Nếu là khả năng thứ hai, họ cũng giả bộ đánh một hồi,
chúng ta cũng nhân lúc tình hình rối loạn mà ra tay. Hai người binh lực hợp lại
cũng không quá ba vạn binh mã, đến lúc đó điện hạ lấy cớ sợ hai tiểu đệ bị tổn
thương, mang năm vạn binh mã Đông quân của chúng ta đến, còn hai vạn tinh binh
Bắc quân sẽ nấp phía sau, đợi lúc bọn họ không đề phòng sẽ ra tay”. Vương Yến
Hồi thong thả nói kế hoạch.
Mắt thái tử sáng bừng,
phấn khởi, không kìm được nắm tay Vương Yến Hồi: “Có ái phi định kế, coi như
yên tâm”. Bất chợt lại lo lắng: “Nhưng nếu vậy, ta đi khỏi, chẳng phải vương
cung bỏ trống sao?”.
Vương thái úy cười: “Thái
tử yên tâm, binh sĩ cấm vệ quân trong cung, ta đã nắm trong tay tám, chín phần,
Thành thị lang theo lệnh của ta đã sớm bố trí đâu vào đó. Bọn họ không động
binh, không có nghĩa chúng ta không động, chỉ cần nhận được tin báo từ phía
tây, Đông quân của ta lập tức từ cổng đông thành nghênh đón thái tử vào Phong
thành. Binh sĩ thủ thành không quá ba vạn, cứ coi cộng thêm sáu vạn Nam quân,
sao có thể địch nổi mười lăm vạn đại quân của ta? Hơn nữa, lại có Yến Hồi trấn
thủ trong cung”.
“Chẳng lẽ sáu vạn Nam
quân còn lại không có động tĩnh gì?”. Vương hoàng hậu hỏi.
Vương Yến Hồi đáp: “Mẫu
hậu có lẽ không biết, sáu vạn Nam quân kia hiện đã rất khó điều động, họ còn lo
đối phó mười lăm vạn Đông quân của ta đồn trú tại ngoại ô phía đông. Chỉ riêng
binh lực, họ đã không bằng Đông quân. Nhưng chúng ta cũng không thể khẳng định
Ly Thân vương đã liên thủ với cha con An Thanh vương, cho nên chỉ có thể phòng
không thể đánh. Chúng ta biết hai người họ sẽ thực chiến ở khe núi Hoàng Thủy,
nhưng họ lại không biết chúng ta có đến hay không, đến lúc này, chúng ta đã nắm
chắc ưu thế”. Trong lòng Vương Yến Hồi thầm nghĩ, thực ra thái tử không đi mới
là cách hay nhất, đã biết Nam quân và Hữu quân cộng lại vẫn chưa mạnh bằng Đông
quân, đợi bọn họ thực sự tấn công Phong thành, triển khai chiến trận mới là kế
hay. Chỉ có điều... nàng thở dài, ai bảo nàng là người đưa ra quyết định?
Thái tử nghĩ một lát, nở
nụ cười thỏa mãn, chuyển hướng suy nghĩ, nói: “Bất luận hai người liệu có phải
đánh nhau vì Lý Thanh La thật không, Lý Thanh La cũng là con bài vô cùng quan
trọng đối với cục diện này, chúng ta phải nghĩ cách đưa nàng ta vào cung trước
ngày mười lăm tháng ba”.
Vương Yến Hồi cười: “Điều
đó còn phải xem thái tử có nỡ hay không!”.
Thái tử nghi hoặc nhìn
nàng. Vương Yến Hồi nói: “Theo thiếp quan sát, Lý Thanh La cũng chẳng mấy thân
thiết với đại tỷ và cả nhà Lý tướng, nhưng thiếp thấy cô ta thực lòng thích Tâm
Nhi”.
“Không được! Tâm Nhi còn
nhỏ, không được đưa vào chỗ nguy hiểm!”. Thái tử nói như đinh đóng cột.
Vương Yến Hồi vẫn tươi
cười: “Thiếp biết điện hạ không nỡ mà, cho nên, thiếp chỉ đưa tỳ nữ của nàng ta
vào cung. Thị vệ của nàng ta võ công cao cường, đả thương hơn mười cao thủ của
thiếp, cũng được, để bọn họ trở về đưa thư”.
“Như vậy, chẳng phải rút
dây động rừng hay sao?”.
“Thiếp thấy hai người đó
có tình ý, thiếp chỉ nói với anh ta, chuyện này chỉ cần cho Lý Thanh La biết,
thêm một người biết, coi như chờ nhận thêm một cái xác”.
Khi Vương Yến Hồi nói ra
câu đó, Lưu Anh người đầy máu quỳ trước mặt Lưu Giác, kể lại chi tiết sự việc.
Lưu Giác cau mày, hỏi: “Vậy tại sao ngươi không nói cho một mình A La biết?”.
Lưu Anh cười: “Chúa
thượng đã dặn, nhất định phải bảo vệ tiểu thư, nói cho tiểu thư biết, tiểu thư
không xông vào cung mới lạ. Lưu Anh đã trung thành với tiểu thư, sao có thể để
tiểu thư biết mà hại tiểu thư!”.
Mắt Lưu Giác lộ vẻ cảm
động: “Ngươi yên tâm, bản vương sẽ trả Tiểu Ngọc nguyên vẹn cho ngươi”.
“Tạ ơn chúa thượng, Lưu
Anh không dám lộ mặt trước tiểu thư, bây giờ sẽ tìm chỗ dưỡng thương”.
“Nếu vết thương không quá
nặng, ngươi hãy đến chỗ của Cáp tổ. Ám Dạ đang có việc phải làm, thời gian này
Ô y kỵ do ngươi phụ trách”. Lưu Giác nói, ném cho Lưu Anh lọ thuốc trị thương.
Lưu Giác nhắm mắt chậm
rãi suy nghĩ. Đông cung không thật sự tin mình và Tử Ly trở mặt, nhưng lại
không thể khẳng định hai bên liệu có liên thủ hay không. Tình hình này đã nằm
trong suy đoán của ta, mọi bố trí đều nỗ lực theo hướng này. Ngày mai đã là
mười lăm tháng ba, tất thảy mọi thứ đều sẽ kết thúc trong ngày này. Chàng đột
nhiên thấy hoang mang, đứng dậy đi về phía phòng ngủ.
Trong phòng, A La đang
chơi đàn, miệng khẽ hát khúc hát đã hát ở Lâm Nam: “Chim bay mỏi cánh chạm chân
sông, rồng vẫy chán vắt ngang lưng núi, non non nước nước muôn trùng gấm, hải
đường diễm sắc nhớ chàng mà say”.
Lưu Giác đứng ngoài cửa
ngây người nghe. Lúc này, trong lòng A La đã có chàng. Nụ cười ấm áp trên môi,
chàng đẩy nhẹ cửa nói đùa: “Ta cũng say đây!”.
A La đỏ mặt, dừng tay.
Hôm nay nàng đặc biệt bảo Tư Họa chải tóc cho mình thật kỹ, những sợi tóc mai
bay bay, như sương như khói, đôi mắt lóng lánh thủy tinh, chan chứa tình cảm mà
chàng không biết, Lưu Giác đột nhiên đứng ngây ra. A La mỉm cười nói khẽ:
“Chàng đang định nói, ai bảo thiếp ăn vận thế này chứ gì? Không đẹp sao?”.
Lưu Giác hơi bất lực, vẻ
sôi nổi bông lơn ngày xưa đã bay biến đi đâu, chàng ấp úng: “Không đâu, rất...
rất đẹp mà”.
A La lườm chàng: “Đàn ông
khi yêu đều rất ngốc!”.
Lưu Giác vẫn ngơ ngẩn,
bất giác gật đầu. Lát sau mới định thần, nói: “Ý ta là nàng chỉ được mặc cho
mình ta ngắm!”.
“Vậy, sau này thiếp ra
ngoài cũng khỏi cần mặc trang phục nữa hay sao?”. A La nghĩ, đấy là nàng còn
chưa mặc mấy kiểu hở hang, e rằng như vậy sẽ khiến chàng chết khiếp! “Hả, nàng
dám! Những lời thương phong bại tục như vậy mà nàng cũng dám nói?”. Lưu Giác
mặt đỏ bừng, nha đầu này trở nên to gan như vậy từ lúc nào?
“Thiếp không chỉ nói
được, mà còn làm được!”. A La từ từ kéo giải áo, chiếc áo choàng bên ngoài tuột
xuống, bên trong chỉ có chiếc váy mỏng và yếm ngực màu xanh nhạt, lộ ra đôi tay
và bờ vai trần.
Lưu Giác hoảng hốt nhảy
đến, nhặt chiếc áo choàng bọc lấy nàng: “Nàng làm gì vậy!”.
“Chàng không muốn sao?
Chẳng may ngày mai chàng có mệnh hệ gì... thiếp không muốn hối hận!”. A La bình
tĩnh nói. Nàng không có tư tưởng bảo thủ như người xưa, lại sợ nhỡ có chuyện gì
sẽ không gặp được người đàn ông như Lưu Giác nữa.
“Không có chẳng may nào
hết! Ta nhất định bình an trở về, đợi mọi sự hoàn tất, ta sẽ cưới nàng về phủ,
ta muốn là của nàng vào đêm động phòng!”. Lưu Giác nói.
A La thở dài, hết cách.
Người ở đây đầu óc bảo thủ, khi người ta không muốn lại dường như chỉ muốn ăn
tươi nuốt sống, đến khi người ta muốn cho lại nghĩa hiệp chối từ. Xem ra mình
vẫn đánh giá cao thân xác mình rồi, tưởng là chàng nhìn thấy là lập tức ngất
xỉu. Lưu Giác khẽ khàng giúp nàng sửa lại trang phục, kéo nàng vào lòng: “A La,
nàng phải hứa với ta, ở trong vương phủ đợi ta quay về. Bên ngoài rất loạn,
không nên đi đâu. Hãy tin ta, được không?”.
A La nhìn chàng, khuôn
mặt đó nàng càng nhìn càng thấy đẹp. Tất cả kể cả con người chàng và những thứ
đang có đều đẹp đến nỗi khiến nàng bất giác hoài nghi, không biết sau này liệu
còn gì trắc trở? Liệu có thể suốt đời sống yên ổn cùng chàng? Mặc dù Lưu Giác
không nói với nàng tình hình chuẩn bị cho cuộc chiến ở khe núi Hoàng Thủy,
nhưng nhìn vẻ bận rộn những ngày vừa qua của chàng, A La cũng đoán ra tình hình
căng thẳng nguy hiểm trong đó. Đây là cuộc chiến tranh giành vương vị, chiến
tranh thời kỳ vũ khí lạnh vô cùng thảm khốc, nghĩ đến cảnh chiến trường đầy xác
chết, máu chảy thành sông, nàng bất giác tim đập chân run. Cũng muốn hỏi chàng
tình hình, đưa ra chút ít kiến nghị, nhưng lại sợ mình không có tri thức quân
sự, ngộ nhỡ nói sai làm hỏng việc, nhưng không hỏi lại không yên tâm: “Có thể
cho thiếp biết tình hình ở khe núi Hoàng Thủy không?”.
Lưu Giác vốn không muốn
cho nàng biết, sợ nàng lo lắng, chàng cảm thấy đánh trận là việc của đàn ông.
Nghe nàng hỏi, chàng nghĩ một lát, nhân tiện rà soát lại lộ trình lần nữa, sau
đó lấy bút vẽ tình hình đại khái, giảng cho nàng nghe.
A La nghe đến đoạn Lưu
Giác nói, trên thảo nguyên chỉ có cỏ thấp, không có cách nào ẩn náu mai phục,
đột nhiên nghĩ tới bộ phim từng xem, hỏi: “Nếu binh sĩ vận trang phục như màu
cỏ, lấy cỏ làm y phục, bôi mặt màu xanh và màu đất, không mang theo cờ, mai
phục trên thảo nguyên, chắc sẽ không bị phát hiện?”.
Lưu Giác ngẩn người, rồi
kinh ngạc mừng rỡ: “Nàng luôn nghĩ ra kế vặt gì đó, nhưng lại rất hữu dụng”.
Hôn nàng thật kêu rồi chàng quay người chạy đi.